1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gút là bệnh lý chuyển hóa liên quan đến tăng nồng độ acid uric trong máu,
đặc trưng bởi những đợt viêm khớp cấp hoặc viêm khớp mạn tính do lắng đọng
tinh thể mononatri urat trong các khớp và mô liên kết [1],[2]. Trong thời gian dài
trước đây, gút được coi là bệnh hiếm gặp và là căn bệnh của người giàu có. Từ
những năm đầu của thế kỉ 21, tỷ lệ bệnh gút và tăng acid uric đang gia tăng rất
nhanh trên thế giới. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh, tuổi và giới của người
bệnh, các bệnh liên quan, đáp ứng điều trị, hậu quả xấu của bệnh, mối liên quan
của bệnh với các bệnh lý tim mạch, bệnh lý thận… có nhiều thay đổi theo chiều
hướng không tốt khiến bệnh đã trở thành “bất trị” trên nhiều bệnh nhân [3]. Kể
cả ở các nước phát triển, bệnh cũng không được quản lý và theo dõi chặt chẽ
làm gia tăng tỷ lệ bệnh tật, tử vong, tàn phế và giảm chất lượng cuộc sống. Bệnh
gặp chủ yếu ở nam giới, tuổi trung niên. Tại Việt Nam trong giai đoạn 19781989 tỷ lệ bệnh gút chiếm 1,5% các BN mắc bệnh cơ xương khớp và theo một
nghiên cứu về mô hình bệnh tật tại khoa cơ xương khớp bệnh viện Bạch Mai
trong 10 năm (1991-2000) thì gút chiếm tỷ lệ là 8,57% [4].
Tại Việt Nam, đã có nhiều đề tài về bệnh gút được thực hiện, tuy nhiên
các đề tài này chủ yếu tập trung vào các khía cạnh chẩn đoán và điều trị. Cho tới
hiện tại, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy nghiên cứu nào đánh giá về chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân mắc bệnh gút. Thực tế, gút thuộc các bệnh viêm khớp
có thể chữa trị được bằng cách sử dụng các thuốc giảm acid uric máu dài hạn kết
hợp với thay đổi lối sống và chế độ ăn. Điều quan trọng nhất là nhận thức của
nhân viên y tế và bệnh nhân về tầm quan trọng của bệnh, vai trò của điều trị,
theo dõi, kiểm soát bệnh gút và các bệnh liên quan cũng như việc các ảnh hưởng
của bệnh tới chất lượng cuộc sống, công việc và sinh hoạt hàng ngày của bệnh
nhân[5], [6].
2
Hiện nay rất nhiều thầy thuốc và các nhân viên y tế quan tâm đến việc đo
lường chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân mắc bệnh mạn tính. Trong đó gút
là một bệnh mãn tính ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống, công việc
cũng như sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân. Việc đánh giá hiểu quả và lợi ích
của các phương pháp điều trị gút không chỉ căn cứ vào khả năng kiểm soát bệnh
mà còn dựa vào cả sự cải thiện chất lượng cuộc sống sau điều trị. Việc đánh giá,
đo lường mức độ hoạt động và tổn thương của gút là nền tảng trong phác đồ
điều trị bệnh nhưng lại thường không phản ánh chất lượng cuộc sống của người
bệnh. Nhiều trị chứng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống
của người bệnh gút như sung đau các khớp, hạn chế vận động, xuất hiện các hạt
tophi… Như vâỵ có thể thấy chất lượng cuộc sống là một yếu tố vô cùng quan
trọng trong việc đánh giá hiệu quả chăm sóc y tế trên các bệnh nhân nói chung
và bệnh gút nói riêng. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện chưa có các nghiên cứu đánh
giá về vấn đề này. Do đó , chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng chăm
sóc và chất lượng cuộc sống của người bệnh gút tại Khoa Cơ xương khớp
Bệnh viện Bạch Mai năm 2019” với hai mục tiêu sau:
1.
Mô tả thực trạng chăm sóc của điều dưỡng trên bệnh nhân gút trị tại Khoa
Cơ xương khớp Bệnh viện Bạch Mai năm 2019.
2.
Mô tả chất lượng cuộc sống được đánh giá bằng thang điểm SF-36 ở
những bệnh nhân gút liên quan đến chăm sóc và một số yếu tố khác trong
thời gian điều trị tại Khoa.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa, phân loại và tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh gút
1.1.1. Định nghĩa
Gút là bệnh khớp vi tinh thể do rối loạn chuyển hóa các nhân purin, có đặc
điểm chính là tăng acid uric máu, bão hòa acid uric ở dịch ngoại bào gây lắng
đọng tinh thể monosodium urat ở các mô. Các triệu chứng lâm sàng chính là:
viêm khớp do gút, hạt tophi, bệnh thận do gút và sỏi uric [7],[8].
1.1.2. Dịch tễ học bệnh gút
Gút là bệnh thường gặp ở các nước phát triển nhưng hiện nay cũng thường
thấy ở các nước đang phát triển và bệnh có xu hướng tăng lên, theo các nghiên
cứu tại Anh tỷ lệ gút đã tăng từ 0,14 % năm 1975 lên 1,4% năm 2005 [9]. Trong
người có tăng acid uric đơn thuần, có tới 40 - 50% trở thành bệnh gút [10]. Gút xảy
ra chủ yếu ở nam giới nhưng gần đây tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới có xu hướng tăng
lên. Hiện nay, tỷ lệ nam/nữ mắc bệnh hiện là 3 - 4/1. Độ tuổi mắc bệnh chủ yếu là ở
độ tuổi trung niên đến cao tuổi đối với nam giới và ở giai đoạn sau mãn kinh đối
với nữ giới [5],[11]. Tỷ lệ mắc bệnh tăng dần theo tuổi, chiếm 7% ở nam giới trên
65 tuổi và 3% ở nữ giới trên 85 tuổi. Bệnh khởi phát ở lứa tuổi trẻ hơn (20 - 30
tuổi) đang tăng lên, với tỷ lệ đáng kể (5 - 7%)[11]. Nam giới mắc bệnh ở tuổi càng
trẻ thì bệnh càng nặng [8]. Tỷ lệ mắc bệnh chung trên toàn thế giới là 1 - 10% và có
sự khác biệt khá lớn giữa các quốc gia. Tỷ lệ mắc bệnh cao (khoảng 10%) thường
gặp ở các nước phát triển như: Mỹ, Canada, Hy Lạp, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan,
Australia, New Zealand, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore. Trong đó, nước có tỷ
lệ mắc bệnh cao nhất là Đài Loan (nam 9,5%, nữ 2,8%), tiếp theo là Mỹ (nam 6%,
4
nữ 2%) và New Zealand (nam 6%, nữ 2%). Tại một số quốc gia như Cộng hòa Séc,
Hàn Quốc, tỷ lệ mắc bệnh rất thấp (dưới 1%)[5],[11].
Hiện Việt Nam chưa công bố tỷ lệ mắc bệnh chung và chỉ có một số
nghiên cứu nhỏ lẻ ước đoán về số lượng và tỷ lệ bệnh nhân gút trong dân số.
Theo thống kê năm 2000 ở phường Trung Liệt - Hà Nội và huyện Tân Trường Hải Dương, tỷ lệ mắc bệnh gút chiếm 0,14% dân số . Do sự phát triển của kinh
tế, xã hội và sự gia tăng về tuổi thọ, bệnh ngày càng được quan tâm chẩn đoán
hơn. Theo khảo sát tại bệnh viện Chợ Rẫy, gút chiếm khoảng 10-15% các bệnh
lý xương khớp điều trị tại đây [12]. Tại Việt Nam trong giai đoạn 1978-1989 tỷ
lệ bệnh gút chiếm 1,5% các BN mắc bệnh cơ xương khớp điều trị nội trú tại
khoa cơ xương khớp bệnh viện Bạch Mai và theo một nghiên cứu trong 10 năm
(1991-2000) thì tỷ lệ này là tăng lên là 8,57% [4]. Bệnh gặp chủ yếu ở nam giới,
tuổi trung niên và một số có tính chất gia đình. Nghiên cứu dịch tế cho Tổ chức
Y tế thế giới và hội thấp khớp học châu Á- Thái Bình Dương tiến hành tại một
số tỉnh miền Bắc Việt Nam vào năm 2000 cho thấy tỷ lệ mắc gút là 0,14% ở
người trưởng thành [13].
1.1.3. Phân loại bệnh gút
1.1.3.1. Bệnh gút do các bất thường về enzym
Bệnh gút do các bất thường về enzym là thể bệnh di truyền do thiếu hụt hoàn
toàn hay một phần enzym HPRT hoặc tăng hoạt tính enzym PRPP. Bệnh Lesch Nyhan do thiếu enzym HPRT rất hiếm gặp và rất nặng. Lượng acid uric tăng cao
ngay từ nhỏ và có các biểu hiện toàn thân, thần kinh, thận và khớp [14],[15].
1.1.3.2. Bệnh gút nguyên phát
Bệnh gút nguyên phát là thể bệnh chưa rõ nguyên nhân gây ra. Đây là thể
bệnh thường gặp nhất (chiếm 95% các trường hợp). Bệnh có liên quan với các
yếu tố gia đình, lối sống - chế độ ăn và một số bệnh rối loạn chuyển hóa khác
(đái tháo đường, rối loạn lipid máu, bệnh lý tim mạch…) [12].
5
1.1.3.3. Bệnh gút thứ phát
Bệnh gút thứ phát: là thể bệnh xuất hiện sau một số bệnh lý khác dẫn đến
tăng sản xuất acid uric trong máu hoặc giảm đào thải acid uric hoặc cả hai, cụ
thể như sau:
+ Suy thận và các bệnh lý làm giảm độ thanh thải của acid uric [12],[14].
+ Các bệnh lý huyết học ác tính như bệnh đa hồng cầu, một số bệnh thiếu
máu do tan máu, lơ-xê-mi cấp thể tủy, hodgkin (u lympho hodgkin), sarcoma
hạch, đa u tủy xương, có sử dụng các phương pháp diệt tế bào (hóa chất, phóng
xạ) gây phá hủy nhiều tế bào, tổ chức, dẫn đến thoái hóa purin nội sinh [12].
+ Sử dụng một số thuốc như steroid, thuốc kháng lao, thuốc gây đọc tế bào
để điều trị các bệnh ác tính hay thuốc lợi tiểu (furosemid, thiazid…) gây tăng
acid uric máu, có thể dẫn đến bệnh gút [2],[12].
+ Chế độ ăn thực phẩm có chứa nhiều purin như: thịt và nội tạng động vật
(gan, thận), hải sản (tôm, cua)…, uống nhiều rượu, bia, nước ngọt là nguyên
nhân làm nặng thêm bệnh [12],[14].
+ Một số nguyên nhân hiếm gặp khác cũng có thể gây bệnh gút thứ phát
bao gồm: bệnh thận do thai nghén, suy tuyến giáp, gan nhiễm glycogen, cường
cận giáp [14].
1.1.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán gút là phát hiện tinh thể muối urat lắng đọng
ở dịch khớp hoặc hạt tophi. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam việc xét nghiệm tinh
thể urat từ dịch khớp ít được thực hiện mà chủ yếu thông qua triệu chứng lâm
sàng điển hình kết hợp với xét nghiệm acid uric máu.Tiêu chuẩn chẩn đoán của
Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ và Liên đoàn Chống thấp khớp Châu Âu năm 2015
có ưu điểm vượt trội hơn các tiêu chuẩn trước đây:
6
Bảng 1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán gút
Đặc điểm
Tiêu chuẩn
Điể
m
Lâm sàng
Đặc điểm viêm một hay vài khớp
Tính chất đợt viêm cấp
- Đỏ khớp
- Không chiệu được lức ép hoặc sở vào
khớp viêm
- Khó khăn khi đi lại hay vận động
khớp
Đặc điểm thời gian
Có ≥2 đợt đau cấp, không đáp ứng
thuốc, thời gian tối đa <24h
- Khỏi triệu chứng đau trong vòng 14
ngày
- Khỏi hoàn toàn giữa các đợt cấp
Cận lâm sàng
Khớp cổ chân/khớp giữa bàn 1
chân
Khớp ngón chân cái
2
Không có tính chất
1 tính chất
2 tính chất
0
1
2
3 tính chất
3
Không có đợt đau điển hình
Có 1 đợt
Có đợt tái phát
0
1
2
>10 mg/dl
8-10 mg/dl
Xét nghiệm acid uric máu
6-8 mg/dl
4-6 mg/dl
<4 mg/dl
Không phát hiện tinh thể urat
Xét nghiệm dịch khớp
Tối đa
Chẩn đoán hình ảnh
Có lắng đọng tinh thể urat:
- US: dấu hiệu đường đôi
Không hoặc không làm
- DECT: bắt màu đặc biệt
Có lắng đọng tinh thể urat
Xquang: Hình ảnh bào mòn ở bàn tay Không hoặc không làm
hoặc bàn chân
Có hình bào mòn
Chẩn đoán gút (+)
Tổng điểm
4
3
2
0
-4
-2
0
0
4
0
4
≥8
Nguồn:Theo Tiêu chuẩn chẩn đoán của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ và
Liên đoàn Chống thấp khớp Châu Âu (2015)[5]
1.2. Điều trị bệnh gút
7
1.2.1. Nguyên tắc chung
- Cần điều trị viêm khớp cấp trước. Chỉ sau khi tình trạng viêm khớp đã hết
hoặc thuyên giảm mới bắt đầu dùng thuốc hạ acid uric máu [14].
- Dự phòng những đợt viêm khớp cấp tái phát, dự phòng lắng đọng urat
trong các tổ chức và dự phòng biến chứng thông qua điều trị hội chứng tăng acid
uric máu [16],[2],[14],[3].
- Điều trị các bệnh lý kèm theo, đặc biệt là nhóm các bệnh lý rối loạn
chuyển hóa như: tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, thừa cân béo
phì…[12],[14].
- Thường xuyên kiểm tra acid uric máu và niệu, kiểm tra chức năng thận
của bệnh nhân [14].
- Tăng chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân [12].
1.2.2. Mục tiêu điều trị
- Kiểm soát acid uric, đưa acid uric máu về mức “mục tiêu” < 6 mg/dl
(360µmol/l) cho mọi bệnh nhân và < 5 mg/dl (320µmol/l) cho bệnh nhân có
tophi bằng các thuốc làm giảm acid uric máu [1],[2],[17],[18].
- Điều trị các bệnh mắc kèm, kiểm soát tác dụng phụ của thuốc [12],[3].
1.2.3. Phương pháp điều trị không dùng thuốc
1.2.3.1. Chế độ ăn với người bị gút
a) Những thức ăn không có lợi cho bệnh nhân [16],[2],[3],[19].
- Tránh các thực phẩm giàu đạm có hàm lượng purin cao như: phủ tạng
động vật (lách, gan, thận, dạ dày, lưỡi…). Tránh sử dụng đồ uống có gas, nước
ngọt vì chứa nhiều đường fructose là yếu tố làm khởi phát bệnh gút.
- Hạn chế các loại thịt đỏ (thịt cừu, trâu, bò, lợn, chó, dê…), các loại hải
sản (tôm, cua, cá béo, động vật vỏ cứng); đạm thực vật như các loại đậu ăn cả
hạt: đậu Hà lan, đậu trắng, đậu đỏ, đậu xanh.
- Giảm các loại thực phẩm giàu chất béo no như: mỡ, da động vật, thức ăn
chiên, rán, quay…
8
- Kiêng đồ uống có cồn (rượu, bia...) và các thứ có tính chất kích thích như
ớt, muối ăn, cà phê…
b) Những thức ăn có lợi cho bệnh nhân gút [14],[3].
- Cần ăn nhiều rau xanh, hoa quả không chua, các thực phẩm giàu chất xơ,
nhiều vitamin C, giàu bêta carotene và vitamin E như: Vitamin C trong rau ngót,
càn tây, rau muống, cà chua… Bêta carotene trong cà rốt, gấc, bí đỏ, chuối tiêu
chin, đu đủ chín…
- Người bị bệnh gút nên uống nhiều nước (2-3 lít/ngày), nên uống các loại
nước khoáng không gas có độ kiềm cao giúp đào thải acid uric và hạn chế kết
tinh urat tại ống thận.
1.2.3.2. Chế độ sinh hoạt với người bị gút
- Giữ mức cân nặng hợp lý, giảm cân ở người béo phì.
- Vận động nhẹ nhàng, vừa sức. Tập luyện nhẹ nhưng thường xuyên.
- Tránh làm việc nặng, quá sức hoặc luyện tập thể thao cường độ mạnh.
Tránh những nguy cơ xảy ra chấn thương.
- Giữ ấm cơ thể, tránh lạnh.
- Giữ tinh thần luôn thoải mái, tránh căng thẳng (stress là một trong các yếu
tố gây khởi phát cơn gút cấp) [3],[2],[2, 14].
1.2.4. Sử dụng thuốc điều trị bệnh gút
1.2.4.1. Thuốc chống viêm
a) Colchicin
Colchicin có tác dụng giảm đau và chống viêm đặc hiệu với cơn gút cấp
hoặc đợt cấp của gút mạn tính.
Colchicin được chỉ định trong cơn gút cấp nhưng cần dùng càng sớm càng
tốt; dự phòng cơn gút cấp ở bệnh nhân gút mạn và được sử dụng như một test
thăm dò trong chẩn đoán [2],[12],[20].
b) Thuốc chống viêm không steroid
9
Các NSAIDs thường dùng trong điều trị cơn viêm khớp gút cấp như
diclofenac, indomethacin, naproxen, ibuprofen, piroxicam…, các nhóm thuốc ức
chế chọn lọc COX-2 (celecoxib, etoricoxib…). Các thuốc này thường được chỉ
định đơn trị liệu hay phối hợp với colchicin nhằm giảm đau trong các cơn gút
cấp [2],[12],[21].
Đặc biệt, đối với người cao tuổi và người có bệnh kèm theo, cần thận trọng,
cân nhắc khi dùng, chỉ nên sử dụng thuốc này trong thời gian ngắn và với liều
thấp. Thuốc cần tránh dùng đối với bệnh nhân bị suy gan, suy thận nặng, viêm
loét dạ dày - tá tràng tiến triển hay bệnh lý chảy máu không được kiểm soát
đang dùng thuốc chống đông. Lưu ý không nên phối hợp các thuốc trong cùng
nhóm do không tăng tác dụng điều trị mà lại gia tăng các tác dụng phụ [12].
c) Glucocorticoid
Thuốc có nhiều tác dụng phụ và do tình trạng lạm dụng thuốc ở nước ta nên
nhóm thuốc này không được khuyến khích sử dụng [14],[11]. Chỉ sử dụng các
glucocorticoid khi các thuốc NSAIDs hay colchicin không cho kết quả hoặc có
chống chỉ định nhưng cần rất hạn chế và chỉ nên dùng ngắn ngày [2],[12],[15].
Đường tại chỗ (tiêm glucocorticoid trực tiếp vào ổ khớp viêm) phải được thực
hiện bởi thầy thuốc chuyên khoa cơ xương khớp sau khi loại trừ viêm khớp
nhiễm khuẩn [2].
1.2.4.2. Thuốc giảm acid uric máu
a) Nhóm thuốc ức chế tổng hợp acid uric
+ Alopurinol :
Alopurinol được lựa chọn ưu tiên trong điều trị gút mạn tính [2],[12]. Liều
khởi đầu của alopurinol không quá 100 mg/ngày trong vòng 1 tuần, sau đó tăng
200-300/ngày. Nồng độ acid uric máu thường trở về bình thường với liều 200300mg/ngày. Không nên chỉ định trong trong cơn gút cấp mà nên chỉ định khi
10
tình trạng viêm khớp đã thuyên giảm, sau 1-2 tuần sử dụng colchicin [2]. Khi
cần thiết, có thể dùng liều cao hơn (tối đa 800 mg/ngày) [12],[3].
Đối với bệnh nhân suy thận độ 4 trở lên, sử dụng liều không quá 50
mg/ngày để giảm khả năng gây cơn gút cấp trong thời gian đầu điều trị và giảm
nguy cơ xảy ra các phản ứng quá mẫn liên quan đến alopurinol [3].
+ Febuxostat
Febuxostat là thuốc ức chế xanthin oxidase mới, không có nhân purin, có
tác dụng làm giảm sản xuất acid uric. Thuốc này được chỉ định kết hợp với
alopurinol hoặc thay thế khi không đáp ứng hoặc không dung nạp hay dị ứng với
các thuốc kinh điển. Liều khởi đầu 40 mg/ngày, tăng dần tới 120 mg/ngày.
Thuốc không cần chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận mạn [12],[11],[3].
b) Nhóm thuốc tăng thải acid uric
Các
thuốc trong nhóm bao gồm: probenecid (250mg-3g/ngày),
sulfinpyrazon (100-800mg/ngày), benzbriodaron và benzbromaron. Các thuốc
này có tác dụng tăng đào thải acid uric qua nước tiểu do cạnh tranh với acid uric
trên hệ thống vận chuyển anion ở ống thận. Chỉ định nhóm này cần xét nghiệm
acid uric niệu. Chống chỉ định khi acid uric niệu trên 600 mg/24 giờ, suy thận,
sỏi thận, người cao tuổi, gút mạn có hạt tophi. Đôi khi có thể dùng phối hợp
alopurinol với một loại thuốc tăng đào thải acid uric [2].
Trong giai đoạn khởi đầu (6 - 12 tháng đầu), khi sử dụng nhóm thuốc này
có thể gây cơn gút cấp do tăng tạm thời acid uric huyết, trong khi thuốc chưa đủ
nồng độ để ức chế hoàn toàn sự tái hấp thu acid uric. Vì vậy, nên sử dụng thêm
một liều nhỏ colchicin trước và trong giai đoạn các tháng đầu của đợt điều trị.
Ngoài ra, trong giai đoạn này cũng có thể tạo sỏi thận do acid uric niệu tăng nên
cần uống nhiều nước để duy trì lượng nước tiểu ít nhất 2 lít/ngày và phải kiềm
hóa nước tiểu để tránh tạo sỏi urat [12].
11
1.3. Chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân gút
1.3.1. Định nghĩa chung về chất lượng cuộc sống
- Theo tổ chức y tế thế giới: “Chất lượng cuộc sống là sự nhận thức cá nhân
về vị trí của họ trong cuộc sống phù hợp với văn hóa và giá trị mang tính chất hệ
thống ở nơi mà họ sinh sống và phù hợp với mối quan hệ, với mục đích, sự kì
vọng, trình độ và mối quan tâm của họ[22].
- Chất lượng cuộc sống liên quan tới sức khỏe: Bao gồm tất cả những lĩnh
vực của cuộc sống bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những thay đổi của sức khỏe [23].
1.3.2. Các công cụ đo lường chất lượng cuộc sống
Hiện nay, bộ câu hỏi chung đánh giá CLCS được sử dụng thường xuyên
nhất là SF-36. Bộ câu hỏi này được xây dựng bởi Ware và cs (1992), có 36 mục
tự đánh giá và có thể sử dụng được với nhiều bệnh lý, nhiều cộng đồng và tình
huống khác nhau. SF-36 đánh giá 8 nhóm vấn đề: chức năng thể chất, chức năng
xã hội, sự hạn chế vai trò do các vấn đề thể chất, sự hạn chế vai trò do các vấn
đề cảm xúc, sức khỏe tinh thần, nghị lực sống, sự đau đớn và cảm nhận chung
về tình hình sức khỏe, trong đó, điểm được chia thành 2 nhóm chính: điểm tóm
tắt của thành phần thể chất và điểm tóm tắt của thành phần tinh thần. SF-36
được chứng minh là một công cụ phù hợp với gút và đã được sử dụng trong
nhiều nghiên cứu đánh giá CLCS của các BN gút [24],[25]. Với công cụ này,
một số nghiên cứu đã khẳng định rằng BN có CLCS thấp hơn rõ rệt so với một
số bệnh mạn tính khác [26],[27].
Một số công cụ khác đánh giá chung CLCS cũng đã được sử dụng và
chứng minh tính hợp lệ trong gút, bao gồm bộ câu hỏi European QoL (EQ-5D)
và bộ câu hỏi đánh giá CLCS của Tổ chức Y tế Thế giới (WHOQOL-Bref). Bộ
câu hỏi EQ-5D khá đơn giản, đánh giá 5 vấn đề của tình trạng sức khỏe: khả
năng di chuyển, tự chăm sóc, các hoạt động thông thường, đau/khó chịu và trầm
cảm/lo lắng. Một số nghiên cứu chứng minh rằng thang điểm này có giá trị đánh
giá CLCS trong nhiều bệnh tự miễn dịch khác nhau, bao gồm gút. Thang điểm
12
WHOQOL-Bref bao gồm 26 mục, đánh giá 4 vấn đề của tình trạng sức khỏe bao
gồm thể chất, tâm lý, xã hội và môi trường. Một vài nghiên cứu sử dụng thang
điểm này đã chứng minh rằng các chức năng về thể chất và tinh thần đã giảm sút
rõ rệt ở các BN gút trong giai đoạn bệnh hoạt động [28].
1.3.3. Đặc điểm và tình hình nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân gút
Trên thế giới, có khá nhiều nghiên cứu đánh giá CLCS ở BN gút đã được
công bố, trong đó, phần lớn sử dụng một bộ công cụ đơn lẻ, chỉ có một vài
nghiên cứu dùng phối hợp đồng thời nhiều công cụ. Các nghiên cứu này không
chỉ mô tả đặc điểm CLCS trong gút mà còn tìm hiểu mối tương quan giữa CLCS
với các đặc điểm khác của bệnh như mức độ hoạt động, tổn thương và tiên
lượng bệnh. Các nghiên cứu đều nhận thấy rằng bệnh nhân bị bệnh gút có giảm
CLCS về thể chất. Một số nghiên cứu ở nhiều cơ sở xác nhận sự thiếu hụt trong
việc chăm sóc chất lượng cho bệnh gút, bao gồm cả việc không đạt được axit
uric mục tiêu là 6 mg / dl. Các can thiệp nhắm mục tiêu chất lượng chăm sóc có
khả năng không chỉ cải thiện tiêu chuẩn chăm sóc mà còn cải thiện CLCS ở
bệnh nhân mắc bệnh gút [29]
Trong một nghiên cứu được mô tả trước đây về 868 bệnh nhân cấp cứu,
CLCS của bệnh nhân đã được truy vấn bằng cách sử dụng bộ công cụ SF-36 3
tháng sau lần nhập viện cấp cứu gần nhất. Việc kê đơn thuốc có khả năng không
phù hợp trong khoa cấp cứu có liên quan đến điểm kém hơn đáng kể về chức
năng vật lý SF-36 và các chỉ số đau khi theo dõi 3 tháng, thấp hơn 11 điểm và 13
điểm [30].
Roddy và cộng sự. đã sử dụng bảng câu hỏi WHOQoL-bref để so sánh
CLCS của bệnh nhân mắc bệnh gút với các biện pháp kiểm soát trong cộng đồng
chăm sóc chính ở Anh [31]. 13.684 đã được khảo sát và 3082 người trả lời
(23%), trong đó có 137 người bị bệnh gút xác nhận khi khám lâm sàng và 2848
người được kiểm soát. Tuổi trung bình của bệnh nhân mắc bệnh gút là 63 tuổi,
13
49% bị tăng huyết áp, 44% mắc bệnh tim mạch / mạch máu não và 50% bị bệnh
cơ xương khớp. CLCS về thể chất kém hơn ở bệnh nhân gút so với bệnh nhân
không mắc bệnh gút, nhưng CLCS về tâm lý, xã hội và môi trường tương tự
nhau giữa bệnh nhân gút và bệnh nhân không mắc bệnh gút. Trong các phân tích
điều chỉnh đa biến điều chỉnh theo giới tính, tuổi tác, độ mềm cơ xương, độ hấp
thụ y tế và tình trạng bệnh gút, bệnh gút là một yếu tố dự đoán độc lập về QoL
vật lý. Ở những bệnh nhân bị bệnh gút, không có sự khác biệt về CLCS được
tìm thấy bởi nồng độ axit uric huyết thanh hoặc sử dụng allopurinol.
Singh và cộng sự. so sánh CLCS của 1.500 cựu chiến binh với bệnh gút với
tuổi trung bình 68 tuổi với 38.000 cựu chiến binh không bị bệnh gút với tuổi
trung bình 61 tuổi [32]. Trong các phân tích chưa được điều chỉnh, bệnh nhân
gút có CLCS thể chất kém hơn nhiều, nhưng không phải CLCS về tinh thần /
cảm xúc trên SF-36V cho các cựu chiến binh, kết quả đo được xác nhận rất
giống với SF-36, phiên bản 2. Điểm số được điều chỉnh (điều chỉnh cho Nhân
khẩu học xã hội, tiếp cận chăm sóc sức khỏe và độ hấp thụ) đối với CLCS về thể
chất và tinh thần tương tự ở bệnh nhân mắc bệnh gút và không có bệnh gút,
ngoại trừ điểm đau cơ thể được điều chỉnh thấp hơn một chút ở bệnh nhân gút so
với bệnh nhân không mắc bệnh gút (47,1 so với 49,7, p < 0,01). Ở những bệnh
nhân mắc bệnh gút, độ hấp thụ y tế dự đoán Điểm thấp hơn trên thang điểm tóm
tắt cả về thể chất và tinh thần, trong khi đó độ mềm của khớp bị dự đoán là về
thể chất thấp hơn, nhưng không phải là điểm tinh thần thấp hơn.
Do đó, hai nghiên cứu này có một số kết quả khác nhau liên quan đến sự
liên quan của bệnh gút với CLCS vật lý, sau khi điều chỉnh độ hấp thụ y tế giữa
các yếu tố khác. Hai nghiên cứu khác nhau trong các đánh giá CLCS (SF-36V
so với WHO-QoL-Bref), loại bệnh đi kèm được điều chỉnh theo nhân khẩu học
xã hội (98% nam, tuổi trung bình 68 tuổi so với 81% nam, tuổi trung bình 64
năm), thiết lập (khảo sát dựa trên dân số Hoa Kỳ so với hai thông lệ chung ở
Anh), đánh giá độ hấp thụ (mã ICD-9 so với tự báo cáo) và tỷ lệ phản hồi (58%
14
so với 23%). Các nghiên cứu theo chiều dọc với các nhóm bệnh gút và kiểm soát
được xác định rõ là cần thiết để kiểm tra mối tương quan của CLCS ở bệnh nhân
gút. Sự phát triển gần đây của dụng cụ QoL dành riêng cho bệnh gút cũng có thể
giúp đo lường CLCS đặc hiệu của bệnh so với CLCS chung ở bệnh nhân gút [32].
Khanna và cộng sự. nghiên cứu 80 bệnh nhân gút với tuổi trung bình 60
tuổi, 90% nam giới từ trung tâm chăm sóc đại học và trung tâm y tế VA
[33]. Điểm số SF-36 PCS là 38,9 và điểm MCS 48,6; trung bình HAD-DI là
0,3. Các tiện ích y tế, được đánh giá bởi SF-6D và EQ-5D lần lượt là 0,68 (phạm
vi, 0,29 đến 1,0) và 0,73 (phạm vi, 0,11 đến 1,0).
15
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Bệnh nhân gút đang điều trị tại Khoa Cơ xương khớp Bệnh viện Bạch Mai.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Các BN đã được chẩn đoán gút theo tiêu chuẩn của Hội Khớp học Mỹ
năm 2015.
- Đồng ý tham gia trả lời phỏng vấn.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu
- Không hợp tác nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu
- Chọn mẫu thuận tiện, tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu là ….BN gút
2.2.3. Công cụ và các nội dung nghiên cứu
a.Bộ câu hỏi khảo sát: được xây dựng dựa theo bộ công cụ đánh giá CLCS
SF- 36, bao gồm 2 phần chính:
A. Phần 1: các thông tin chung:
- Họ tên bệnh nhân.
- Tuổi
- Giới
- Địa chỉ, khu vực sống
16
- Trình độ văn hóa
- Nghề nghiệp
- Số điện thoại
- Thời gian mắc bệnh
- Mã số hồ sơ
- Ngày khảo sát
B. Phần 2: bao gồm 36 câu hỏi khảo sát 8 mục về CLCS (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Các vấn đề đánh giá trong bộ câu hỏi SF-36
TT Mục đánh giá
1 Hoạt động thể chất
Câu hỏi
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10,
11, 12
2 Sự giới hạn vai trò do sức khỏe thể
chất
3 Sự đau đớn
4 Tình hình sức khỏe chung
5 Sự giới hạn vai trò do các vấn đề về
tinh thần
6 Năng lượng sống/ sự mệt mỏi
Số câu Phân nhóm
10
13, 14, 15, 16
4
21, 22
2
1, 2, 33, 34, 35, 36
6
17, 18, 19
3
SỨC KHỎE
THỂ CHẤT
SỨC KHỎE
23, 27, 29, 31
4
TINH
7 Trạng thái tâm lý
24, 25, 26, 28, 30
5
THẦN
8 Chức năng xã hội
20, 32
2
- Trong mỗi câu hỏi, người trả lời đánh dấu vào ô vuông ở sau mỗi lựa chọn.
17
Bảng 2.2. Cách tính điểm cho mỗi câu trả lời trong bộ câu hỏi SF-36
TT câu hỏi
1, 2, 20, 22, 34, 36
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10,
11, 12
21, 23, 26, 27, 30
Trả lời Điểm
TT câu hỏi
Câu trả lời Điểm
1
100
13, 14, 15, 16,
1
0
2
75
17, 18, 19
2
100
3
50
1
0
4
25
2
20
5
0
3
40
1
0
4
60
2
50
5
80
3
100
6
100
1
100
1
0
2
80
2
25
3
60
3
50
4
40
4
75
5
20
6
0
5
100
24, 25, 28,
29, 31
32, 33, 35
- Cách tính điểm:
+ Điểm cho mỗi câu được tính từ 0 - 100, trong đó, điểm càng cao tương
ứng với CLCS càng tốt. Điểm cụ thể với từng câu xác định dựa vào thứ tự câu
trả lời được lựa chọn theo bảng 2.2.
+ Điểm cho từng mục đánh giá của CLCS (bảng 2.1) được tính bằng trung
bình điểm của tất cả các câu trả lời thuộc mục đó.
+ Điểm sức khỏe thể chất được tính bằng trung bình điểm của các mục số
1,2,3 và 4 (bảng 2.1).
18
+ Điểm sức khỏe tinh thần được tính bằng trung bình điểm của các mục số
5,6,7 và 8 (bảng 2.1).
+ Điểm CLCS chung được tính bằng trung bình điểm sức khỏe tinh thần
và điểm sức khỏe thể chất.
- Cách phân loại CLCS: sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và CLCS nói
chung được phân thành 3 mức dựa vào số điểm:
+ Kém: điểm từ 0 - 50
+ Trung bình: điểm từ 26 - 75
+ Tốt: điểm từ 76 - 100
2.2.4. Các chỉ số nghiên cứu
- Các thông số chung:
+ Tuổi
+ Giới
+ Khu vực sống
+ Trình độ văn hóa
+ Nghề nghiệp
+ Thời gian mắc bệnh
+ Tuổi khởi phát bệnh
- Điểm CLCS: thực hiện với nhóm bệnh và nhóm chứng:
+ Điểm của 8 mục đánh giá
- Hoạt động thể chất
- Sự giới hạn vai trò do sức khỏe thể chất
- Sự đau đớn
- Tình hình sức khỏe chung
- Sự giới hạn vai trò do các vấn đề về tinh thần
- Năng lượng sống/ sự mệt mỏi
- Trạng thái tâm lý
- Chức năng xã hội
+ Điểm sức khỏe thể chất
+ Điểm sức khỏe tinh thần
+ Điểm CLCS chung
19
+ Phân loại sức khỏe thể chất
+ Phân loại sức khỏe tinh thần
+ Phân loại CLCS
2.2.5. Thu thập và xử lý số liệu
a. Thu thập số liệu
- Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân theo các câu hỏi trong phiếu điều tra, điền
các thông tin thu được vào phiếu.
b. Xử lý số liệu:
- Sử dụng phần mềm toán thống kê SPSS 20.0
- Các thông số định lượng được thể hiện dưới dạng giá trị trung bình ± độ
lệch chuẩn. Các tần suất được trình bày theo tỷ lệ %.
- Sử dụng test Anova để so sánh hai giá trị trung bình và test 2 để so sánh
2 tỷ lệ %.
c. Kiểm soát sai số
- Tập huấn trước khi tiến hành thu thập số liệu
- Phỏng vấn thử trước khi tiến hành thu thập số liệu: 10 trường hợp
2.3. Đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành với sự đồng ý của bệnh nhân. Mỗi đối tượng
được lựa chọn vào nghiên cứu đều được giải thích trước mục đích và cách tiến
hành nghiên cứu.
- Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Cơ xương khớp Bệnh viện Bạch Mai
và được sự đồng ý của bệnh viện.
- Tất cả các số liệu chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, không sử dụng
cho bất cứ mục đích nào khác.
- Bệnh nhân có quyền từ chối tham gia nghiên cứu
20
DỰ KIẾN KẾT QUẢ
DỰ KIẾN BÀN LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bệnh viện Bạch Mai, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội khoa.
2011, NXB Y học.
2.
Bộ Y Tế, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp. 2014.
3.
Marian T. Hannan, Arthritis care & research. 2012.
4.
Nguyễn Thu Hiền, Nghiên cứu mô hình bệnh tập tại khoa cơ xương khớp
bệnh viện Bạch Mai trong mười năm (1991-2000). 2001, Đại học Y Hà
Nội: Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa.
5.
Neogi, T., et al., 2015 gout classification criteria: an American College of
Rheumatology/European
League Against
Rheumatism
collaborative
initiative. Arthritis & rheumatology, 2015. 67(10): p. 2557-2568.
6.
Ali, M.M., S.K. Mosbah, and N.M.A. El-Fadl, Factors Affecting Quality of
Life and Work Productivity among Patients with Gout. American Journal of
Nursing, 2019. 7(2): p. 128-135.
7.
Trần Ngọc Ân, Bệnh thấp khớp. 1992: NXB Y học.
8.
Nguyễn Vĩnh Ngọc, Bệnh gút, in Bài giảng bệnh học nội khoa. 2012, NXB
Y học. p. 171-187.
9.
Annemans, L., et al., Gout in the UK and Germany: prevalence,
comorbidities and management in general practice 2000–2005. Annals of
the rheumatic diseases, 2008. 67(7): p. 960-966.
10. Hồ Thu Thủy and Đặng Ngọc Trúc, Nhận xét sơ bộ về các triệu chứng lâm
sàng, sinh hóa của bệnh gút ở bệnh viện Bạch Mai và Quân y viện 108, in
Công trình nghiên cứu khoa học 1983-1984. 1984. p. 54-61.
11. Lê Anh Thư, Cập nhật chẩn đoán, điều trị bệnh gút và tăng acid uric máu.
Lớp Bồi dưỡng kiến thức dược lâm sàng khóa 9, Sở Y tế Thành phố Hồ Chí
Minh, 2016.
12. Hoàng Thị Kim Huyền and J.R.B.J Brouwers, Dược lâm sàng, những
nguyên lý cơ bản và sử dụng thuốc trong điều trị. Vol. Tập 2. 2012.
13. Trần Thị Minh Hoa, et al., Tình hình bệnh cơ xương khớp ở hai quần thể
dân cư Trung Liệt (Hà Nội) và Tân Trường (Hải Dương), in Công trình
nghiên cứu khoa học 2001-2002. 2002, NXB Y học.
14. Phạm Ngọc Khái and Phạm Thị Dung, Tài liệu hướng dẫn cộng đồng tham
gia phòng chống bệnh gút. Trường Đại học Y Thái Bình, 2009.
15. Mao Visal, Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị gút tại khoa Cơ Xương - Khớp bệnh viện Bạch Mai 2005. 2006, Trường đại học Dược Hà
Nội: Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ.
16. Nguyễn Minh An, Trần ngọc Ân, and Phạm Thị Thu Hồ, Bài giảng bệnh
học nội khoa. 2014, Bộ môn Nội - Trường Đại Học Y Hà Nội, NXB Y học.
17. Richette, P., et al., 2016 updated EULAR evidence-based recommendations
for the management of gout. Annals of the rheumatic diseases, 2017. 76(1):
p. 29-42.
18. Therapeutics, E.S.C.f.I.C.S.I., EULAR evidence based recommendations
for gout. Part I: diagnosis. Report of a task force of the standing committee
for international clinical studies including therapeutics (ESCISIT). Ann
Rheum Dis, 2006. 65.
19. Zhang, W., et al., EULAR evidence based recommendations for gout. Part
II: Management. Report of a task force of the EULAR Standing Committee
for International Clinical Studies Including Therapeutics (ESCISIT).
Annals of the rheumatic diseases, 2006. 65(10): p. 1312-1324.
20. Bộ Y Tế, Dược thư quốc gia. 2015, NXB Y học.
21. Khanna, D., et al., 2012 American College of Rheumatology guidelines for
management of gout. Part 2: therapy and antiinflammatory prophylaxis of
acute gouty arthritis. Arthritis care & research, 2012. 64(10): p. 1447-1461.
22. Phạm Thị Tuyết Nhung, Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị
hội chứng mạch vành cấp trước sau can thiệp động mạch vành qua da sử
dụng bộ câu hỏi Seatle Angina Questionare. 2013, Trường Đại học Thăng
Long, Hà Nội: Luận văn tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng hệ VHVL.
23. Hà Thị Thúy, Bước đầu đánh giá sử cải thiện chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân tổn thương tủy sống do chấn thương tại khoa Phục hồi chức
năng bệnh viện Bạch Mai. 2011, Trường Đại học Thăng Long, Hà Nội:
Luận văn tốt nghiệp cử nhân điều dưỡng hệ VHVL.
24. Dua, A.B., et al., Top 10 recent developments in health-related quality of
life in patients with systemic lupus erythematosus. Current rheumatology
reports, 2013. 15(12): p. 380.
25. Touma, Z., et al., Is there an advantage over SF-36 with a quality of life
measure that is specific to systemic lupus erythematosus? The Journal of
rheumatology, 2011. 38(9): p. 1898-1905.
26. Jolly, M., How does quality of life of patients with systemic lupus
erythematosus compare with that of other common chronic illnesses? The
Journal of rheumatology, 2005. 32(9): p. 1706-1708.
27. Wolfe, F., et al., EQ-5D and SF-36 quality of life measures in systemic
lupus
erythematosus:
comparisons
with
rheumatoid
arthritis,
noninflammatory rheumatic disorders, and fibromyalgia. The Journal of
rheumatology, 2010. 37(2): p. 296-304.
28. Nuttall, A. and D.A. Isenberg, Assessment of disease activity, damage and
quality of life in systemic lupus erythematosus: new aspects. Best practice
& research Clinical rheumatology, 2013. 27(3): p. 309-318.
29. Singh, J.A., Quality of life and quality of care for patients with gout. Curr
Rheumatol Rep, 2009. 11(2): p. 154-60.
30. Chin, M.H., et al., Appropriateness of medication selection for older
persons in an urban academic emergency department. Academic
emergency medicine, 1999. 6(12): p. 1232-1241.
31. Roddy, E., W. Zhang, and M. Doherty, Is gout associated with reduced quality
of life? A case-control study. Rheumatology, 2007. 46(9): p. 1441-1444.
32. Hirsch, J.D., et al., Evaluation of an instrument assessing influence of gout
on health-related quality of life. The Journal of rheumatology, 2008.
35(12): p. 2406-2414.
33. Khanna, D., et al., The disutility of chronic gout. Quality of Life Research,
2008. 17(5): p. 815-822.
BỘ CÂU HỎI KHẢO SÁT THỰC TRẠNG CHĂM SÓC CỦA ĐIỀU
DƯỠNG VÀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN GÚT
Phần hành chính
Mã bệnh án ___________Ngày nhập viện _________Ngày phỏng
vấn_________
H1. Tuổi:______
H2. Giới:
SĐT___________
1. Nam
2. Nữ
H3. Nghề nghiệp:
1. Cán bộ, nhân viên
nay
4. Thất nghiệp nhiều hơn 1 năm
2. Công nhân/nông dân
5. Thất nghiệp gần 1 năm nay
3. Học sinh, sinh viên
6. Nghỉ hưu
7. Khác
H4. Trình độ học vấn:
1. Dưới lớp 6
4. Trung cấp, cao đẳng
2. THCS
5. Đại học, sau Đại học
3. THPT
H5. Tình trạng hôn nhân:
1. Chưa kết hôn
3. Đã ly thân
2. Đã kết hôn
4. Đã ly dị
H6i. Hiện tại ông (bà) đang sống cùng ai ?
1. Gia đình (bố mẹ, vợ chồng, con)
2. Một mình
3. Khác
5. Góa vợ/chồng