Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Mô hình và thực tiễn bảo vệ hiến pháp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.82 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT

ĐỀ TÀI

MÔ HÌNH VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ
HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................
1
1. KHÁI QUÁT CHUNG, SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MÔ
HÌNH BẢO VỆ HIẾN PHÁP
................................................................................................................................
2
1.1. Khái quát về bảo vệ Hiến pháp
2
1.1.1.

Khái niệm
2

1.1.2.

Mục đích của bảo vệ hiến pháp
3

1.2. Sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ hiến pháp


4
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ Hiến pháp trên thế
giới .. 4
1.2.2.
Nam

Sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ hiến pháp tại Việt
9

KẾT LUẬN PHẦN 1
................................................................................................................................
19
2. THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH BẢO VỆ HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM
HIỆN
NAY
................................................................................................................................
20
2.1. Ưu điểm
20
2.2. Nhược điểm
21
2.3. Đề xuất
27
KẾT LUẬN PHẦN 2
................................................................................................................................
29
KẾT LUẬN
................................................................................................................................
30



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa đề tài
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở
lý luận góp phần làm rõ những mô hình bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam. Cụ thể, kết
quả nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm rõ các mô hình bảo vệ Hiến pháp ở Việt
Nam, đồng thời đưa ra những ưu, nhược điểm của các mô hình bảo vệ Hiến pháp,
thực tiễn về bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam và các kiến nghị góp phần hoàn thiện
những khó khăn trong bảo vệ Hiến pháp Việt Nam.
2. Bố cục đề tài
Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ quyền lực mà nhân dân đã
trao cho nhà nước. Mô hình Hiến pháp ở Việt Nam hình thành qua các thời kỳ Hiến
pháp và đang ngày càng hoàn thiện hơn góp phần quán triệt và thể chế hóa các chủ
trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở chính trị - pháp lý cho việc thực hiện công
cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội.
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm 2
phần như sau:
- Khái quát chung, sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ hiến
pháp;
- Thực tiễn bảo vệ Hiếp pháp ở Việt Nam.


2

1. KHÁI QUÁT CHUNG, SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA MÔ HÌNH BẢO VỆ HIẾN PHÁP
1.1. Khái quát về bảo vệ Hiến pháp
1.1.1. Khái niệm

Hiến pháp là văn bản khế ước của nhân dân, được đa số nhân dân thông qua
theo những trình tự đặc biệt. Sự hiện diện của Hiến pháp được coi là điều kiện tiên
quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền, bởi vì hiến pháp
được coi là sự đồng thuận của tất cả các thành viên xã hội thể hiện ý chí của nhân
dân, là cơ sở bảo đảm tính hợp pháp và sự chính đáng của Nhà nước.
Bảo hiến (bảo vệ Hiến pháp) có thể được hiểu là tổng hợp các biện pháp giữ
gìn, chống lại sự vi phạm các nguyên tắc và quy phạm của Hiến pháp 1. Quan điểm
này được hiểu bảo vệ Hiến pháp theo nghĩa rộng và đã đồng nhất bảo vệ Hiến pháp
với bảo đảm Hiến pháp.
Quan điểm khác lại cho rằng bảo vệ Hiến pháp là hoạt động của chủ thể có
thẩm quyền ra phán quyết về tính hợp hiến hoặc bất hợp hiến của văn bản pháp luật,
qua đó làm phát sinh hệ quả pháp lý vô hiệu hóa văn bản pháp luật vi hiến 2. Quan
điểm này đã thu hẹp nội hàm của khái niệm bảo vệ Hiến pháp, coi bảo vệ hiến pháp
chỉ bao gồm hoạt động xem xét và bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm
pháp luật.
Từ hai quan điểm trên ta có thể hiểu rằng, bảo vệ Hiến pháp là tổng hợp
các hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể mà Hiến pháp xác định thẩm quyền
nhằm bảo đảm sự tôn trọng, giữ gìn Hiến pháp, ngăn ngừa, chống lại và triệt tiêu
hành vi vi hiến.
Nội hàm của khái niệm “bảo vệ Hiến pháp” ở đây chỉ bao hàm những hoạt
động do những chủ thể mà Hiến pháp đã quy định thẩm quyền tiến hành (Hiến pháp
xác định nhiệm vụ và quyền hạn nhất định liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm sự
tôn trọng, giữ gìn Hiến pháp, chống lại và triệt tiêu hành vi vi hiến). Bởi lẽ, Hiến
pháp là văn bản chính trị - pháp lý do nhân dân thiết lập, thể hiện chủ quyền và ý
chí của nhân dân. Do đó, việc nhân dân giao cho ai chịu trách nhiệm bảo vệ Hiến
pháp cũng phải được thể hiện trong Hiến pháp. Chính nhân dân xác định nhiệm vụ
1 Đặng

Văn Chiến chủ biên (2005), “Cơ chế bảo hiến”, Nxb. Tư pháp
2 Hồ Đức Anh (2006), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện cơ chế bảo

vệ hiến pháp ở Việt Nam”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


3

và quyền hạn của chủ thể tiến hành hoạt động bảo hiến bằng các quy định của Hiến
pháp. Cách hiểu này sẽ loại trừ những chủ thể trong xã hội có tham gia thực hiện
các hoạt động nhằm bảo vệ Hiến pháp nhưng sự tham gia đó không xuất phát từ
thẩm quyền hiến định mà chỉ là thẩm quyền mang tính phái sinh từ Hiến pháp và
được quy định bởi văn bản quy phạm pháp luật khác.
1.1.2. Mục đích của bảo vệ hiến pháp
Bảo vệ Hiến pháp là tổng hợp các hoạt động được tiến hành bởi các cơ
quan, cá nhân mà Hiến pháp quy định nhiệm vụ và quyền hạn nhằm bảo đảm sự tôn
trọng và thi hành Hiến pháp, ngăn ngừa và xử lý mọi hành vi vi phạm Hiến pháp.
Nội dung cụ thể gồm:
 Giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật và
điều ước quốc tế mà quốc gia ký kết hoặc gia nhập. Trên cơ sở hoạt động này, cơ
quan có thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp sẽ loại trừ, vô hiệu hóa các văn bản quy
phạm pháp luật không phù hợp, trái với Hiến pháp hoặc đề nghị cơ quan nhất định
phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo đúng thẩm quyền hiến định.
Giải thích Hiến pháp: Hiến pháp chứa đựng những nguyên tắc
và khung pháp lý rất rộng, trừu tượng, ổn định trong thời gian dài, cần phải được
giải thích chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: thông qua giải thích
chính thức, nội dung và ý nghĩa của các quy định của Hiến pháp được hiểu một cách
thống nhất, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể. Theo đó, Hiến
pháp phát huy được vai trò của mình là nhân tố đảm bảo cho sự ổn định và phát
triển của một chế độ chính trị - xã hội, là nền tảng pháp lý của một nhà nước dân
chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân3.



 Giải quyết khiếu kiện vi hiến (trong đó có cả khiếu kiện liên
quan đến hành vi vi phạm quyền và tự do hiến định của công dân). Pháp luật một số
nước quy định, quyền khởi kiện trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
những hành vi vi hiến. Cơ quan bảo vệ Hiến pháp ra phán quyết về tính hợp hiến
hay không hợp hiến của hành vi bị khiếu kiện, buộc cơ quan hoặc cá nhân có liên
quan phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó nhằm khôi phục lại
trật tự hiến định, bảo đảm và bảo vệ quyền và tự do hiến định của công dân.

3 Lê Hồng Hạnh, “Khả năng thực hiện việc trao thẩm quyền giải thích Hiến
pháp cho Tòa án ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 18-2008, tr.5


4

 Xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân.
Bầu cử và bỏ phiếu trưng cầu ý dân là hai hình thức dân chủ hiến định, vì vậy, hoạt
động bảo vệ Hiến pháp cũng bao hàm việc giám sát tính hợp hiến của các cuộc bầu
cử và trưng cầu ý dân.
1.2. Sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ hiến pháp
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ Hiến pháp trên
thế giới
Mô hình bảo hiến phi tập trung:
Hay còn gọi là mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, là mô hình tòa án tối cao và tòa
án các cấp đều có chức năng và thẩm quyền giám sát tính hợp hiến, được xây dựng
trên cơ sở học thuyết phân chia và kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo quan điểm của học thuyết này, hệ thống các cơ quan tòa án không
những có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân mà còn có
chức năng kiểm soát, hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp và hành pháp 4.
Xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực một cách

rõ ràng, Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới trao cho các tòa án quyền phán quyết
về tính hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới luật. Có thể nói, quyền giám
sát Hiến pháp của Tòa án tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một trong những nét
đặc sắc của nền chính trị Mỹ.
Việc tòa án phán quyết tính hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới
luật được xác định sau vụ án nổi tiếng của nước Mỹ - vụ án John Marbury chống
Madison. Giải quyết vụ án Marbury và Madison, Chánh án Tòa án tối cáo Marshall
đã đưa ra các tuyên bố sau: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước; những luật hay
quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của Hiến pháp và
không được trái với Hiến pháp; thẩm phán, người đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiến
pháp, phải tuyên bố hủy bỏ những luật lệ quy định nào của cơ quan lập pháp mâu
thuẫn với Hiến pháp. Ba tuyên bố trên đây đã xác lập chức năng bảo hiến của tòa án
và quyền tài phán của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành pháp liên quan

4 ,
tham khảo ngày 12/04/2019


5

đến Hiến pháp. Dần dần mô hình này đã xuất hiện ở nhiều nước khác như Canada,
Mexico, Argentina, Australia, Hy Lạp, Nhật Bản, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch… 5
Đây là mô hình giao cho tòa án tư pháp xem xét tính hợp hiến của các đạo
luật thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương
sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Mô hình có ưu điểm là bảo
hiến một cách cụ thể vì nó liên quan đến từng vụ việc cụ thể.
Nhưng mô hình này lại có 2 nhược điểm lớn: giao quyền bảo hiến cho tòa
án các cấp nên thủ tục dài dòng; phán quyết của tòa án về tính hợp hiến chỉ có hiệu
lực ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật được tòa án xác
định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó không còn giá trị áp dụng và chỉ có hiệu lực

bắt buộc đối với các tòa án cấp dưới (nếu là phán quyết của Tòa án tối cao thì có giá
trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư pháp). Nghĩa là tòa án không có thẩm quyền hủy
bỏ đạo luật bị coi là trái với Hiến pháp và về hình thức đạo luật đó vẫn còn hiệu lực
mặc dù trên thực tế sẽ không được tòa án áp dụng.
Mô hình bảo hiến kiểu Pháp:
Ở mô hình này, chỉ được giám sát tính hợp hiến của văn bản được phê
chuẩn bởi nghị viện nhưng chưa được ban hành bởi tổng thống. Ưu điểm của mô
hình là cho phép giám sát tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật được tiến
hành ngay trước khi văn bản được ban hành nên hạn chế đáng kể số văn bản vi hiến,
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, đó cũng là nhược điểm
chính của mô hình ở chỗ cơ quan bảo hiến có thể can thiệp quá sâu quy trình lập
pháp của nghị viện6.
Mô hình bảo hiến tập trung:
Khác với mô hình Mỹ, các nước lục địa châu Âu không trao cho tòa án tư
pháp thực hiện giám sát Hiến pháp mà thành lập một cơ quan đặc biệt để thực hiện
chức năng bảo hiến, có vị trí độc lập với quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Cơ quan này được gọi là Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến, Viện
Bảo hiến. Thẩm phán là những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, được bổ nhiệm
hay bầu cử theo một chế độ đặc biệt.
5 />
tham khảo ngày 12/04/2019
6 ,
tham khảo ngày 12/04/2019


6

Đây là mô hình giám sát tập trung. Tòa án Hiến pháp được thành lập ở Áo
năm 1920, Italia năm 1947, Đức năm 1949, miền Nam Việt Nam năm 1956, Thổ
Nhĩ Kỳ năm 1961, Nam Tư năm 1963, Bồ Đào Nha năm 1976, Tây Ban Nha năm

1978, Hy Lạp năm 1979, Ba Lan năm 1982, Hungari năm 1983, Liên Xô cũ năm
1988, Nga năm 1993, Campuchia năm 1993, Belarus năm 1994, Ukcraina năm
1996, Thái Lan năm 1997, Cộng hòa Czech năm 1997.
Có thể gọi đây là mô hình của Áo vì Áo là nơi thành lập sớm nhất, nhưng
thường được gọi là mô hình lục địa châu Âu vì khu vực này là phổ biến nhất. Giám
sát Hiến pháp ở châu Âu kết hợp việc giải quyết các vụ việc cụ thể và những việc có
tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của cá nhân hoặc các cơ quan có
thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Quyết định của Tòa án Hiến pháp hay Hội
đồng bảo hiến có giá trị bắt buộc.
Theo mô hình này, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền như sau: xem xét tính
hợp hiến của các văn bản luật, các điều ước quốc tế mà tổng thống hoặc chính phủ
đã hoặc sẽ tham gia ký kết, các sắc lệnh của tổng thống, các nghị định của chính
phủ, có thể tuyên bố một văn bản luật, văn bản dưới luật là vi hiến và làm vô hiệu
hoá văn bản đó; xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử tổng thống, bầu cử nghị
viện và trưng cầu ý dân; tư vấn về tổ chức bộ máy nhà nước, về các vấn đề chính trị
đối nội cũng như đối ngoại; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các nhánh
quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa chính quyền trung ương và địa
phương; giám sát Hiến pháp về quyền con người và quyền công dân.
Ngoài ra, một số Tòa án Hiến pháp như của Italia còn có quyền xét xử tổng
thống khi tổng thống vi phạm pháp luật.
Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu - Mỹ:
Đây là mô hình kết hợp những yếu tố của cả hai mô hình kiểu châu Âu và
kiểu Mỹ, được áp dụng ở một số nước như Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ, Columbia,
Venezuela, Peru, Brazil…
Theo mô hình này, thẩm quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo hiến
chuyên trách như Tòa án hiến pháp lẫn tất cả các tòa án thuộc hệ thống tư pháp.
Trong đó, thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp và Tòa án tối cao đối với những vụ
việc cụ thể được quy định ngay trong Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một



7

vụ việc cụ thể có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền
không áp dụng các đạo luật được cho là không phù hợp với hiến pháp7.
Mô hình cơ quan lập hiến có chức năng bảo hiến:
Ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba và một số nước khác không có cơ quan
bảo hiến chuyên biệt. Các nước này đều có quan điểm chung là quốc hội (nghị viện)
là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, không những là cơ quan lập hiến, lập
pháp duy nhất mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. 8
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quốc hội phải tự quyết
định tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu quốc hội trao quyền này cho một cơ quan
khác phán quyết thì quốc hội không còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
nữa.
Quan điểm trên đây có hạt nhân hợp lý của nó. Tuy nhiên, cũng phải thừa
nhận rằng nếu một cơ quan vừa lập pháp vừa tự mình phán quyết đạo luật do mình
làm ra có vi hiến hay không thì cũng rất khó.
Thẩm quyền của cơ quan tài phán Hiến pháp:
Mô hình cơ quan tài phán Hiến pháp của các nước trên thế giới khá đa dạng
nên thẩm quyền xét xử; các chủ thể có quyền khiếu kiện trước Tòa án Hiến pháp;
cách thức bổ nhiệm thẩm phán; nhiệm kỳ của thẩm phán; hiệu lực của những phán
quyết về tính vi hiến; thủ tục ban hành phán quyết của Tòa án Hiến pháp… cũng rất
khác nhau.
Chẳng hạn thẩm quyền của cơ quan tài phán Hiến pháp ở các nước không
chỉ phụ thuộc vào việc nó được tổ chức theo mô hình của Mỹ hay của Châu Âu lục
địa, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước;
mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; giữa chính quyền trung
ương với địa phương, nhất là đặc điểm về chính trị - xã hội, về truyền thống lịch sử
văn hoá, pháp lý… của mỗi nước.

7 />tham khảo ngày 12/04/2019

8 Hồ Đức Anh (2006), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện cơ chế bảo
vệ hiến pháp ở Việt Nam”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


8

Theo đó, một số Tòa án Hiến pháp chỉ xem xét tính hợp hiến của hoạt động
lập pháp, song một số khác được trao quyền phán quyết về những lĩnh vực có liên
quan, thậm chí cả lĩnh vực thực sự mang tính nhạy cảm về chính trị.
Bên cạnh chức năng cơ bản của các Tòa án Hiến pháp là phán quyết về các
vấn đề Hiến pháp, nhiều Tòa án Hiến pháp ở Trung và Đông Âu có thẩm quyền xét
xử đối với một số trường hợp liên quan đến bầu cử, trưng cầu ý dân, tính hợp pháp
của các chính đảng… Không những thế, cơ quan tài phán Hiến pháp một số nước
còn xem xét trước để phòng ngừa vi phạm Hiến pháp như Hội đồng bảo hiến của
Pháp, Tòa án Hiến pháp các nước Burundi, Burkina Faso, Cộng hòa Chad… Tòa án
Hiến pháp Liên bang Nga chỉ xem xét trước tính hợp hiến các hiệp định quốc tế mà
Liên bang Nga đã ký kết nhưng chưa có hiệu lực. Tòa án Tối cao Mỹ lại chỉ xem xét
sau khi văn bản pháp luật đã ban hành (có tranh cãi thực tế) mà không xem xét
trước. Cơ quan tài phán Hiến pháp một số nước lại có thẩm quyền xem xét tính hợp
hiến cả trước và sau khi văn bản pháp luật ban hành như Tòa án Hiến pháp của
Cape Verde, Niger…
Mỹ cũng có những đạo luật vi hiến:
Ngay như Quốc hội Mỹ, quy trình ban hành một đạo luật rất chặt chẽ (một
dự luật muốn được thông qua phải được đa số tán thành của Hạ viện trước, rồi sau
đó là đa số Thượng viện tán thành (hoặc ngược lại), tiếp theo còn phải được Tổng
thống kiểm tra, xem xét lại xem có cần phủ quyết hay không, nếu không phủ quyết
dự luật mới được Tổng thống ban bố để thi hành).
Vậy mà trong khoảng 190 năm qua, Tòa án Tối cao của Mỹ đã ra phán
quyết tuyên bố 122 đạo luật của Quốc hội Mỹ (trong tổng số hơn 35.000 đạo luật
được Quốc hội này ban hành trong thời gian nói trên) có toàn bộ hoặc một phần nội

dung quy định vi phạm Hiến pháp Mỹ. Cũng trong thời gian nói trên có gần 950 đạo
luật của Quốc hội các bang bị Tòa án Tối cao Mỹ tuyên bố vi phạm Hiến pháp của
Liên bang.


9

1.2.2. Sự hình thành và phát triển của mô hình bảo vệ hiến pháp tại
Việt Nam
Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến pháp năm
1946:
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của
nước ta được ra đời sau khi cách mạng tháng Tám thành công đã giành lại chủ
quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà. Hiến pháp
1946 được xây dựng trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn đang còn tiếp diễn, thù trong
giặc ngoài vẫn còn đe dọa đến nền độc lập non trẻ của đất nước. Việc ban hành Hiến
pháp 1946 tại thời điểm này là một cố gắng rất lớn nhằm tạo dựng hệ thống pháp
luật cho đất nước. Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên được xây dựng trong những
ngày đầu đất nước, quy định những vấn đề cơ bản nhất của đất nước trong thời kỳ
đầu giành được độc lập9.
Những nền tảng hình thành bảo hiến: Hiến pháp 1946 chưa ghi nhận một
mô hình bảo hiến cụ thể nhưng đã đánh giá chính xác tầm quan trọng của Hiến pháp
với thực tiễn. Hiến pháp năm 1946 không có điều khoản ghi nhận giá trị pháp lý tối
cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 cũng để lại những nền tảng nhất
định về tư tưởng để có thể xây dựng mô hình bảo hiến ở nước ta trong những giai
đoạn sau. Thứ nhất, thông qua những quy định về quyền hạn ban hành, sửa đổi,
những quy định về thể chế, nội dung thì có thể nhận thấy Hiến pháp 1946 là đạo
luật nền tảng và cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp 1946
phân chia quyền lực nhà nước thành ba ngành quyền lực bao gồm: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Trong đó, nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao

nhất thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Các cơ quan nhà nước được trao quyền
thông qua sự quy định của Hiến pháp, bộ máy và hoạt động của các cơ quan nói trên
đều tuân thủ quy định Hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền quyết định hiệu lực tồn tại của
Hiến pháp thông qua phúc quyết của nhân dân. Hiến pháp 1946 quy định: Nhân dân
có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.
Hiến pháp 1946 quy định là đạo luật cơ bản quốc gia trao quyền lực cho Quốc hội là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quy định quyền và nghĩa vụ của công dân,

9

Bùi Hải Đường (2015), “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, ĐHQG Hà
Nội, khoa luật


10

cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương - cơ quan hành
pháp và tư pháp. Về cơ bản, các cơ quan nhà nước thực hiện và chấp hành đầy đủ
quy định của Hiến pháp về quyền hạn và nghĩa vụ.
Thứ ba, Hiến pháp 1946 tuy không thể hiện mô hình bảo vệ Hiến pháp cho
quốc gia nhưng đã có quy định cụ thể và rõ ràng về cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra
giám sát các văn bản quy phạm pháp luật tại điều 31 cũng như điều 36. Cơ chế bảo
vệ Hiến pháp tại giai đoạn bắt đầu đã ghi nhận sự bảo vệ Hiến pháp thông qua cơ
chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên,
quyền kiểm tra giám sát đối với các cơ quan nhà nước vẫn thường dựng lại ở mức
khuyến nghị, sự ràng buộc giữa những văn bản mang tính pháp lý và Hiến pháp
chưa cao. Quyền quyết định vẫn thuộc về các cơ quan ban hành văn bản. Hiến pháp
chưa được ghi nhận đúng giá trị, hệ thống pháp luật vẫn còn rất nhiều lỗ hổng.
Cơ chế bảo hiến chưa được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 là do những

nguyên nhân khách quan là chủ yếu. Hiến pháp xây dựng trong một khoảng thời
gian ngắn, chưa có sự tiếp cận những mô hình bảo hiến trên thế giới do thời điểm đó
các cơ chế tài phán Hiến pháp chưa được phổ biến rộng rãi, bên cạnh đó hoàn cảnh
chiến tranh nên không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Yêu cầu cơ chế bảo hiến
dù là đơn giản nhưng vào thời điểm đó lại là điều khó khăn. Hiến pháp 1946 sau khi
được thông qua cũng không được ghi nhận và áp dụng vào thực tiễn do toàn quốc
bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm. Nhưng những quy định Hiến
pháp 1946 đã để lại những giá trị to lớn cho toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam,
đồng thời đã có những quy định làm nền tảng cho mô hình bảo hiến ở Việt Nam.

Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959:
Bối cảnh ra đời: Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn
toàn độc lập, Hiến pháp 1959 ra đời trong giai đoạn đất nước vẫn bị chia cắt, chiến
tranh chưa chấm dứt, hòa bình chưa được lập ở miền Nam. Hiến pháp 1959 được
xây dựng trên nền tảng kế thừa, sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp
1946. Hiến pháp 1959 được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh nên mang đặc thù
của hệ thống pháp luật thời chiến, khi quân lệnh chiếm vị trí tối thượng trong hệ


11

thống quyền lực. Hiến pháp 1959 đã bước đầu ghi nhận sự xuất hiện của cơ chế bảo
hiến đầu tiên ở Việt Nam. Hiến pháp 1959 và cơ chế bảo hiến đầu tiên ra đời trong
hoàn cảnh hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ pháp luật xã hội chủ
nghĩa một cách thụ động, máy móc và rập khuôn.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Mô hình bảo hiến theo theo Hiến pháp 1959
không tồn tại dưới dạng một cơ quan bảo hiến chuyên trách. Cơ chế bảo hiến dựa
trên nền tảng quy định cho một số cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền kiểm
tra và giám sát các loại văn bản nhất định.
Về cơ sở pháp lý để hoạt động bảo hiến, Hiến pháp 1959 quy định gián tiếp

giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp so với những văn bản pháp lý được ban hành
mà Quốc hội thông qua, văn bản quy phạm pháp luật không được trái Hiến pháp và
quy định thẩm quyền cho Quốc hội xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là
quyền ban hành những văn bản pháp luật, cũng như quy định Hiến pháp là văn bản
có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo điều kiện cho mô hình bảo hiến có thể hoạt động.
Tuy mô hình bảo hiến vẫn bị lu mờ so với các chế định cơ bản của Hiến pháp khác
nhưng Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những giá trị bảo hiến đầu tiên, mô hình bảo
hiến tuy chỉ mới hình thành nhưng đó là bước tiến lớn về tư tưởng lập hiến ở nước
ta.
Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980:
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1980 được xây dựng khi đất nước hoàn toàn độc
lập, là điều kiện thuận lợi đưa đất nước tiến đến con đường xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp 1980 đã ghi nhận và kế thừa của cơ chế bảo hiến đã được quy định ở Hiến
pháp 1959. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng và phát triển dựa trên nền
tảng những quy định của Hiến pháp cùng với sự lựa chọn những ưu điểm từ Hiến
pháp 1959. Hiến pháp 1980 và cơ chế bảo hiến, Quốc hội đã bước đầu đi vào thực
tiễn trong hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập10.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Hiến pháp 1980 vẫn quy định tiếp tục sử dụng
mô hình bảo hiến như Hiến pháp 1959, lấy Quốc hội làm trung tâm, sử dụng cơ chế
kiểm tra, giám sát để bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Tại khoản 3, Điều 83, Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 đã quy định: Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp
10 />tham khảo ngày 10/04/2019


12

và pháp luật. Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội thực hiện

quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Căn cứ vào thẩm
quyền được quy định, Quốc hội vẫn tiếp tục là cơ quan bảo vệ giá trị pháp lý tối cao
của Hiến pháp. Để bảo đảm thực hiện cơ chế bảo hiến, Hiến pháp 1980 đã quy định
đầy đủ và thống nhất giá trị pháp lý của Hiến pháp 1980. Điều 146, Hiến pháp 1980
quy định: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của
nhà nước, có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với
Hiến pháp. Quy định này thể hiện rõ ràng giá trị pháp lý của Hiến pháp, tạo nền
tảng, cơ sở để đưa Hiến pháp vào thực tiễn xã hội và khiến cơ chế bảo hiến có thể
được áp dụng trong hệ thống pháp luật. Quy định ngắn gọn nhưng chứ đựng sự đổi
mới to lớn trong toàn bộ lịch sử lập hiến của nước ta, đưa Hiến pháp trở về đúng với
giá trị. Mô hình bảo hiến được Quốc hội áp dụng, tuy nhiên không tồn tại quy định
pháp lý về trình tự, thủ tục xem xét, xử lý các văn bản trái Hiến pháp, đồng thời các
văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp cũng chưa có cách thức xử lý để đảm
bảo giá trị tối cao của Hiến pháp. Từ trung ương đến địa phương, các cơ quan nhà
nước đều có nhiệm vụ, thẩm quyền, giám sát kiểm tra Hiến pháp nhưng lại không
có cơ quan nào chuyên trách xử lý các vi phạm liên quan đến Hiến pháp. Tuy được
kế thừa những tinh hoa từ những bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 1980 cũng qui
định cơ chế về việc tuân thủ và thực hiện Hiến pháp của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức, công dân nhưng mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1980 vẫn mang tính hình
thức, thiếu trình tự, khó hoạt động hiệu quả. Tinh thần lập hiến và bảo vệ Hiến pháp
đã được hình thành nhưng do nhiều điều kiện khách quan nên mô hình bảo hiến vẫn
chưa tồn tại đúng bản chất.
Bảo hiến theo Hiến pháp 1992:
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp có giá trị thực tiễn to lớn
khi ban hành vào giai đoạn đất nước đang bắt đầu mở cửa hội nhập toàn cầu, kinh tế
trong nước đang chuyển từ hình thức tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam cũng có những bước chuyển
mình to lớn. Tiếp tục kế thừa và duy trì tư tưởng các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, Hiến pháp 1992 vẫn lựa chọn mô hình bảo hiến Quốc hội là cơ quan giám sát,
kiểm tra pháp luật. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1992 thể chế hóa cụ thể và rõ



13

ràng hơn việc giám sát và thực thi pháp luật, quy định rõ những thẩm quyền cụ thể
của Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác trong viêc thi hành pháp luật.
Đặc điểm của mô hình: Hiến pháp năm 1992 xây dựng cơ chế bảo hiến
thông qua kiểm tra giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân dân đối với cơ
quan quyền lực nhà nước, đây là cơ chế giám sát tương đối toàn diện. Quốc hội thực
hiện chức năng giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết. Bên
cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó không trái với nội
dung Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013:
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng
11 năm 2013. Đây là bản Hiến pháp mở ra thời kỳ mới của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 2013 kế thừa thành tựu của những bản Hiến pháp
đã qua và góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992 theo hướng hoàn thiện và tích cực hơn.
Hiến pháp 2013 tuân thủ những nét cơ bản, tiếp tục áp dụng mô hình bảo hiến theo
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001: mô hình bảo hiến dựa trên cơ chế kiểm tra, giám sát
của Quốc hội.
Trong khoảng thời gian khó khăn về sự bất cập trong thông tư 02/2013 vi
phạm về quyền sở hữu trong Hiến pháp, yêu cầu về cơ chế bảo hiến hiệu quả xuất
hiện. Đảng và nhà nước đã đánh giá bước đầu về tình hình thực tiễn cũng như lý
luận để xây dựng cơ chế bảo hiến. Dưới sự ủng hộ về tư tưởng của Đảng và nhà
nước, các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực Hiến pháp dưới sự giúp đỡ
chuyên gia nước ngoài bắt đầu xây dựng những cơ sở đầu tiên về mô hình bảo hiến
cụ thể mà Việt Nam có thể áp dụng.
Giai đoạn đầu xuất hiện những phương án về cơ chế tài phán Hiến pháp ở
nước ta bao gồm:

Phương án thứ nhất: thành lập Ủy ban bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc
hội. Ủy ban bảo vệ Hiến pháp sẽ được tổ chức tương tự như các Ủy ban khác của
Quốc hội, thực hiện nhiệm vụ xem xét tính hợp hiến của những văn bản dưới luật
của các cơ quan nhà nước ban hành. Ủy ban không được xem xét những văn bản


14

pháp lý mà Quốc hội ban hành và thẩm quyền được trao hoàn toàn mang tính tham
vấn khi báo cáo kết quả xem xét tính hợp hiến với Quốc hội11.
Phương án thứ hai: trao nhiệm vụ bảo hiến cho cơ quan Tư pháp mà chủ thể
xác định là Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao được trực tiếp trao
quyền thực hiện nhiệm vụ bảo hiến, xem xét những văn bản pháp lý của cơ quan
quyền lực nhà nước.
Phương án thứ ba: thành lập cơ quan bảo hiến độc lập. Cơ quan bảo hiến
độc lập với Quốc hội, có thẩm quyền, trình tự và thủ tục bảo hiến riêng. Ở phương
án này hướng đến những mô hình bảo hiến hiệu quả ở châu Âu bao gồm: Tòa án
Hiến pháp và Hội đồng Hiến pháp. Hai mô hình lớn trên thế giới và đã có hiệu quả
khi đưa vào hoạt động thực tiễn.
Những phương án được đưa ra, chưa bàn đến những ưu nhược điểm hay
hạn chế, vướng mắc có thể gặp phải khi thực hiện thì đây đều là những mô hình nếu
có thể xây dựng sẽ là bước tiến lớn về hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở nước ta. Bên
cạnh sự ủng hộ xây dựng cơ chế bảo hiến mới ở nước ta thì cũng xuất hiện ý kiến
phản đối việc hình thành cơ chế bảo hiến mới. Những cá nhân phản đối xây dựng
mô hình bảo hiến mới đưa ra những lập luận xuất phát từ suy nghĩ chủ quan là:
Thứ nhất, mô hình bảo hiến quốc hội vẫn có thể tiếp tục tồn tại và hoạt
động bình thường. Tại sao cần có sự thay đổi khi những văn bản vi hiến tồn tại
không quá nhiều, sự thay đổi sẽ mang lại những hệ lụy không tốt cho đất nước. Chỉ
nên có sự thay đổi để làm tăng tính hiệu quả của cơ chế bảo hiến Quốc hội chứ
không thể thay đổi hoàn toàn và tiến hành xây dựng mới.

Thứ hai, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật hạn chế những sai sót có
thể mắc phải. Lập luận cho rằng hoàn thiện từ khâu xây dựng văn bản pháp luật với
trình tự, thủ tục, cơ quan ban hành được quy định đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, chính
xác là sẽ hạn chế được vi hiến trong thực tiễn.
Thứ ba, đây cũng là lập luận phản đối quan trọng nhất, là khi xây dựng cơ
quan bảo hiến, quyền lực của Quốc hội sẽ bị đe dọa, nguyên tắc tập trung quyền lực
sẽ không được thực hiện đúng như định hướng. Lập luận dựa trên nhìn nhận về một

11 />tham khảo ngày 11/04/2019


15

Hiến pháp với chức năng chính trị là chủ yếu khi định hướng những quy định trong
Hiến pháp chỉ tồn tại để thực hiện những mục đích nhất định của hệ thống chính trị.
Quá trình tranh luận và đóng góp ý kiến về mô hình bảo hiến diễn ra sôi nổi
hơn vào thời điểm những năm bắt đầu quy trình sửa đổi Hiến pháp. Các nhà khoa
học cũng như người dân đều hy vọng cơ quan tài phán hay một cơ chế bảo hiến bất
kỳ có thể được xuất hiện trong Hiến pháp mới. Hy vọng đó càng lớn khi tại dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 2012: mô hình hội đồng Hiến pháp được ghi nhận như là
một chương của dự thảo Hiến pháp. Còn nhiều câu hỏi về thẩm quyền cũng như
trình tự thủ tục, tính hiệu quả của mô hình hội đồng Hiến pháp so với cơ chế bảo
hiến đang tồn tại là bước tiến đáng được ghi nhận. Tuy nhiên do những nguyên nhân
khác nhau mà mô hình hội đồng bảo hiến đã không được ghi nhận vào Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đồng thời không có bất cứ
quy định nào về bảo hiến được ghi nhận trong Hiến pháp mới, nước ta vẫn duy trì
và tiếp tục sử dụng mô hình bảo hiến Quốc hội đã sử dụng trong Hiến pháp 1992 để
bảo vệ giá trị tối cao của Hiến pháp.
Đặc điểm của mô hình:
Thứ nhất, Việt Nam hiện nay không tồn tại cơ quan bảo hiến chuyên trách,

không tồn tại hội đồng Hiến pháp, không tồn tại tòa án Hiến pháp và hệ thống tòa
án tư pháp cũng không có chức năng bảo hiến. Theo quy định tại Điều 69 Hiến pháp
2013 Quốc hội là chủ thể trung tâm trong việc thực hiện chức năng bảo hiến. Do là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội kiểm soát và chi phối hoạt động của
toàn bộ bộ máy nhà nước kể cả hoạt động giám sát Hiến pháp. Quốc hội giám sát,
bảo vệ Hiến pháp thông qua những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống
pháp luật quy định cơ chế bảo hiến Việt Nam là hai cấp là cấp trung ương và cấp địa
phương12, thẩm quyền bảo hiến được trao rất nhiều cơ quan. Theo quy định tại
Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp 2013: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của
Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Như vậy, ở
trung ương có Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban pháp luật thuộc Quốc hội, Bộ Tư
pháp thuộc chính phủ đều được trao thẩm quyền bảo hiến.

12Điều 5 của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân


16

Thứ hai, đối tượng chủ yếu của cơ chế bảo hiến hiện tại hướng đến việc
xem xét tính hợp hiến của những văn bản pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Quy định về thẩm quyền đều hướng tới hình thức kiểm tra, giám
sát chéo nhau giữa các cơ quan nhà nước chứ không đề cập đến yêu cầu bảo hiến
của nhân dân. Quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến của công dân không được đề
cập đến trong quy định về bảo hiến hiện nay, nhân dân sẽ đòi quyền lợi ích hợp
pháp của mình ở đâu khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi các văn bản hay
hành vi vi phạm Hiến pháp.
Thứ ba, trình tự thủ tục của cơ chế bảo hiến hiện tại không rõ ràng khi
không tồn tại quy định nào về cách thức tiến hành hoạt động bảo hiến của cơ quan

nhà nước, không có sự công khai, thống nhất khi tiến hành bảo vệ Hiến pháp. Trong
điều kiện phát triển và hội nhập hiện nay đòi hỏi cần tồn tại những quy định về trình
tự, thủ tục bảo hiến để các cơ quan, cá nhân và tổ chức có thể thực hiện được quyền
và nghĩa vụ bảo hiến.
Thứ tư, Quốc hội đóng vai trò trung tâm trong cơ chế bảo hiến hiện nay
(Điều 69 Hiến pháp 2013). Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao mọi hoạt
động giám sát thi hành pháp luật, các cơ quan được phân công có nhiệm vụ thực
hiện thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Tuy quy định số lượng lớn cơ quan
thực hiện bảo vệ Hiến pháp nhưng lại không có cơ quan chuyên trách thực hiện
quyền bảo hiến, rà soát tính hợp hiến. Ngay cả Quốc hội cũng chỉ mang tính tham
vấn trong vấn đề bảo hiến chứ không đi vào thực tiễn hoạt động bảo vệ Hiến pháp.
Lịch sử lập hiến Việt Nam tính từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến
Hiến pháp mới 2013 đã trải qua 67 năm với 5 bản Hiến pháp thành văn, tư tưởng
lập hiến đã có sự thay đổi tiến bộ theo thời gian, bản Hiến pháp sau kế thừa đầy đủ
tinh hoa của các bản Hiến pháp trước. Mô hình bảo hiến Quốc hội được xây dựng từ
bản Hiến pháp 1959 đến bản Hiến pháp mới nhất năm 2013, xuất phát từ những
nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, dưới tác động của các yếu tố pháp luật. Cho dù đã có sự thay đổi
trong nhận thức bảo vệ Hiến pháp nhưng là vẫn chưa đủ để có thể tiến hành xây
dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách. Đa phần nhân dân vẫn chưa tìm hiểu đầy đủ về
yêu cầu phải có Hiến pháp trong xã hội hiện tại. Đồng thời, các quy định pháp luật
hiện hành đều quy định cơ chế kiểm tra, giám sát làm trọng tâm trong hoạt động bảo
hiến. Bộ máy nhà nước vẫn tin tưởng vào cơ chế hiện hành, sử dụng việc


17

thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội vào Hiến pháp. Cho dù, cơ chế bảo
hiến hiện tại đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, không hiệu quả trong hoạt động Hiến
pháp13.

Thứ hai, việc không xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm hướng
tới việc ổn định lợi ích chính trị, ổn định xã hội, tránh những sự thay đổi trong cơ
chế kiểm soát quyền lực, Quốc hội đã không thông qua mô hình bảo hiến chuyên
trách trong Hiến pháp mới năm 2013. Theo quy định tại Điều 4 Hiến pháp 2013 thì
Việt Nam hiện nay thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo với toàn bộ hoạt động nhà
nước, mọi thay đổi trong hệ thống các cơ quan nhà nước đều phải đảm bảo sự lãnh
đạo của Đảng. Mô hình cơ quan bảo hiến Quốc hội đảm bảo đầy đủ những yêu cầu
trên, lợi ích chính trị cũng như quyền lực của Quốc hội vẫn được đảm bảo. Xây
dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách sẽ khiến cơ chế quyền lực thống nhất hiện nay
có sự ảnh hưởng khi tồn tại cơ quan có thể thực hiện một phần nào đó chức năng
giám sát hoạt động của Quốc hội.
Thứ ba, do sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng nhất định bởi truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa,
áp dụng một cách tương đối máy móc, rập khuôn làm hạn chế rất nhiều con đường
xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách. Định hướng không có nghĩa là buộc phải
tuân thủ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khi pháp luật xã hội chủ nghĩa đã
không còn phù hợp thì cần mạnh dạn thay đổi sao cho phù hợp với xu hướng thời
đại mà không làm mất đi bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây
dựng mô hình bảo hiến chuyên trách là yêu cầu tất yếu của hoàn thiện hệ thống
pháp luật đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay.
Thứ tư, thời điểm lịch sử khi ban hành các bản Hiến pháp ảnh hưởng đến
mô hình bảo hiến được lựa chọn, các bản Hiến pháp trước năm 1992 khi xây dựng
đều trong những hoàn cảnh đặc thù khi đất nước đang đấu tranh giành độc lập, bị
chiến tranh tàn phá, bước đầu xây dựng đất nước. Khi đó, điều kiện và nền tảng để
hoàn thiện cơ chế bảo hiến là chưa đủ, Hiến pháp cũng chưa có được giá trị pháp lý
cao nhất nên khó có thể đòi hỏi cơ chế bảo hiến hiệu quả. Đến Hiến pháp 1992,
Hiến pháp của thời kỳ mở cửa lại quá tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế mà
quên đi những yêu cầu về hệ thống pháp luật gây lên việc vẫn sử dụng cơ chế giám
sát không hiệu quả để bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp 2013 được xây dựng vào thời
13Bùi Hải Đường (2015), “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, ĐHQG Hà

Nội, khoa luật


18

nền kinh tế vẫn đang suy thoái, các chế định mới chưa đủ sức nặng để đưa vào Hiến
pháp mới. Mỗi thời kỳ đều có những nét đặc thù ảnh hưởng đến mô hình bảo hiến,
xây dựng mô hình bảo hiến hiệu quả là quá trình đòi hỏi nhiều nguồn lực, thời gian,
đúng thời điểm và quyết tâm thay đổi thì mới có thể xây dựng mô hình bảo hiến
chuyên trách hoạt động hiệu quả.


19

KẾT LUẬN PHẦN 1
Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, là đạo luật cơ bản của một
nước nên việc bảo vệ giá trị pháp lý của Hiến pháp là vô cùng quan trọng được
Đảng và Nhà nước ghi nhận. Thế giới có nhiều kiểu mô hình để bảo vệ Hiến pháp,
tùy theo nền kinh tế và xã hội của từng nước mà áp dụng kiểu mô hình bảo hiến phù
hợp. Việt Nam từ lúc Hiến pháp được hình thành và qua nhiều lần sửa đổi thì cũng
chưa quyết định áp dụng bất kỳ kiểu mô hình nào của thế giới để bảo vệ Hiến pháp
Việt Nam. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhất nên việc bảo hiến ở Việt Nam cũng
do Quốc hội đảm nhiệm và được sự giúp sức từ các cơ quan cấp dưới nhằm đảm
bảo phát hiện nhanh chóng và kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ ý
nghĩa và giá trị pháp lý nền tảng của một quốc gia. Trải qua từng giai đoạn thì Hiến
pháp dần được hoàn thiện và cũng góp phần định hướng xây dựng một cơ chế bảo
hiến có cơ quan chuyên trách như các nước trên thế giới.


20


2. THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH BẢO VỆ HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
Hiến pháp là luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất của Việt Nam. Tất
cả các văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Việt Nam theo mô hình
nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc giám sát tuân thủ Hiến pháp và được tổ chức theo
cơ chế phân công phân nhiệm từ Quốc hội xuống Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho
đến Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó Quốc hội giữ vai trò giám sát tối cao.
Quyền giám sát Hiến pháp của Quốc hội được định ra là do Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất trong bộ máy nhà nước.
Với mô hình bảo hiến hiện nay Hiến pháp Việt Nam chưa ghi nhận một cơ
quan chuyên trách mà chỉ xây dựng một quy trình bảo hiến thông qua cơ chế kiểm
tra, giám sát lấy Quốc hội làm trung tâm. Từ khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực từ
ngày 01/01/2013 đến nay, mô hình đã thể hiện một số ưu và nhược điểm nhất định.
2.1. Ưu điểm
Thứ nhất, cơ chế giám sát được phân cấp qua nhiều chủ thể, vì đối với các
văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương thì Ủy ban
thường vụ Quốc hội tự mình quyết định xem xét hoặc xem xét các văn bản quy
phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp khi có đề nghị của Hội đồng dân tộc,
Ủy ban Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận 14. Đều này
thể hiện được sự phối hợp giữa các cấp chủ thể giám sát và khả năng phát hiện ra
các văn bản vi phạm pháp luật dễ dàng hơn.
Thứ hai, quyền lực của Quốc hội vẫn được giữ vững vì Quốc hội là cơ quan
quyền lực cao nhất15 đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân nên các văn
bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành vẫn đảm bảo được tính pháp lý, đáp
ứng đúng yêu cầu của mô hình bảo hiến chuyên trách.


14
15

Điều 25 của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Điều 69 của Hiến pháp 2013


21

Thứ ba, mô hình đang tạo bước đệm cho việc xây dựng mô hình bảo hiến
chuyên trách trong tương lai. Để xây dựng một cơ chế bảo hiến vững mạnh thì việc
phân công, phối hợp giám sát hành vi vi hiến giữa các cơ quan với nhau là rất cần
thiết và quy trình ban hành văn bản quy phạm phải được đảm bảo đúng thủ tục.
2.2. Nhược điểm
Thứ nhất, chủ thể trình Quốc hội xem xét các văn bản quy phạm pháp luật
có dấu hiệu vi hiến còn quá hạn chế:
Vì theo Hiến pháp 2013 thì nhiệm vụ trình Quốc hội xem xét lại tính hợp
hiến của các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương là của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội. Khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát hiện việc thi hành các văn bản
của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao có hiện tượng vi phạm Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì có
quyền ra quyết định đình chỉ việc thi hành đối với các văn bản vi phạm pháp luật
đó, sau đó trình Quốc hội quyết định bãi bỏ các văn bản đó tại kỳ họp gần nhất 16.
Tuy nhiên theo Điều 14 của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân 2015 thì Chủ tịch nước cũng có quyền trình Quốc hội xem xét các
văn bản quy phạm pháp luật, nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội
với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành17. Còn đối với Khoản 1 Điều 88 của Hiến pháp 2013 thì có thể thấy Chủ tịch
nước chỉ có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại tính hợp hiến

của pháp lệnh, nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ
tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày pháp lệnh, nghị quyết được thông qua; nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội không
nhất trí với Chủ tịch nước thì Chủ tịch nước mới được quyền trình Quốc hội quyết
định tại kỳ họp gần nhất18. Nhưng khi kết hợp Điều 14 của Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 và Điều 88 của Hiến pháp 2013 thì có thể
thấy mặc dù Chủ tịch nước cũng có quyền trình Quốc hội xem xét các văn bản vi
hiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng cũng bị hạn chế về mặt thời gian (trong
vòng 10 ngày sau khi pháp lệnh được ban hành).
16

tham khảo
ngày 10/04/2019
17
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
18
Hiến pháp năm 2013


22

Thứ hai là khó đảm bảo tính độc lập và khách quan của các văn bản quy
phạm:
Quốc hội là cơ quan quyền lực có nhiệm vụ làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến
pháp; làm luật và sửa đổi luật và có nhiệm vụ; quyền hạn tối cao trong giám sát,
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết; bãi bỏ một vài văn bản của Chủ tịch
nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội. Việc quy định cụ thể quy trình, thủ tục được thể hiện trong Luật Hoạt
động Giám sát của Quốc hội. Từ đó, cho thấy các văn bản do Quốc hội ban hành và

trách nhiệm giám sát tính hợp hiến cũng là của Quốc hội thì việc khách quan liệu có
còn chăng? Cũng như PGS, TS Trương Đắc Linh, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh có
nói về vấn đề này một câu nói rất hay và đáng suy ngẫm là “không ai tự ban phát
công lý cho chính mình”.
Một vấn đề nữa là trách nhiệm của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc
trình Quốc hội xem xét, quyết định tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp
luật khi có yêu cầu của Đại biểu Quốc hội còn nhiều hạn chế. Vì theo Điều 51 thì
khi Đại biểu Quốc hội phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có hiện tượng vi hiến
(bao gồm cả văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội và của
Chủ tịch nước), đã kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, đình chỉ hoặc
bãi bỏ để phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội nhưng các cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền không thực hiện đúng kiến nghị của Đại biểu Quốc hội thì
Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội để
Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Phân tích trên cho thấy Ủy ban thường vụ
Quốc hội gần như là chủ thể duy nhất có thẩm quyền trình Quốc hội quyết định sửa
đổi hoặc hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản qui phạm pháp luật có hiện tượng
vi hiến, nhưng trước khi trình Quốc hội thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền
xem xét và đình chỉ các văn bản trái Hiến pháp, đặc biệt là Ủy ban thường vụ Quốc
hội có thể bỏ qua một vài đề xuất bảo vệ Hiến pháp trình lên Quốc hội. Từ đó,
những quy định trên làm cho việc thực hiện thẩm quyền bảo hiến của Quốc hội trở
nên khó khăn hơn. Do đó, cần bãi bỏ thời hạn yêu cầu khi Chủ tịch nước đề nghị Ủy
ban thường vụ Quốc hội xem xét lại tính hợp hiến của pháp lệnh và mở rộng thêm


23

về chủ thể được quyền đề xuất trực tiếp các văn bản quy phạm pháp luật có hiện
tượng vi hiến lên Quốc hội19.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm quyền con người khó trở thành hiện thực:
Theo quy định tại Điều 25 Hiến pháp 2013 thì công dân có quyền tự do biểu

tình theo quy định của pháp luật. Phân tích điều luật này chúng ta sẽ thấy là công
dân có quyền tự do biểu tình và muốn biểu tình thì phải tuân thủ theo các quy định
của pháp luật và muốn người dân tuân thủ các quy định của pháp luật thì phải có
pháp luật để người dân tuân theo. Nhưng thực tế, đến thời điểm hiện nay chúng ta
chưa có bất kỳ văn bản nào quy định chi tiết về việc tự do biểu tình của người dân.
Do đó, quyền biểu tình của người dân không thể thực hiện được trên thực tế.
Bên cạnh đó cũng theo Điều 25 Hiến pháp 2013 thì công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí nhưng các trang web mà có sự góp ý về những thiếu sót
của các cơ quan trung ương trong việc thi hành hoặc các bài báo viết về sự vi hiến
đều không truy cập được. Vấn đề đặt ra là tại sao các bài báo đó lại không được cho
phép công khai? Điều đó, cho thấy quyền con người và quyền công dân trên thực tế
vẫn chưa được đảm bảo đúng tinh thần của Hiến pháp.
Thực tế cũng cho thấy, một số quyền con người, quyền công dân, cho đến
nay vẫn còn đang bị “treo”, một phần chưa được đưa vào xây dựng luật của Quốc
hội và một phần do lỗi cơ quan không chuẩn bị dự án luật, trình lên nhưng vẫn chưa
đảm bảo tính khả thi, chậm tiến độ.
Theo Hiến pháp 2013 quy định thẩm quyền của Quốc hội “Bãi bỏ văn bản
của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội”20, nhưng thực tế thẩm quyền này chưa được Quốc hội
thực hiện, do nhiều nguyên nhân.
Thứ tư, các chủ thể giám sát chưa thực hiện tốt phạm vi nhiệm vụ của
mình:
Theo Điều 74 Hiến pháp 2013 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách
nhiệm giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh nhưng trên thực tế số lần hội thảo giải

19
, tham
khảo ngày 10/04/2019
20Khoản 10 Điều 70 của Hiến pháp 2013



×