Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận mô hình và thực tiễn bảo vệ hiến pháp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.68 KB, 38 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

MÔ HÌNH VÀ THỰC TIỄN
BẢO VỆ HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM
Giảng viên: Ths Lưu Đức Quang


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: MÔ HÌNH VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM.............1
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của bảo hiến.............................................................................1
1.1.1 Khái niệm............................................................................................................................... 1
1.1.2. Vị trí, vai trò.......................................................................................................................... 2

1.2. Sơ lược về mô hình bảo hiến điển hình trên thế giới.....................................................3
1.2.1. Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp ở Hoa Kỳ.................................................................. 4
1.2.2. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức.......................................................................................... 5
1.2.3. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp.................................................................... 7
1.2.4. Mô hình bảo hiến Quốc hội................................................................................................... 8

1.3. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử............................................9
1.3.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến pháp năm 1946..................9
1.3.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959..................................................................................... 10
1.3.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980..................................................................................... 12
1.3.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992............................................................................................ 13
1.3.5. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013....................................................................... 14

1.4. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam.................................15
1.4.1. Ưu điểm............................................................................................................................... 17
1.4.2. Hạn chế............................................................................................................................... 18



1.5. Ví dụ thực tiễn về bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam......................................................20
CHƯƠNG 2: NHÌN NHẬN VỀ VỤ VIỆC CSGT Ở NINH BÌNH.......................................26
2.1. Tóm tắt vụ việc..................................................................................................................27
2.2. Phân tích............................................................................................................................27
2.2.1. Phân tích hành vi của Phạm Văn Nghị................................................................................ 27
2.2.2. Phân tích hành vi “không cứu giúp người của CSGT”....................................................... 30
2.2.3. Phân tích hành vi của người dân......................................................................................... 33


1

CHƯƠNG 1: MÔ HÌNH VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của bảo hiến
1.1.1 Khái niệm
Hiến pháp là đạo Luật gốc, đạo Luật tối cao của một quốc gia, Hiến pháp ra đời thể
hiện ý chí của nhân dân nhằm mục đích giới hạn quyền lực nhà nước, bảo vệ lợi ích
hợp pháp của nhân dân. Hiến pháp là cơ sở để xem xét tính pháp lý của mọi văn bản,
mọi quyết định và mọi hành vi của bộ máy nhà nước và công dân; là một dạng khế ước
cam kết giữa nhân dân và nhà nước. Nhân dân có quyền xem xét tính hợp hiến của
Pháp Luật. Hiến pháp xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ, có sự phân chia
quyền lực nhà nước, phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với
nhau. Hiến pháp đặt nền móng cho mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, nguyên tắc,
chức năng, thẩm quyền bộ máy nhà nước đều theo sự Điều chỉnh của Hiến pháp. 1
Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất, chính xác nào về bảo
hiến. Các thuật ngữ được dùng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau tùy thuộc vào hoàn
cảnh quốc gia, Điều kiện chính trị của quốc gia. Bảo hiến hay cách gọi thông thường
khác gọi là bảo vệ Hiến pháp hay tài phán Hiến pháp có thể hiểu là cách thức đánh giá
tính hợp hiến của các văn bản Pháp Luật, các hành vi pháp lý của các cơ quan quyền
lực nhà nước được thực hiện bởi một cơ quan hiến định.2

Theo nghĩa hẹp, bảo hiến được giải thích là bảo vệ tính hợp hiến của các đạo Luật,
mục đích nhằm tìm ra sự phù hợp giữa Hiến pháp, đạo Luật gốc với những văn bản
mang tính pháp lý khác, sự phù hợp ở đây không mang tính khuyến cáo mà là sự chính
xác. Mỗi văn bản có tính pháp lý được ban hành ở bất kỳ cơ quan nào đều cần có sự
tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp.


một góc độ theo nghĩa rộng hơn, bảo hiến là bảo vệ tinh thần và nội dung của Hiến

pháp. Tinh thần trong bản Hiến pháp mà các nhà lập hiến đã truyền tải vảo bản Hiến

1 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 8.
2 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 10.


2

pháp, bảo vệ mối liên hệ giữa hành pháp, tư pháp và lập pháp, kiểm soát tính hợp hiến
của các hành vi thực hiện bởi thiết chế nhà nước được quy định trong Hiến pháp. Cơ
chế bảo vệ Hiến pháp chỉ cách thức tổ chức thực hiện bảo vệ Hiến pháp của một quốc
gia được thể hiện thông qua mô hình bảo hiến mà quốc gia đó lựa chọn. Cơ chế bảo vệ
Hiến pháp ở mỗi quốc gia thường không giống nhau nhưng vẫn có điểm chung nhất
định. Các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay đã được phát triển nhanh chóng,
được đa số các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong những chế định bắt buộc
tồn tại trong hệ thống Pháp Luật quốc gia, được quy định trong văn bản có giá trị pháp
lý cao nhất của quốc gia đó ở dạng thành văn hoặc bất thành văn.
1.1.2. Vị trí, vai trò
Bảo hiến đóng góp rất lớn cho sự hoàn thiện của Pháp Luật, nền dân chủ quốc gia

cũng như sự phát triển của quốc gia. Mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào
hoàn cảnh nên có những đặc điểm riêng biệt nhưng cơ bản bảo hiến được xây dựng với
những vai trò và mục đích chung. Mô hình bảo hiến được xây dựng với những mục tiêu
cơ bản sau:
● Kiểm soát quyền lực nhà nước, duy trì hiệu quả hoạt động cả bộ máy nhà nước, hoàn
chỉnh chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.
● Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
● Hoàn thiện hệ thống Pháp Luật.
Mô hình bảo hiến cũng đóng vai trò quan trọng trong mỗi quốc gia, cụ thể:
Thứ nhất, bảo hiến nhằm mục đích để bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp,
3

cũng như hoàn thiện các chế định Pháp Luật . Trong khi đó, hiến pháp sẽ bảo vệ những giá
trị cốt lõi, những điểm căn bản nhất của quốc gia cho dù tồn tại ở dạng thành văn hay bất
thành văn. Thêm vào đó, mô hình bảo hiến được hình thành sẽ bảo vệ xã hội khỏi những
văn bản, những Điều Luật mâu thuẫn phát sinh trong việc xây dựng Luật và áp dụng trong
thực tiễn, tạo nên sự thống nhất trong phạm vi của Hiến pháp và Pháp Luật.

3 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, ngày truy cập
16/05/2019.


3

Hiến pháp có thể hạn chế một phần hoặc toàn bộ những vấn đề có thể phát sinh trong
việc xây dựng, ban hành và thực thi Pháp Luật.
Thứ hai, bảo hiến bảo vệ hoàn chỉnh quy trình “Lập hiến - lập pháp”, đưa quy trình
vào trong thực tế và áp dụng. Hệ thống Pháp Luật sẽ được xây dựng hoàn chỉnh, đúng
trình tự, có sự giám sát chặt chẽ, có sự Điều chỉnh kịp thời khi cần. Hiến pháp Điều
chỉnh những mối quan hệ xã hội đúng theo khuôn khổ Pháp Luật, theo những cốt lõi

của Hiến pháp. Hiến pháp hạn chế quyền lực của cơ quan nhà nước trong phạm vi mà
Hiến pháp quy định, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quyền công dân được xây
dựng hoàn thiện trong Hiến pháp được bảo vệ tuyệt đối. Nhân dân thông qua cơ quan
bảo hiến thực hiện quyền giám sát của mình, yêu cầu cơ quan bảo hiến bảo vệ quyền và
lợi ích của mình trước những văn bản vi hiến, hành vi vi hiến của cơ quan quyền lực
nhà nước hay của những cá nhân thẩm quyền.4
Thứ ba, bảo hiến là Điều kiện tiên quyết để có thể đưa Hiến pháp vào thực tiễn
cuộc sống, bảo đảm giá trị pháp lý của các quy phạm Pháp Luật, tạo nên sự thống nhất
trong toàn bộ quá trình xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống Pháp Luật, khiến cho Pháp Luật
có thể đi sâu vào thực tiễn 5. Bảo hiến xây dựng một cơ chế cụ thể không chỉ bảo vệ
tính pháp lý của Hiến pháp đồng thời xây dựng cơ chế để công dân yêu cầu nhà nước
xem xét tính hợp hiến của một Điều Luật, một đạo Luật hay một hành vi bất kỳ vi hiến
xảy ra. Đối tượng bảo vệ Hiến pháp ở hướng tới là những hành vi vi hiến và cả những
văn bản vi hiến.
1.2. Sơ lược về mô hình bảo hiến điển hình trên thế giới
Mô hình bảo hiến trên thế giới có thể phân chia thành các kiểu mô hình khác nhau.
Nếu phân chia theo cách thức giám sát thì có mô hình giám sát Hiến pháp tập trung và
mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung. Cách thức phân chia theo trình tự, thủ tục,
thẩm quyền cơ quan bảo hiến thông thường là cách phân chia được sử dụng nhiều nhất
thì trên thế giới có bốn mô hình bảo hiến điển hình được áp dụng như sau:

4 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 15.
5 Đoàn Bích Ngọc, ngày truy cập 17/05/2019


4

Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp (điển hình tại Hoa Kỳ).
Mô hình bảo hiến bằng tòa án Hiến pháp (điển hình tại Áo, Đức).

Mô hình bảo hiến bằng hội đồng Hiến pháp (điển hình tại Pháp).
Mô hình bảo hiến khác.
1. 2.1. Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp ở Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp ở Hoa Kỳ là mô hình bảo hiến được áp dụng
phổ biến, hiệu quả trên toàn thế giới. Mô hình này được đánh giá đã thể hiện được toàn
bộ giá trị cần có của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu quả. Hoàn cảnh ra đời của mô hình
cũng mang đúng bản chất sử dụng án lệ là nguồn Luật của hệ thống Pháp Luật khi mô
hình được xây dựng từ vụ án cụ thể (Án lệ đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp trong vụ
kiến Marbury chống Madison với phán quyết của Chánh án Tòa án Tối cao Marshall).
Với các đặc điểm:
Thứ nhất, cơ quan bảo hiến Hoa Kỳ hoạt động dựa trên mô hình tòa án tư pháp thông
thường. Từ tòa án địa phương cho đến tòa án liên bang đều có thẩm quyền xét xử những
vụ án liên quan đến vi hiến. Tuy quyền hạn trao cho tất cả các tòa án các cấp quyền bảo
hiến nhưng các quyết định của các tòa án cấp cao nhất có ưu thế bởi chỉ những quyết định
đó mới có tính bắt buộc với mọi tòa khác. Sau khi tòa án cấp cao nhất phủ nhận tính hợp
hiến của đạo Luật thì đạo Luật đó trên thực tế mới mất hiệu lực pháp lý.

6

Thứ hai, tòa án thực hiện giám sát Hiến pháp sau khi văn bản Pháp Luật được ban
hành hoặc có hiệu lực. Đây là một cái nhìn thực tiễn sâu sắc, mang màu sắc của án lệ,
đặc trưng của hệ thống thông Luật, mọi đạo Luật đều được kiểm nghiệm tính pháp lý
thông qua thực tiễn chứ không phải chỉ trên giấy tờ. Sự ảnh hưởng của đạo Luật nhất
định phải được chứng minh bằng thực tiễn áp dụng.7
Thứ ba, tòa án bảo vệ Hiến pháp trong từng sự việc cụ thể. Tòa án chỉ giám sát tính
hợp hiến của văn bản Pháp Luật khi có những sự kiện pháp lý nhất định, hay nói cách
6 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 27.
7 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 27.



5

khác kiện tụng chính là tiền đề để Tòa án phán xét tính hợp hiến của một đạo Luật. Quyền
bảo hiến chỉ được các Tòa án sử dụng trong trường hợp tìm thấy sự liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo Luật. Đặc
điểm này xác định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng và kém
hiệu quả. Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong vụ án bình thường,
khi nhận ra những phán quyết hay những hành động trái Hiến pháp của bên còn lại gây ảnh
hưởng đến lợi ích của mình thì đều có quyền đề nghị thực hiện quyền bảo vệ Hiến pháp
(xuất phát từ một hành vi vi hiến ảnh hưởng trực tiếp đến mình).

Từ các đặc điểm trên có thể thấy mô hình bảo hiến Hoa Kỳ mang đúng bản chất
mô hình tài phán Hiến pháp khi tập trung hoàn toàn vào việc xét xử những vấn đề vi
hiến, hoạt động hiệu quả bảo vệ giá tối cao của Hiến pháp, mọi đạo Luật có dấu hiệu vi
hiến đều bị xem xét và được xử lý. Có thể khẳng định đây là mô hình vô cùng hiệu quả
trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này sẽ giúp Hiến pháp được bảo vệ giá trị
pháp lý tối cao, quyền con người được bảo đảm và thực hiện trên góc độ nhất định. Tuy
nhiên, mô hình bảo hiến tòa án tư pháp đòi hỏi yêu cầu rất khắt khe về hệ thống Pháp
Luật hoàn thiện, sử dụng án lệ làm nguồn Pháp Luật, áp dụng cơ chế phân quyền, cách
thức đào tạo và bổ nhiệm thẩm phán luôn ở yêu cầu rất cao. Chính những yêu cầu trên
vừa đem lại hiệu quả cho mô hình và cũng là hạn chế đi sự phát triển, lan tỏa của mô
hình trên thế giới.
1.2.2. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Mặc dù cơ chế bảo hiến bằng tòa án kiểu Hoa Kỳ lúc này đang thể hiện rất nhiều
những nét ưu việt sau một thời gian sử dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên nguyên tắc
“nghị viện tối cao” vẫn tồn tại rất mạnh mẽ ở châu Âu và Đức, quyền lực tối cao của
nghị viện sẽ bị ảnh hưởng khi mọi tòa án đều có quyền đưa ra những phán quyết về
tính hợp hiến văn bản Pháp Luật của nghị viện. Thêm vào đó là việc vẫn đang sử dụng

tập quán pháp trong hệ thống Pháp Luật tại Đức. Nên mô hình bảo hiến Hoa Kỳ không
được thừa nhận và áp dụng tại Đức. Từ đó, dựa trên nền tảng mô hình bảo hiến của Áo
xây dựng mô hình bảo hiến Tòa án Hiến pháp coi trách nhiệm cơ bản bảo vệ Hiến pháp
như là một nhiệm vụ độc lập, nước Đức đã lựa chọn xây dựng mô hình này với những
Điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh đất nước. Với các đặc điểm riêng của mô hình này:


6

Thứ nhất, tòa án Hiến pháp tiến hành hoạt động xem xét văn bản pháp lý, hành vi,
sự kiện một cách độc lập, có trình tự và thủ tục hoạt động riêng, thống nhất và đồng bộ,
không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư pháp. Trình tự thủ tục bảo hiến được xây dựng
theo tính đặc thù mô hình, không bị trùng lập với bất kỳ thủ tục tố tụng dân sự, hình sự
hay hành chính. Tòa án Hiến pháp xem xét tất cả những vấn đề liên quan đến bảo vệ
Hiến pháp, thụ lý không chỉ những vụ việc mang tính cụ thể mà còn tiến hành xem xét
cả những vấn đề có dấu hiệu vi hiến. Tòa án Hiến pháp sẽ thụ lý tất cả những vụ việc
được yêu cầu đúng trình tự thủ tục tố tụng.8
Thứ hai, tòa án Hiến pháp hoạt động độc lập với hệ thống cơ quan quyền lực nhà
nước, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp hay tư
pháp. Tòa án Hiến pháp có quyền tuyên bố những văn bản pháp lý là vi hiến, có quyền
đình chỉ hay hủy bỏ văn bản Pháp Luật đã có hiệu lực Pháp Luật. 9
Thứ ba, tòa án Hiến pháp là hoạt động trên nguyên tắc công khai, thông thường
hướng đến việc xem xét kiểm hiến sau, kiểm tra các văn bản đã có hiệu lực Pháp Luật
chứ không thực hiện nhiệm vụ kiểm hiến trước. Điều này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
của nước Đức khi xây dựng cơ quan chuyên trách, đặc điểm trên vừa mang tính đặc
thù, vừa là hạn chế của tòa án Hiến pháp.10
Có thể thấy, mô hình bảo hiến bằng Tòa Hiến pháp với ưu điểm là một thiết chế tài
phán độc lập, riêng biệt, có quyền hạn đặc biệt so với hệ thống tư pháp cũng như các cơ
quan quyền lực nhà nước, là một trong những mô hình có thể áp dụng một cách thống nhất
và đồng bộ từ việc xây dựng cơ quan bảo hiến đến trình tự, thủ tục xem xét mô hình tòa án

Hiến pháp. Vì vậy, mô hình này được đánh giá hiệu quả bậc nhất trong hoạt động bảo hiến.
Mô hình thể hiện được ưu điểm tối ưu của một thiết chế bảo hiến tập trung với sức mạnh
phán quyết của cơ quan tư pháp. Mọi quyết định của tòa án Hiến pháp đều mang tính độc
lập, có thẩm quyền quyết định chung thẩm, bắt buộc với mọi đối tượng.

8

Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 29.
9
Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội,
trang 29.
10
Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội, trang 29.


7

1.2.3. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp
Cộng hòa Pháp là một quốc gia có nền Pháp Luật dân chủ hàng đầu trên thế giới,
mô hình tài phán Hiến pháp cũng là một trong ba mô hình đặc thù được nhiều quốc gia
lựa chọn áp dụng. Mô hình hội đồng Hiến pháp được hình thành đầu tiên ở cộng hòa
Pháp và dần dần phát triển đến nhiều quốc gia, đa phần là những quốc gia chịu ảnh
hưởng chính trị và pháp lý cũng như văn hóa từ cộng hòa Pháp. Mô hình hội đồng Hiến
pháp mang tính đặc thù so với những mô hình khác trên thế giới.
Thứ nhất, mô hình không chỉ mang bản chất đúng của tài phán Hiến pháp, mà còn
mang đậm yếu tố tổ chức chính trị ở trong đó. Mô hình hội đồng Hiến pháp vận hành
hoạt động theo một cơ chế đặc biệt không công khai quy trình bảo hiến. Thành viên mô
hình cũng không phải toàn bộ là những nhà nghiên cứu Pháp Luật mà còn bao gồm

những nhân vật được quy định trong đó có cả những tổng thống đã hết nhiệm kỳ. Hội
đồng Hiến pháp thời gian đầu xây dựng chỉ có nhiệm vụ kiểm tra dự án Luật chưa được
thông qua bởi nghị viện. Tuy nhiên, sau một thời gian dài nhận thấy việc chỉ kiểm tra
dự án đã làm mất đi tính thực tế của Hiến pháp. Nhiều vấn đề Pháp Luật khi áp dụng và
thực tiễn mới có thể phát hiện được sự vi hiến tồn tại trong quy phạm Pháp Luật, đến
khi sửa đổi Hiến pháp đã quy định đầy đủ quyền hạn của hội đồng Hiến pháp trong
việc thẩm tra những dự án Luật và cả những văn bản Pháp Luật đã được thông qua bởi
nghị viện. Hội đồng Hiến pháp sau khi thẩm tra được tuyên bố văn bản hay hành vi là
vi hiến, có thể hủy bỏ hoặc sửa đổi những văn bản hay hành vi Pháp Luật có sự vi hiến.
Khi mới đầu xây dựng, các nhà lập pháp đã không nhất quán ý tưởng, cho rằng nhiều
khả năng những quy định về hội đồng Hiến pháp mang tính hình thức. Tuy nhiên, khi
vận hành mô hình đã hoạt động mang lại sự hiệu quả, trở thành mô hình tiêu biểu trong
các mô hình bảo hiến.11
Thứ hai, mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình có thể phù hợp với hoàn cảnh đặc
thù và khó có thể áp dụng rộng rãi được. Một thể chế mang bản chất chính trị phải có
những cách thức riêng mới có thể tránh được sự ảnh hưởng của những cơ quan quyền

11 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội, trang 31


8

lực nhà nước khác. Hội đồng Hiến pháp là mô hình rất khó để áp dụng thành công nếu
không thực sự phù hợp quốc gia lựa chọn mô hình.12
Có thể thấy, Hội đồng Hiến pháp cũng có nhiều điểm tương đồng với mô hình tòa
án Hiến pháp, tuy nhiên hội đồng Hiến pháp được xây dựng theo xu hướng một cơ
quan thuộc hệ thống chính trị chức không thuộc ngành quyền lực tài phán, một dạng
của hệ thống Tư pháp. Đây là mô hình chứa đựng những điểm đặc thù nên không thể
phổ biến và lan tỏa mạnh mẽ như Tòa án Hiến pháp hay tòa án bảo hiến kiểu Mỹ. Mô

hình hội đồng bảo hiến mang đặc điểm của cơ quan chính trị trộn lẫn với cơ chế bảo
hiến. Chức năng, thẩm quyền và trình tự thực hiện bảo hiến của hội đồng Hiến pháp
đều không giống cơ chế tài phán thông thường.
1.2.4. Mô hình bảo hiến Quốc hội
Ngoài ba mô hình đặc thù đã nêu ở trên, thì trong lịch sử hình thành và phát triển
cơ chế bảo hiến trên thế giới cũng đã xuất hiện các mô hình bảo hiến khác. Trong đó,
mô hình bảo hiến nghị viện là mô hình được áp dụng ở một số quốc gia như Liên Xô,
các nước Đông Âu cũ, ở Trung Quốc, Lào và Việt Nam và đem lại những giá trị nhất
định. Với đặc điểm nổi bật của mô hình này là Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân
dân có quyền bảo hiến. Mô hình bảo hiến xây dựng cơ quan thuộc ngành quyền lực lập
pháp để xem xét những hành vi vi hiến.
Trong đó, Quốc hội là cơ quan chuyên trách thực hiện hai chức năng bao gồm: lập
hiến và kiểm hiến. Với quyền hạn Quốc hội là cao nhất, Quốc hội có thể tự mình thực
hiện việc bảo vệ Hiến pháp, kiểm tra văn bản Pháp Luật hoặc trao quyền cho một ủy
ban trực thuộc tiến hành bảo hiến. Thông thường Quốc hội trao quyền cho ủy ban trực
thuộc thực hiện bảo hiến.
Mô hình bảo hiến bằng Quốc hội có trình tự và thủ tục đặc biệt, không được công
bố rộng rãi. Cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động xem xét những hành vi, văn bản có dấu
hiệu vi hiến và thông báo lại cho Quốc hội xử lý nếu phát hiện sự vi hiến. Quốc hội là
cơ quan cuối cùng quyết định tính hợp hiến của vấn đề.
12 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội, trang 32.


9

Tuy nhiên, Quốc hội là cơ quan không đủ trình tự và thủ tục đặc biệt để tiến hành
xem xét vấn đề vi hiến. Việc lựa chọn mô hình bảo hiến bằng Quốc hội sẽ đem lại rất
nhiều những hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng Hiến pháp ở mỗi quốc gia.
Từ đó đã bộc lộ nhiều những nhược điểm khiến cho vấn đề bảo vệ Hiến pháp không

được hiệu quả. Nhưng tại thời điểm xây dựng thì đây có thể coi là mô hình phù hợp
nhất với chế độ chính trị Xã hội chủ nghĩa.13
Theo Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác
của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Khi đó, không
chỉ Quốc Hội có nghĩa vụ bảo hiến mà các cơ ban ban ngành và toàn thể người dân Việt
Nam đều có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp để có thể đưa đất nước ngày càng ổn định
và phát triển.
1.3. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử
1.3.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến pháp năm
1946
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta được ra đời sau khi
cách mạng tháng Tám thành công đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân
dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà. Được xây dựng trong khoảng thời gian ngắn, trong
hoàn cảnh chiến tranh vẫn đang còn tiếp diễn ra, gặp vô vàn những Điều kiện khó
khăn, thêm vào đó chưa có sự tiếp cận những mô hình bảo hiến trên thế giới do thời
điểm đó các cơ chế tài phán Hiến pháp chưa được phổ biến rộng rãi dẫn đến Hiến pháp
1946 vẫn chưa thể ghi nhận một mô hình bảo hiến cụ thể nhưng đã đánh giá chính xác
tầm quan trọng của Hiến pháp với thực tiễn. Hiến pháp năm 1946 không có Điều khoản
ghi nhận giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 cũng để lại
những nền tảng nhất định về tư tưởng để có thể xây dựng mô hình bảo hiến ở nước ta
trong những giai đoạn sau.
Thứ nhất, thông qua những quy định về quyền hạn ban hành, sửa đổi, những quy
định về thể chế, nội dung thì có thể nhận thấy Hiến pháp 1946 là đạo Luật nền tảng và
13 TS. Đặng Minh Tuấn, Trung Quốc và Việt Nam, truyền thống Xô Viết tối cao; Khoa Luật - Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, năm 2012.


10


cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất 14. Hiến pháp 1946 phân chia quyền
lực nhà nước thành ba ngành quyền lực bao gồm: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong
đó, nghị viên nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền làm chủ
của nhân dân. Các cơ quan nhà nước được trao quyền thông qua sự quy định của Hiến
pháp, bộ máy và hoạt động của các cơ quan nói trên đều tuân thủ quy định Hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền quyết định hiệu lực tồn tại của Hiến
pháp thông qua phúc quyết của nhân dân. Hiến pháp 1946 quy định: Nhân dân có
quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo
Điều thứ 32 và 7015.
Hiến pháp 1946 quy định là đạo Luật cơ bản quốc gia trao quyền lực cho Quốc hội
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quy định quyền nghĩa vụ công dân, cách thức
tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương-cơ quan hành pháp và tư pháp.
Về cơ bản, các cơ quan nhà nước thực hiện và chấp hành đầy đủ quy định của Hiến
pháp về quyền hạn và nghĩa vụ.
Thứ ba, Hiến pháp 1946 tuy không thể hiện mô hình bảo vệ Hiến pháp cho quốc
gia nhưng đã có quy định cụ thể và rõ ràng về cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra giám sát
các văn bản quy phạm Pháp Luật tại Điều 31 cũng như Điều 36. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp tại giai đoạn đã bắt đầu ghi nhận sự bảo vệ Hiến pháp thông qua cơ chế kiểm tra,
giám sát của Quốc hội với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, quyền kiểm tra
giám sát đối với các cơ quan nhà nước vẫn thường dựng lại ở mức khuyến nghị, sự
ràng buộc giữa những văn bản mang tính pháp lý và Hiến pháp chưa cao. Quyền quyết
định vẫn thuộc về các cơ quan ban hành văn bản. Hiến pháp chưa được ghi nhận đúng
giá trị, hệ thống Pháp Luật vẫn còn rất nhiều lỗ hổng.
1.3.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp 1959 được ban hành sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, miền Bắc
hoàn toàn độc lập, giai đoạn này đất nước vẫn bị chia cắt, chiến tranh chưa chấm dứt,
14 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam năm 1946, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
15 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam năm 1946, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà
Nội



11

hòa bình chưa được lập lại. Hiến pháp 1959 được xây dựng trên nền tảng kế thừa, sửa
đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp năm 1946, mang đặc thù của hệ thống
Pháp Luật thời chiến, khi quân lệnh chiếm vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực16.
Hiến pháp 1959 đã ghi nhận bước đầu sự xuất hiện của cơ chế bảo hiến đầu tiên ở
Việt Nam. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng dựa trên nền tảng những quy định
của Hiến pháp 1946 cùng với sự tham khảo học tập kinh nghiệm từ hệ thống Pháp Luật
xã hội chủ nghĩa. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ hướng tới mô hình bảo hiến nghị
viện mà các nước xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Hiến pháp 1959 và cơ chế bảo hiến đầu
tiên ra đời trong hoàn cảnh hệ thống Pháp Luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Pháp Luật
xã hội chủ nghĩa một cách thụ động, máy móc và rập khuôn. Với các đặc điểm mô hình
bảo hiến:
Thứ nhất, Mô hình bảo hiến theo theo Hiến pháp 1959 không tồn tại dưới dạng một
cơ quan bảo hiến chuyên trách. Cơ chế bảo hiến bước đầu dựa trên nền tảng quy định
cho một số cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền kiểm tra và giám sát các loại
văn bản nhất định. Về cơ sở pháp lý để hoạt động bảo hiến, Hiến pháp 1959 quy định
gián tiếp giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp so với những văn bản pháp lý được ban
hành mà Quốc hội thông qua, văn bản quy phạm Pháp Luật không được trái Hiến pháp.
Hiến pháp 1959 quy định thẩm quyền cho Quốc hội xử lý văn bản quy phạm Pháp
Luật, đặc biệt làm quyền ban hành những văn bản Pháp Luật. Theo quy định của Điều
48 Các đạo Luật và các nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp quy định ở Điều 112 của Hiến pháp
Thứ hai, Hiến pháp 1959 định những cơ quan ban hành sửa đổi, thủ tục thông qua
các văn bản Pháp Luật, cũng như gián tiếp quy định Hiến pháp là văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất, tạo nên trình tự pháp lý nhất định buộc các văn bản Pháp Luật dưới
Hiến pháp buộc phải tuân thủ, tạo Điều kiện cho mô hình bảo hiến có thể hoạt động.


16

Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội


12

Tuy mô hình bảo hiến vẫn bị lu mờ so với các chế định cơ bản của Hiến pháp khác
nhưng Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những giá trị bảo hiến đầu tiên, mô hình bảo hiến
tuy chỉ mới hình thành nhưng đó là bước tiến lớn về tư tưởng lập hiến ở nước ta.
1.3.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp 1980 được xây dựng khi đất nước hoàn toàn độc lập, là Điều kiện thuận
lợi đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp
đầu tiên có giá trị pháp lý trên toàn quốc, được nhân dân đón nhận, khẳng định độc lập
chủ quyền cũng như con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc đã lựa chọn17.
Hiến pháp 1980 đã ghi nhận và kế thừa của cơ chế bảo hiến đã được quy định ở
Hiến pháp 1959. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng và phát triển dựa trên nền
tảng những quy định của Hiến pháp cùng với sự lựa chọn những ưu điểm từ Hiến pháp
1959. Hiến pháp 1980 và cơ chế bảo hiến Quốc hội đã bước đầu đi vào thực tiễn trong
hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập18.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Hiến pháp 1980 vẫn quy định tiếp tục sử dụng mô
hình bảo hiến như Hiến pháp 1959, lấy Quốc hội làm trung tâm, sử dụng cơ chế kiểm
tra, giám sát để bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Tại khoản 3, Điều 83, Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 đã quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và
quyền hạn thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và Pháp Luật.
Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Căn cứ vào thẩm quyền được quy định, Quốc hội
vẫn tiếp tục là cơ quan bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp.

Để bảo đảm thực hiện cơ chế bảo hiến, Hiến pháp 1980 đã quy định đầy đủ và thống
nhất giá trị pháp lý của Hiến pháp 1980. Điều 146, Hiến pháp 1980 quy định: Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Luật cơ bản của nhà nước, có giá trị pháp
17 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
trang 37
18 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
trang 38


13

lý cao nhất. Mọi văn bản Pháp Luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Quy định được
ghi nhận trong Hiến pháp thể hiện rõ ràng giá trị pháp lý của Hiến pháp, tạo nền tảng,
cơ sở để đưa Hiến pháp vào thực tiễn xã hội và khiến cơ chế bảo hiến có thể được áp
dụng trong hệ thống Pháp Luật. Quy định ngắn gọn nhưng chứ đựng sự đổi mới to lớn
trong toàn bộ lịch sử lập hiến của nước ta, đưa Hiến pháp trở về đúng với giá trị.
Mô hình bảo hiến Quốc hội được áp dụng, tuy nhiên không tồn tại quy định pháp lý
về trình tự, thủ tục xem xét xử lý các văn bản trái Hiến pháp, đồng thời các văn bản
quy phạm Pháp Luật trái Hiến pháp cũng chưa có cách thức xử lý kịp thời nhằm đảm
bảo giá trị tối cao của Hiến pháp. Từ trung ương đến địa phương, các cơ quan nhà nước
đều có nhiệm vụ, thẩm quyền, giám sát kiểm tra Hiến pháp nhưng lại không có cơ quan
chuyên trách xử lý các vi phạm liên quan đến Hiến pháp.
Kế thừa những tinh hoa từ những bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 1980 cũng qui
định cơ chế về việc tuân thủ và thực hiện Hiến pháp của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, công dân. Tuy nhiên, mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1980 vẫn mang tính hình
thức, thiếu trình tự, khó đi vào hoạt động hiệu quả. Tinh thần lập hiến và bảo vệ Hiến
pháp đã được hình thành nhưng do nhiều Điều kiện khách quan mô hình bảo hiến vẫn
chưa tồn tại đúng bản chất.
1.3.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp có giá trị thực tiễn to lớn khi ban

hành vào giai đoạn đất nước đang bắt đầu mở cửa hội nhập toàn cầu, kinh tế trong nước
đang chuyển từ hình thức tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam cũng có những bước chuyển mình to lớn.
Tiếp tục kế thừa và duy trì tư tưởng các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, Hiến
pháp 1992 vẫn lựa chọn mô hình bảo hiến quốc hội thông qua cơ chế giám sát, kiểm tra
Pháp Luật của Quốc hội làm cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Mô hình bảo hiến theo Hiến
pháp 1992 thể chế hóa cụ thể và rõ ràng hơn việc giám sát và thực thi Pháp Luật, quy
định rõ những thẩm quyền cụ thể của quốc hội, các cơ quan nhà nước khác trong viêc
thi hành Pháp Luật.


14

Đặc điểm của mô hình: Hiến pháp năm 1992 xây dựng cơ chế bảo hiến thông qua
kiểm tra giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân dân đối với cơ quan quyền
lực nhà nước, đây là cơ chế giám sát tương đối toàn diện. Quốc hội thực hiện chức
năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước và giám sát tối cao việc
tuân theo Hiến pháp, Luật, nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh đó, các cơ quan khác
cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản
quy phạm Pháp Luật khác để nó không trái với nội dung Hiến pháp.
1.3.5. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp 2013 được xây dựng trong hoàn cảnh lịch sử đặc thù, trong giai đoạn thế
giới và đất nước đang từng bước thay đổi trên nền tảng nhất định, vững chắc, kế thừa
thành tựu của những bản Hiến pháp đã qua cùng với kinh nghiệm lịch sử hơn 60 năm
lập hiến, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi Hiến pháp 1992 theo hướng
hoàn thiện và tích cực hơn.19
Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa những vấn đề mới, nhằm hoàn thiện hệ thống Pháp
Luật trong thực tiễn. Hiến pháp 2013 chưa ghi nhận chế định cơ quan bảo hiến chuyên
trách, việc không ghi nhận một chế định liên quan đến bảo vệ Hiến pháp có nghĩa vẫn
tuân thủ những nét cơ bản, tiếp tục áp dụng mô hình bảo vệ bảo hiến theo Hiến pháp

1992 sửa đổi năm 2001: mô hình bảo hiến dựa trên cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc
hội để bảo vệ giá trị tối cao của Hiến pháp.20
Với các đặc điểm của mô hình:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 đã giao cho Quốc hội là chủ thể trung tâm trong việc thực
hiện chức năng bảo hiến. Do là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội kiểm soát
và chi phối hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước kể cả hoạt động giám sát Hiến pháp.
Quốc hội giám sát, bảo vệ Hiến pháp thông qua những quy định của Hiến pháp và Pháp
Luật. Hệ thống Pháp Luật quy định cơ chế bảo hiến Việt Nam là hai cấp, thẩm quyền bảo
hiến được trao rất nhiều cơ quan từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương,
19 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
trang 40
20 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
trang 40


15

Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban
Pháp Luật thuộc Quốc hội, bộ Tư pháp thuộc chính phủ đều được trao thẩm quyền bảo
hiến.
Thứ hai, đối tượng chủ yếu của cơ chế bảo hiến hiện tại hướng đến việc xem xét
tính hợp hiến những văn bản pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Quy định về thẩm quyền đều hướng tới hình thức kiểm tra, giám sát chéo nhau giữa các
cơ quan nhà nước chứ không đề cập đến yêu cầu bảo hiến của nhân dân. Tuy nhiên,
quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến của công dân không được đề cập đến trong quy
định về bảo hiến hiện nay, dẫn đến quyền lợi ích hợp pháp của nhân dân không được
đảm bảo trong trường hợp bị xâm hại bởi các văn bản hay hành vi vi phạm Hiến pháp.
Thứ ba, trình tự thủ tục của cơ chế bảo hiến hiện tại không rõ ràng khi không tồn tại
quy định nào về cách thức tiến hành hoạt động bảo hiến của cơ quan nhà nước, không có
sự công khai, thống nhất khi tiến hành bảo vệ Hiến pháp. Trong Điều kiện phát triển và hội

nhập hiện nay đòi hỏi cần tồn tại những quy định về trình tự, thủ tục bảo hiến để các cơ
quan, cá nhân và tổ chức có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ bảo hiến.

Thứ tư, Quốc hội đóng vai trò trung tâm trong cơ chế bảo hiến hiện nay. Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao mọi hoạt động giám sát thi hành Pháp Luật, các cơ
quan được phân công có nhiệm vụ thực hiện thẩm quyền theo quy định của Pháp Luật.
Tuy quy định số lượng lớn cơ quan thực hiện bảo vệ Hiến pháp nhưng lại không có cơ
quan chuyên trách thực hiện quyền bảo hiến, rà soát tính hợp hiến. Ngay cả Quốc hội
cũng chỉ mang tính tham vấn trong vấn đề bảo hiến chứ không đi vào thực tiễn hoạt
động bảo vệ Hiến pháp.
1.4. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam
Hoạt động bảo hiến ở nước ta được thực hiện thông qua hoạt động kiểm tra, giám
sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm Pháp Luật, bảo đảm sự thống nhất của hệ
thống Pháp Luật theo nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp.
Với mô hình bảo hiến hiện nay, việc đảm bảo tính hợp hiến, thống nhất của văn bản
quy phạm Pháp Luật chủ yếu được thực hiện trong toàn bộ những giai đoạn xây dựng
văn bản quy phạm Pháp Luật:


16

Xây dựng văn bản quy phạm Pháp Luật
Ban hành văn bản quy phạm Pháp Luật
Kiểm tra giám sát việc áp dụng văn bản Pháp Luật vào thực tiễn.
Trong giai đoạn xây dựng văn bản quy phạm Pháp Luật, tính hợp hiến và thống
nhất được bảo đảm về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành cũng như nội dung và
hình thức xây dựng văn bản quy phạm Pháp Luật. Việc thực hiện nhiệm vụ bảo hiến
đối với văn bản Pháp Luật giai đoạn này đuợc giao cho nhiều đơn vị có trách nhiệm
phối hợp thực hiện theo trình tự thủ tục khép kín. Tuy nhiên, dưới những Điều kiện
khách quan và chủ quan khác nhau, với sự tác động của yếu tố ngoại cảnh, mỗi dự án

xây dựng văn bản quy phạm thuờng trải qua rất nhiều giai đoạn và mang những hạn
chế nhất định. Những văn bản Pháp Luật của từng lĩnh vực vẫn mang tính chồng chéo
lẫn nhau, mâu thuẫn giữa những văn bản có cùng giá trị pháp lý và kể cả những văn
bản quy phạm có giá trị pháp lý thấp hơn cũng không đảm bảo tính thống nhất với văn
bản quy phạm có giá trị pháp lý cao hơn. Những văn bản quy phạm còn ban hành thiếu
tính thực tế, cụ thể, chỉ dừng lại ở vấn đề đưa khung pháp lý đồng thời là sự hạn chế
nhất định trong việc đưa ra văn bản giải thích Pháp Luật, hướng dẫn thi hành tạo ra
những cách hiểu sai lầm khi áp dụng và thực tiễn.21
Sau khi kiểm tra tính hợp hiến, tính thống nhất trong hệ thống Pháp Luật ở giai đoạn
xây dựng văn bản Pháp Luật thì đến giai đoạn ban hành văn bản quy phạm vào thực tiễn cụ
thể vẫn có những điểm vuớng mắc nhất định. Quy định được xây dựng trên nền tảng lý
thuyết bao giờ cũng sẽ thiếu tính thực tiễn ở một phần nào đó. Vậy nên, khi văn bản ban
hành vẫn cần sự giám sát kiểm tra hiệu lực của văn bản nhằm có những Điều chính thực sự
phù hợp với thực tế xã hội. Bên cạnh hoạt động giám sát, kiểm tra tính hợp hiến của các
văn bản quy phạm, Pháp Luật quy định những hoạt động Hiến pháp khác như: giải thích
Hiến pháp Pháp Luật, bảo đảm cho quy định của Hiến pháp được hiểu và áp dụng đúng
đắn, thống nhất. Những hoạt động này là thực sự cần thiết nhưng hiện giờ ở nước ta chưa
có cơ quan chuyên trách Hiến pháp cụ thể để thực hiện hoạt động tương tự.

21 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
trang 48


17

Từ đó có thể nhận thấy: Hiến pháp Việt Nam chưa từng ghi nhận một cơ quan bảo
hiến chuyên trách. Việt Nam xây dựng mô hình bảo hiến thông qua cơ chế kiểm tra,
giám sát lấy cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - Quốc hội làm trung tâm. Qua một
thời gian áp dụng, mô hình bảo hiến Quốc hội đã thể hiện rõ những ưu, nhược điểm.
1.4.1. Ưu điểm

Mô hình bảo hiến hiện tại là mô hình đặc thù phù hợp có những điểm phù hợp với
hệ thống Pháp Luật quốc gia hiện nay.
Thứ nhất, mô hình dựa trên hoạt động giám sát kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp
của những văn bản pháp lý được ban hành cũng như trong hoạt động của cơ quan nhà
nước. Mô hình lấy nền tảng là Hiến pháp cùng với sự hoạt động của Quốc hội trong
vấn đề kiểm sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Phương thức hoạt động kiểm tra giám
sát ở nước ta tương đối cụ thể. Việc giám sát bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính
thống nhất của các văn bản quy phạm Pháp Luật là sự phối hợp giữa nhiều cơ quan
khác nhau trong bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, ngành. Cơ chế được phân cấp quản lý nhà nước
rõ ràng, sự phối hợp được ghi nhận mang tính đồng bộ cao.
Thứ hai, cách thức xây dựng mô hình bảo hiến hiện nay đảm bảo cho nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và giám sát. Quyền lực
của Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân vẫn được giữ vững. Những văn bản quy phạm quốc hội ban hành đều được đảm
bảo tính pháp lý bởi bản thân cơ quan ban hành. Tính pháp lý của văn bản quy phạm
trong hệ thống Pháp Luật cũng đáp ứng yêu cầu của mô hình bảo hiến chuyên trách.
Thứ ba, mô hình bảo hiến hoạt động đã bước đầu tạo ra những nền tảng nhất định,
từng bước trong việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách trong tương lai. Nền
tảng bảo hiến đến từ hoạt động phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với
nhau và quy trình xây dựng quy trình ban hành văn bản quy phạm đầy đủ, chi tiết khiến
cơ quan chuyên trách nếu được thành lập sẽ hoạt động một cách hiệu quả.


18

1.4.2. Hạn chế
Qua nghiên cứu các bản Hiến pháp và quy định của Pháp Luật, cũng như hoạt động
bảo hiến trên thực tiễn ở Việt Nam có thể khẳng định hoạt động bảo hiến ở nước ta hiện
nay còn những hạn chế nhất định:

Thứ nhất, mô hình bảo hiến Quốc hội không đủ khả năng để ngăn chặn những hành
vi vi hiến. Mô hình bảo hiến hiện nay cũng không tồn tại quy định rõ ràng về thẩm
quyền, trách nhiệm, về thủ tục hay trình tự bảo hiến cụ thể. Tất cả chỉ ở mức ước chừng
chứ không có văn bản cụ thể xác định. Tính chất hình thức, không sử dụng Hiến pháp
trong hoạt động nảy sinh sự sai lầm trong nhận thức của toàn thể xã hội về cơ chế bảo
hiến.
Thứ hai, cơ chế bảo hiến hiện nay Việt Nam, Quốc hội giữ hai vai trò vô cùng quan
trọng trong hoạt động bộ máy nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, cơ quan đại diện cho nhân dân toàn quốc giữa chức năng lập hiến, lập pháp. Quốc
hội giữ vai trò quyết định vận mệnh quốc gia, những vấn đề quan trọng của đất nước.
Quốc hội là cơ quan giữ quyền kiểm sát Pháp Luật và hoạt động bộ máy nhà nước
thông qua cơ chế kiểm tra giám sát tối cao hoạt động nhà nước. Vừa giữ vai trò xây
dựng Pháp Luật vừa giữ vai trò kiểm soát Pháp Luật khiến cho hoạt động bảo vệ Hiến
pháp của Quốc hội gặp nhiều vấn đề khó khăn. Thực hiện xây dựng văn bản pháp theo
định hướng đã thông qua, ban hành có hiệu lực trên thực tế rồi mới phát hiện ra những
vấn đề vi hiến thì việc tuyên bố huỷ bỏ một phần hay toàn bộ văn bản Pháp Luật sẽ
không hề dễ dàng. Trên thực tế, chưa có một văn bản quy phạm nào bị tuyên huỷ bộ
một phần hay toàn bộ văn bản trái Hiến pháp và Luật.
Thứ ba, những sai sót trong hoạt động lập pháp của Quốc hội sẽ gây ảnh hưởng lớn
đến hoạt động Hành pháp và Tư pháp. Tuy nhiên, Bộ máy nhà nước thiếu hẳn cơ chế giám
sát Quốc hội, hay ít nhất là cơ chế giám sát hoạt động xây dựng Pháp Luật của Quốc hội,
cần có cơ quan chuyên trách độc lập khác để thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động xây
dựng ban hành hành và thực hiện Pháp Luật. Hiến pháp và Pháp Luật đã không quy định
trách nhiệm phát sinh từ các văn bản vi hiến do Quốc hội ban hành. Bên cạnh đó, Quốc hội
còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan lập hiến, cơ quan lập pháp, cơ quan
giám sát tối cao, quyền lực của Quốc hội bao trùm lên toàn bộ hệ thống


19


chính trị, không có sự phân chia rạch ròi với hệ thống Pháp Luật cũng như Hiến pháp.
Sự chồng chéo, đan xen và mâu thuẫn về quyền hạn luôn diễn ra khi đặt vị trí của Quốc
hội rất cao trong hệ thống chính trị. Quốc hội giữ rất nhiều những quyền năng quan
trọng nhưng lại không thể thực hiện tốt và đầy đủ những quyền năng đó. Thêm vào đó,
hoạt động của Quốc hội còn là những hoạt động của đại biểu kiêm nhiệm, hoạt động
theo nhiệm kỳ, giữ chức vụ nhất định trong hệ thống bộ máy nhà nuớc, đa phần làm
việc ở địa phương, bị tác động bởi các ngành quyền lực hành pháp và lập pháp.
Đồng thời, hoạt động giải thích Pháp Luật của Quốc hội, nhiệm vụ của Uỷ ban
Thuờng vụ Quốc hội chưa được chú trọng thực hiện. Đặc biệt là vấn đề giải thích quy
định Hiến pháp. Hiến pháp chưa mang lại sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống Pháp
Luật. Hiến pháp khi xây dựng còn nhiều vấn đề chưa được chú trọng và làm sáng tỏ.
Nhiệm vụ giải thích Hiến pháp cần được giao cho cơ quan chuyên trách liên quan đến
Hiến pháp thực hiện là đảm bảo tính hiệu quả.
Thứ tư, hệ thống kiểm tra, giám sát hiện nay tồn tại nhiều chủ thể; nhiều tầng giám sát
làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời giảm đi tính
pháp lý, tính hiệu lực của các họat động bảo hiến. Việc giám sát quá nhiều chủ thể dẫn đến
tình trạng không hiệu quả, hơn nữa quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực
hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm Luật, vừa
giám sát, quyết định về việc một đạo Luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp,
Quốc hội còn có trách nhiệm giải quyết việc tuân thủ Hiến pháp trong họat động xét xử
của Tòa án (quyền tư pháp). Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa
số, cách thức như vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho
thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các trường hợp văn bản Luật trái Hiến
pháp và các văn bản Luật cũng trái nhau nhưng không có cơ quan nào đứng ra “phán
quyết” hay hủy bỏ văn bản Pháp Luật không hợp hiến, hợp pháp.
Thứ năm, cũng là hạn chế lớn nhất và cũng là vấn đề mà hiện giờ chúng ta buộc phải
thừa nhận trong hệ thống Pháp Luật hiện nay. Hiến pháp Việt Nam xây dựng là bản Hiến
pháp thành văn có giá trị pháp lý cao nhất nhưng không được coi trọng đúng giá trị. Mọi
cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện hoạt động, nhiệm vụ đều mặc nhiên thừa nhận
những văn bản quy phạm dưới Hiến pháp có giá trị mà không đem quy chiếu với Hiến



20

pháp. Văn bản Luật có thể vẫn thể chế hoá quy định của Hiến pháp nhưng đến văn bản
dưới Luật đặc biệt là những văn bản mang tính địa phương thì liệu còn thể hiện đầy đủ
quy định của Hiến pháp. Hệ thống Pháp Luật chưa ổn định, thống nhất, các cơ quan, tổ
chức, cá nhân chưa coi trọng Hiến pháp, cơ chế phân chia quyền lực ở địa phương rõ
ràng còn mang nhiều tính cục bộ. Vậy nên, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền cần
có mô hình bảo hiến cụ thể. Hiến pháp cần ấn định chủ thể tiến hành phán xét hành vi
vi hiến. Hiến pháp văn bản giới hạn quyền lực của quyền lực nhà nước, bảo vệ công
dân thông qua hoạt động tổ chức phân chia quyền lực, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Khi cơ quan nhà nước không thực hiện theo những quyền hiến định, quyền và nghĩa vụ
của công dân bị vi phạm, hành vi vi hiến xảy ra thì cần có cơ chế bảo vệ hữu hiệu
quyền của nhân dân. Về nguyên tắc, khi đã có Hiến pháp thì phải có chủ thể bảo vệ
Hiến pháp phải xuất hiện. Cơ chế bảo hiến hình thành để bảo vệ bản thân con người tạo
nên nền dân chủ vì vậy nên mô hình bảo hiến nhất thiết phải được xây dựng.
Từ đó có thể nhận ra mô hình bảo hiến như hiện tại thực tế đã không còn đủ
hiệu quả, hoạt động bộc lộ hạn chế mà khó có thể khắc phục. Vì vậy, tại thời điểm hiện
tại, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân xuất hiện nhu
cầu xây dựng mô hình bảo hiến yêu cầu cần có cái nhìn đúng đắn về sự thay đổi mô
hình bảo hiến ở Việt Nam, những hạn chế và ưu điểm đã làm rõ hơn tại sao chúng ta
cần mô hình bảo hiến chuyên trách, đồng thời phù hợp với những Điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội và truyền thống Pháp Luật của Việt Nam.
Nhìn nhận khách quan, việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách sẽ gặp rất
nhiều vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, đa phần đều bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan,
ngại thay đổi, tránh những ảnh hưởng đến bộ máy nhà nước và hệ thống Pháp Luật. Đã
đến thời điểm cần có sự thay đổi.22
1.5. Ví dụ thực tiễn về bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) vừa công bố trên

website thông tin tuyển dụng năm 2015 với nhiều tiêu chí.

22 Bùi Hải Đường, “Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội
trang 53


21

Đáng nói, Agribank công khai tiêu chí ưu tiên cho con em người nhà cán bộ ngân
hàng:“Đối tượng ưu tiên là: con cán bộ hiện đang công tác tại các chi nhánh, văn phòng
đại diện, các đơn vị thuộc Trụ sở chính của Agribank chưa có người con nào làm việc
tại Agribank (con đẻ, con dâu, con rể, con nuôi hợp pháp) được cộng 30 điểm (thang
điểm 100)”.
Cùng với thời điểm tuyển dụng, Tòa án Nhân dân TpHCM đang xét xử vụ án tham
nhũng gần 1000 tỉ đồng với các bị cáo là các lãnh đạo cấp cao của Ngân hàng này.
Dưới góc độ pháp lý thì quy định ưu tiên con em trong ngành trong tuyển dụng vào
Ngân hàng Agribank nói riêng và các cơ quan, tổ chức kinh tế của Nhà nước khác nói
chung là quy định trái Luật, vi Hiến và vi phạm các quy định của Pháp Luật về lao động

Trong hệ thống Pháp Luật Việt Nam hiện nay, không có bất cứ quy định nào quy
định ưu tiên con em cán bộ, con em lãnh đạo, con em trong ngành trong tuyển dụng cán
bộ, công chức, viên chức hay tuyển dụng vào các tổ chức kinh tế của nhà nước. Những
đối tượng ưu tiên trong tuyển dụng chỉ có thể là những người thuộc đối tượng chính
sách, người có công, thân nhân liêt sĩ, thương binh. Ngoài ra có thể ưu tiên những
người có bằng cấp, học vấn cao, có kinh nghiệm. Còn ưu tiên con em cán bộ trong
tuyển dụng là quy định vi hiến, vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước Pháp
Luật. Quy định này không khỏi gây bức xúc trong dư luận.23
Theo thông báo mới đây của Viện Khoa học lao động và xã hội (Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội) thì so với quý IV/2014, số lao động tốt nghiệp đại học, trên đại
học thất nghiệp ở quý I năm nay tăng từ 165.600 người lên 177.700 người.

Như vậy, có thể thấy tình trạng thất nghiệp ở nước ta đang ngày càng gia tăng, nhu cầu
về việc làm rất lớn, đặc biệt là với đối tượng là con em nhà lao động (nông dân, công nhân,
buôn bán nhỏ). Nếu thống kê trong số những người thất nghiệp ở VN thì có lẽ tỉ lệ lớn, rất
lớn là con em nhà lao động – Những người không có tiền để "chạy việc", lo việc, xin việc.
Nếu làm một cuộc Điều tra xã hội học về những người có bằng cấp, trình

23 />

22

độ đã từng thi tuyển công chức, viên chức bị trượt thì sẽ thấy sự thất vọng và bức xúc
của họ ở mức độ nào…
Với quy định ưu tiên 30/100 điểm cho con em cán bộ khi tuyển dụng vào ngân
hàng này, thì con em người lao động ngành khác gần như đã “hết cửa”. Với quy định
ưu tiên như trên thì con em lao động, con em nông dân sẽ không có cơ hội làm việc tại
ngân hàng này. Đó là một sự bất bình đẳng, một quy định trái Luật gây bức xúc dư
luận. Nếu không chặn đứng kiểu tuyển dụng bất bình đẳng này thì câu chuyện “con vua
thì lại làm vua…” sẽ trở lại và không biết sẽ đi đến đâu.

24

Bất bình đẳng trong nguyên tắc "mọi công dân đều bình đẳng" mà Hiến pháp
quy định.
Căn cứ theo hiến pháp thì mọi công dân đều được đối xử bình đẳng và như nhau
bất kể là ai đi nữa. Ở đây Agribank tuyển dụng và ưu tiên cho con của các cán bộ công
chức đang công tác tại ngân hàng như vậy là không phù hợp với hiến pháp.
Trong hệ thống các văn bản quy phạm Pháp Luật thì Hiến pháp là văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất, trong đó quy định các quyền cơ bản của công dân. Các văn bản Pháp
24 />


23

Luật khác như Luật, bộ Luật và các văn bản dưới Luật phải phù hợp và không được trái
quy định của Hiến pháp.
Hiến pháp hiện hành (năm 2013) đã dành ra cả một chương – Chương II để quy
định về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong đó, Điều 14,
Điều 16, Điều 28 Hiến pháp có nội dung, mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật.
Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Cụ Thể:
Điều 14
“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và Pháp Luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Điều 16
“1. Mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội.”
Điều 28
“1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo Điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.”

Ngoài ra, Điều 5, Điều 8 Bộ Luật lao động cũng quy định quyền bình đẳng của
công dân trong việc lao động, làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức có tuyển dụng
lao động được quy định như sau:



×