Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Đánh giá khuynh hướng sử dụng thuốc an thần kinh trong điều trị tâm thần phân liệt tại bệnh viện tâm thần đà nẵng năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.37 KB, 17 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ những năm 1950 của thế kỷ XX việc điều trị bệnh nhân tâm thần
phân liệt (TTPL) đã có nhiều thay đổi do sự xuất hiện của các thuốc an thần kinh
(ATK).
Nếu như trước đây các bệnh nhân tâm thần phân liệt bị nuôi nhốt trong các
bệnh viện, các nhà tù và bị cách ly hoàn thoàn với thế giới bên ngoài thì kể từ
khi thuốc an thần kinh ra đời, họ có thể trở về cuộc sống tại gia đình và cộng
đồng. Bệnh viện chỉ là nơi lưu giữ bệnh nhân trong giai đoạn bệnh cấp tính.
Hiệu quả điều trị của thuốc an thần kinh đối với tâm thần phân liệt là
không cần bàn cãi nhưng chỉ định thuốc, liều lượng và sự phối hợp thuốc ở các
quốc gia khác nhau cũng có nhiều khác biệt.
Mặc dù có những đồng thuận về các nguyên tắc xử dụng thuốc ATK trong
điều trị tâm thần phân liệt trên toàn thế giới, tuy nhiên vẫn có những khác biệt
nhất định trong cách dùng thuốc như chọn thuốc, liều dùng, phối hợp thuốc, …ở
các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã có một số nghiên cứu về vấn
đề này.
Tại Việt Nam hiện đang có một nghiên cứu khảo sát về vấn đề này, tuy
nhiên chưa công bố kết quả.
Do vậy chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Đánh giá khuynh hướng
xử dụng thuốc an thần kinh trong điều trị tâm thần phân liệt tại Bệnh viện
Tâm thần Đà Nẵng năm 2016” với các mục tiêu sau đây:
1. Đánh giá khuynh hướng sử dụng thuốc an thần kinh trong điều trị tâm thần
phân liệt tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng.
2. Đưa ra các khuyến cáo từ các kết quả thu được.

1


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


Thuốc an thần kinh (neuroleptic) hay còn được gọi là thuốc chống loạn
thần (antipsychotic), là một nhóm thuốc được phát triển từ những năm 1950 để
điều trị các rối loạn loạn thần mà trong đó chủ yếu là tâm thần phân liệt.
Có hai nhóm thuốc ATK: nhóm ATK điển hình (typical) hay còn gọi là
ATK thế hệ thứ nhất (first generation) và nhóm ATK không điển hình (atypical
neuroleptic) hay còn gọi là ATK mới (được phát triển từ những năm 1990).
Thuốc ATK mới khác thuốc ATK điển hình ở cấu trúc hóa học, do vậy mỗi
nhóm sẽ tác dụng trên những nhóm receptor ưu tiên.
Các ATK điển hình tác dụng đối vận trên receptor dopamine 2 (D2), theo
đó các thuốc này chẹn receptor D2 tại con đường dopamine của hệ viền, tác dụng
này giải thích cho tác dụng chống loạn thần và các tác dụng phụ đặc trưng của
nhóm ATK này (loạn động cấp, loạn trương lực cơ, bồn chồn bất an, loạn động
muộn ,…).
Các ATK không điển hình tác dụng chủ yếu lên receptor D2 và receptor
serotonin - 2A và tạo ra tác dụng điều trị cũng như tác dụng phụ liên quan tới cả
hai nhóm receptor này [10]. Các ATK không điển hình mặc dù có tác dụng đối
vận lên receptor D2 để điều trị loạn thần, tuy nhiên vẫn không gây các tác dụng
phụ như của ATK điển hình (hội chứng ngoại tháp, tăng prolactin máu). Giả
thiết đưa ra là các thuốc này có tác dụng chặn receptor D2 trong một khoảng thời
gian ngắn đủ để tạo tác dụng chống loạn thần nhưng không đủ dài để gây các tác
dụng phụ điển hình của hệ dopamine.
Các thuốc ATK hiệu quả tốt đối với các triệu chứng dương tính nhưng ít
hiệu quả hơn với các triệu chứng âm tính của tâm thần phân liệt. [7].

2


Bảng 1.1: Một số thuốc ATK đại diện cho hai nhóm
Các thuốc ATK điển hình
Chlorpromazin

Haloperidol
Levomepromazin
Tioridazine Hydrochloride
Fluphenazine
……

Các thuốc ATK không điển hình
Clozapine
Risperidol
Olanzapine
Quetiapine
Aripiprazole
……

Vì có nhiều thuốc ATK được xử dụng trong điều trị TTPL, do vậy để
thuận tiện cho các nghiên cứu khoa học liên quan đến thuốc ATK trong điều trị
các trạng thái loạn thần, các nhà khoa học đã đồng thuận về khái niệm “liều
tương đương”, theo đó liều tương đương của một thuốc chính là liều của thuốc
đó tạo hiệu quả điều trị tương đương 100 mg Chlorpromazine (CPZeq).
Bảng 1.2: Liều tương đương của một số ATK thường dùng
Thuốc

Liều tương đương đồng
thuận (mg/ ngày)

Clorpromazin
Thioridazin
Haloperidol
Sulpiride
Clozapine

Risperidol
Olanzapine

100
100
3
200
100
0,5 – 1
-

Giới hạn có thể của giá
trị tương đương theo y
văn (mg/ ngày)
75 -104
1–5
200 – 333
30 – 150
0,5 – 3
-

Những bệnh nhân được dùng từ 1000 mg CPZeq trở lên được quy ước là
dùng liều cao (excessive dose).
Các thuốc ATK không điển hình mặc dù được cho là những thuốc ít tác
dụng phụ hơn so với các thuốc ATK cổ điển tuy nhiên thực sự không phải vậy.
Thuốc ATK không điển hình mới thực sự gây nhiều tác dụng phụ trên thể chất

3



như mù, cục máu đông gây tử vong, rối loạn nhịp tim, trụy tim, bất lực và rối
loạn tình dục, rối loạn máu, các cơn co giật và khiếm khuyết khi sinh,…
Bảng 1.3: Sự đồng thuận của ADA/APA đối với một số tác dụng phụ trên
chuyển hóa của các ATK không điển hình.
Thuốc
Olanzapine
Clozapine
Risperidone
Quetiapine
Aripiprazole
Ziprazidone

Nguy cơ đái
đường
+
+
D
D
-

Tăng cân
+++
+++
++
++
±
±

Rối loạn chuyển
hóa lipid

+
+
D
D
-

+ = tăng tác dụng; - = không có tác dụng; D = các kết quả chênh lệch; Nguồn: Diabetes care 2004;
27:596-601; J Clin Psychiatry, 2004; 65:267-272

Vai trò của ATK trong điều trị TTPL là vô cùng quan trọng. Mặc dù có những
nguyên tắc sử dụng ATK đã được đưa ra và được sự đồng thuận của các bác sĩ
chuyên khoa tâm thần trên toàn thế giới nhưng trong thực tế tại mỗi nước, mỗi
trung tâm lại có sự lựa chọn khuynh hướng xử dụng thuốc ATK khác nhau.
Năm 2012, tác giả Hiroto Ito đã tổng hợp các nghiên cứu chỉ định thuốc
chống loạn thần năm 2001, 2004 và 2008 ở Đông Á và nhận thấy các nước có
khuynh hướng xử dụng đa trị liệu là Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung
Quốc.
Dùng liều cao lại thuộc về các nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Hồng Kong.
Singapore lại là nơi dùng liều thấp ATK [3].

4


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1.

Đối tượng

Các bệnh nhân TTPL được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của ICD – 10, đang

điều trị nội/ ngoại trú tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng trong tháng 3 năm
2016.
1.2.

Phương pháp nghiên cứu

Mô tả cắt ngang tại một thời điểm.
Những bệnh nhân TTPL đang điều trị nội hoặc ngoại trú tại bệnh viện sẽ
được các bác sĩ giải thích về nghiên cứu và mời tham gia. Sau khi bệnh nhân
đồng ý sẽ tiến hành ký cam kết.
Thông tin được thu thập theo bảng số liệu đã được thống nhất.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel và SPSS.

5


Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 3.1.1: Tuổi trung bình nhóm nghiên cứu
Bệnh nhân
Nữ
Nam

Số (%)
21 (42)
29 (58)

Tuổi TB
38.7 (11.5)

39.5 (7.9)

P
< 0,05

Nhận xét: Trong 50 bệnh nhân, bệnh nhân nữ có 21 người (chiếm tỉ lệ 42 %).
Tuổi trung bình của bệnh nhân nữ là 38,7; của bệnh nhân nam là 39,5 (P < 0,05).
Bảng 3.1.2: Tuổi trung bình bệnh nhân nội và ngoại trú
Bệnh nhân
Nội trú
Ngoại trú

Số (%)
33 (66)
17 (34)

Tuổi TB (SD)
37.7 (9.6)
42.0 (8.7)

P
> 0,05

Nhận xét: Có 33 bệnh nhân nội trú có (chiếm tỉ lệ 66 %). Tuổi trung bình
bệnh nhân nội trú là 37,7; của bệnh nhân ngoại trú là 42,0 (P > 0,05).
Bảng 3.1.3: Tiến triển bệnh của các bệnh nhân nghiên cứu
Bệnh nhân
Nội trú
Ngoại trú


Tiến triển bệnh
Thuyên giảm
Còn triệu chứng
hoàn toàn (%)
(%)
0 (0)
33 (100)
14 (82,3%)
3 (17,7)

Tổng cộng (%)
33 (100)
17 (100)

Nhận xét: Nhóm bệnh nhân nội trú có 33 người (100 %) còn triệu chứng.
Nhóm bệnh nhân ngoại trú có 14 người (82,3 %) thuyên giảm hoàn toàn, 3 bệnh
nhân (17,7 %) còn triệu chứng.

6


3.2. Một số vấn đề liên quan đến chỉ định thuốc của các bệnh nhân trong
nghiên cứu.
Bảng 3.2.1: Tỉ lệ đơn trị liệu và đa trị liệu
Trị liệu
Đơn trị liệu
Đa trị liệu
Tổng cộng

Số bệnh nhân

6
44
50

Tỉ lệ %
12
88
100

Cộng dồn
12
88

Nhận xét: Có 44 bệnh nhân (88 %) dùng đa trị liệu, trong khi chỉ có 6 bệnh
nhân (12 %) dùng đơn trị liệu.
Bảng 3.2.2: Liều CPZeq trung bình của bệnh nhân nội và ngoại trú (mg).
Bệnh nhân
Nội trú
Ngoại trú
Chung 2 nhóm

Số lượng
33
17
50

CPZeq (SD)
466,5 (289,8)
223,5 (178,4)
383,9


P
< 0,05

Nhận xét: CPZeq trung bình của bệnh nhân nội trú là 466,5 mg; của bệnh
nhân ngoại trú là 223,5 mg; CPZeq trung bình của cả hai nhóm là 383,9 mg.
Bảng 3.2.3: So sánh liều CPZeq trung bình của nhóm bệnh nhân ổn định và
nhóm bệnh nhân còn triệu chứng.
Nhóm bệnh nhân

Số lượng

Liều CPZeq
(mg)

Không còn triệu chứng

14

182,1 (114,9)

Còn triệu chứng

36

462,3 (287,7)

P

< 0,01

Nhận xét: Nhóm bệnh nhân còn triệu chứng được dùng liều CPZeq cao hơn
nhóm bệnh nhân không còn triệu chứng (P <0,01).

7


Bảng 3. 2.4: Số bệnh nhân dùng liều cao ở bệnh nhân nội trú và ngoại trú
Bệnh nhân
Nội trú
Ngoại trú
Chung 2 nhóm

Số bệnh
nhân
33
17
50

Số bệnh nhân dùng
liều cao (%)
2 (6 %)
0 (0 %)
2 (1 %)

P
< 0,05

Nhận xét: Có 2 bệnh nhân (6%) được chỉ định thuốc ở liều cao.
Bảng 3.2.5: CPZeq ở nhóm đơn trị liệu và nhóm đa trị liệu.
Đa trị liệu

Đơn trị liệu

Số bệnh nhân
44
6

CPZeq (mg)
413,5
166,6

P
P < 0,05

Nhận xét: Nhóm đơn trị liệu có CPZeq thấp hơn nhóm đa trị liệu.
Bảng 3.2.6: BMI của bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
Phân loại BMI
Gầy
Bình thường
Tiền béo phì
Béo phì độ I
Béo phì độ II
Béo phì độ III
Tổng cộng

Số lượng
9
32
6
3
0

0
50

Tỉ lệ %
18,0
64,0
12,0
6
0
0
100

Nhận xét: Có 6 bệnh nhân (12 %) bị tiền béo phì, 3 bệnh nhân (6 %) bị béo
phì độ I.
Bảng 3.2.7: Số bệnh nhân được theo dõi điện tim khi dùng ATK
Bệnh nhân
Nội trú
Ngoại trú
Tổng cộng

Theo dõi điện tim
Có (%)
Không (%)
25 (75,8)
8 (24,2)
0 (0)
17 (100)
25 (50)
25 (50)


8

Tổng cộng (%)
33 (100)
17 (100)
50 (100)


Nhận xét: Trong số 33 bệnh nhân nội trú có 25 bệnh nhân (75,8 %) được
kiểm tra điện tim. Trong số 17 bệnh nhân ngoại trú, không có bệnh nhân nào
được kiểm tra điện tim.

9


Chương IV
BÀN LUẬN
Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều được điều trị nội/ ngoại trú tại
Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2016.
Độ tuổi bệnh nhân từ 22 đến 65, tuổi trung bình là 39,1. Sự khác biệt về
tuổi ở hai nhóm bệnh nhân nam và nữ không có ý nghĩa thống kê (Bảng 3.1.1).
Bệnh nhân nội trú có 33 người (chiếm tỉ lệ 66 %). Tuổi trung bình bệnh
nhân nội trú là 37,7; tuổi trung bình bệnh nhân ngoại trú là 42,0. Như vậy bệnh
nhân ngoại trú có tuổi trung bình lớn hơn bệnh nhân nội trú (P > 0,05). Điều này
có thể giải thích do bệnh nhân ngoại trú đa số là những bệnh nhân đã bị bệnh
nhiều năm và đang được điều trị, theo dõi ngoại trú tại bệnh viện (Bảng 3.1.2).
Qua Bảng 3.2.1, Chúng ta thấy tỉ lệ bệnh nhân TTPL dùng từ 2 loại ATK
trở lên chiếm 88 %. So sánh với các nước trong khu vực, trong một nghiên cứu
năm 2012, tác giả Hiroto Ito đã nhận thấy tỉ lệ bệnh nhân TTPL được dùng đa trị
liệu năm 2008 ở các nước như sau: Trung Quốc 50,5 %, Hồng Kong 33,3 %,

Nhật Bản 65,9 %, Hàn Quốc 46,9 % [3]. Chung cho các nước ở Đông Á, một
nghiên cứu của Kang Sim năm 2003 cho thấy tỉ lệ đa trị liệu tại các nước Đông
Á là 45,7 % [6].
Một nghiên cứu khác vào năm 2004 cho thấy khuynh hướng sử dụng ATK
ở các nước Đông và Nam Á: “một phần ba bệnh nhân được dùng ATK với liều
từ 300 – 599 mg tương đương chlorpromazine . Liều trung bình cho toàn thể
mẫu là 675,3 ± 645,1 mg tương đương chlorpromazine, Nhật bản là nước sử
dụng liều cao hơn rõ rệt so với các nước khác (1033,8 ± 884,3 mg). Đối với đa
trị liệu thì Singapore và Nhật Bản là hai nước có tỉ lệ dùng đa trị liệu cao nhất
(72 % và 79 %), 95 % đa trị liệu ở Singapore là dùng ATK thế hệ thứ nhất trong
đó có các ATK chậm. Việc dùng 3 thuốc ATK (thậm chí 8 thuốc ATK) là rất
10


phổ biến tại các bệnh viện ở Nhật Bản, thường là sự kết hợp ATK thế hệ thứ nhất
và thế hệ thứ hai (93,2 %) [7].
Mặc dù không thể so sánh với tỉ lệ sử dụng đa trị liệu ở các nước nhưng rõ
ràng tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng các bác sĩ điều trị có khuynh hướng sử
dụng đa trị liệu ở tỉ lệ cao (88 %).
Đa trị liệu có lợi thế là tác dụng trên nhiều hệ receptor khác nhau, giúp
giải quyết được nhiều triệu chứng đích mà bác sĩ và bệnh nhân mong đợi.
Tuy nhiên, do tác dụng trên nhiều hệ receptor nên đa trị liệu trong thời gian dài
có nguy cơ dẫn đến việc bệnh nhân bị nhiều tác dụng phụ hơn, bệnh nhân dễ bị
quá liều thuốc và gia tăng nguy cơ tử vong.
Hơn thế nữa, kết hợp nhiều hơn hai loại thuốc làm gia tăng các tương tác
thuốc dẫn đến thậm chí tác dụng tiêu cực trên điều trị, điều này có thể dẫn đến tái
phát nhiều hơn và bệnh nhân phải nhập viện nhiều hơn [2].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng đa trị liệu cho bệnh nhân như
bác sĩ không tuân thủ nguyên tắc sử dụng ATK, sự yêu cầu của đội ngũ chăm
sóc, tình trạng bệnh của bệnh nhân, …[4].

Tuy nhiên, việc sử dụng đơn hay đa trị liệu cho bệnh nhân TTPL vẫn còn
nhiều bàn cãi. Một số nghiên cứu phân tích lớn (meta – analysis) so sánh đơn trị
liệu và đa trị liệu ở bệnh nhân TTPL cho thấy đa trị liệu tốt hơn về phương diện
hiệu quả điều trị và tuân thủ điều trị. Điều này cho thấy đa trị liệu không phải
luôn luôn là chống chỉ định [1].
Về liều thuốc ATK được chỉ định điều trị cho bệnh nhân TTPL tại Bệnh
viện Tâm thần Đà Nẵng, Bảng 3.2.2 cho chúng ta thấy liều tương đương trung
bình của bệnh nhân TTPL tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng đối với bệnh nhân
nội trú là 466,5 mg chlorpromazine; đối với bệnh nhân ngoại trú là 223,5 mg
chlorpromazine (P < 0,05). Kết quả này phù hợp với thực tế lâm sàng và diễn
11


biến của bệnh nhân, theo bảng 3.2.3 thì 100 % số bệnh nhân nội trú còn triệu
chứng, có nghĩa phải dùng liều ATK cao hơn so với đa số bệnh nhân ngoại trú đã
ổn định và chỉ dùng liều ATK duy trì.
Liều tương đương trung bình cho bệnh nhân của cả hai nhóm TTPL đang
điều trị nội trú và nhóm bệnh nhân TTPL đang điều trị ngoại trú là 383,9 mg
chlorpromazine.
Tương tự như vậy, nhóm bệnh nhân còn triệu chứng dùng liều CPZeq cao
hơn hẳn nhóm bệnh nhân đã hết triệu chứng (Bảng 3.2.3).
Khi so sánh liều CPZeq trung bình của nhóm bệnh nhân được dùng đơn trị
liệu và nhóm được dùng đa trị liệu (Bảng 3.2.5) chúng ta thấy liều CPZeq trung
bình của nhóm bệnh nhân dùng đa trị liệu cao hơn hẳn nhóm bệnh nhân dùng
đơn trị liệu (P < 0,05). Điều này cho chúng ta thấy rằng nếu bệnh nhân được
dùng đơn trị liệu thì liều trung bình ATK hằng ngày của bệnh nhân sẽ thấp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 6 % số bệnh nhân dùng liều cao
thuốc ATK và số bệnh nhân này đều là những bệnh nhân đang điều trị nội trú.
Đây là điều phù hợp vì những bệnh nhân này đều đang trong đợt điều trị cấp
tính.

Nghiên cứu của tác giả Hiroto Ito năm 2008 cho thấy tỉ lệ bệnh nhân dùng
liều ATK cao ở các nước Đông Á như sau: Trung Quốc 17,2 %, Hồng Kong 14,3
%, Nhật Bản 17,6 %, Hàn Quốc 34,4 %, Đài Loan 5,8 % [3].
Mặc dù không thể làm phép so sánh số liệu của nghiên cứu tại Bệnh viện
Tâm thần Đà Nẵng với số liệu của các quốc gia khác trong khu vực, tuy nhiên
chúng tôi cũng có cảm nhận rằng tỉ lệ bệnh nhân dùng liều ATK cao tại bệnh
viện là thấp. Dường như các bác sĩ tại bệnh viện đã tuân thủ tốt một trong những
nguyên tắc khi dùng thuốc ATK cho bệnh nhân TTPL là phải dùng liều thấp tăng

12


dần đến liều hiệu quả, sau đó duy trì để đạt hiệu quả tối ưu chứ không phải dùng
liều ATK cao ngay từ đầu.
Một trong những vấn đề gây trở ngại đối với bệnh nhân TTPL khi dùng
thuốc lâu dài đó là tăng cân. Qua Bảng 3.2.6 chúng ta thấy có tổng cộng 18 %
bệnh nhân bị tiền béo phì và béo phì độ I.
Cơ chế gây tăng cân hiện tại vẫn chưa rõ nhưng có một số giả thuyết sau:
Do các tác dụng êm dịu của ATK, do ATK gây khô miệng dẫn đến khát nước và
bệnh nhân uống nước nhiều trong đó có loại nước giàu calorie, do cài đặt lại sự
kiểm soát, do các chất dẫn truyền thần kinh: các thuốc làm tăng vận chuyển
serotonine cho thấy gây tăng hấp thu carbonhydrate ở người và loài vật [5].
Một nghiên cứu tại Australia, bắc Mỹ và Châu Âu về vai trò của thuốc
ATK đối với rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân TTPL cho thấy những bệnh nhân
bị thừa cân và béo phì chiếm 46% - 79 % [11].
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ 18 % bệnh nhân bị tiền béo phì và
béo phì độ I, không có bệnh nhân nào bị béo phì độ II hoặc độ III.
Một nghiên cứu của các tác giả Malaysia được đăng năm 2008 cho thấy
trong 63 bệnh nhân điều trị bằng ATK không điển hình có 45 (71 %) bệnh nhân
bị thừa cân hoặc béo phì [8].

Với mẫu nghiên cứu hiện có chúng ta không thể kết luận được tỉ lệ béo phì
của bệnh nhân TTPL được điều trị bằng ATK tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng
là thấp hơn tỉ lệ này của nghiên cứu tại Malaysia. Tuy nhiên con số 18% bệnh
nhân bị tiền béo phì và béo phì độ I cũng đáng để chúng ta suy ngẫm.
Toàn bộ 18 % bệnh nhân tiền béo phì và béo phì độ I ở đây đều được dùng
đa trị liệu trong đó chủ yếu là các thuốc ATK không điển hình trong đó có
olanzapin, clozapin và risperidone.

13


Điều này cũng phù hợp vì theo nghiên cứu và đánh giá của ADA/APA
(Bảng 1.) thì các thuốc ATK có tác dụng gây tăng cân nhiều là olanzapine,
clozapine và risperidone.
O Sainah đã đề xuất khi dùng các thuốc ATK để điều trị, đặc biệt là với
các ATK không điển hình cần theo dõi định kỳ cân nặng, BMI, các đánh giá
chuyển hóa như đường máu, lipide máu. Giáo dục tâm lý, đặc biệt hướng dẫn
bệnh nhân lối sống lành mạnh, tập thể dục. Các chương trình giảm cân phải được
xem là một phần của điều trị [8].
Bảng 3.2.7 cho chúng ta thấy có 75,8 % số bệnh nhân TTPL nội trú được
kiểm tra điện tim, trong khi đó không có bệnh nhân TTPL điều trị ngoại trú nào
được kiểm tra điện tim. Điều này cho thấy việc kiểm tra chức năng tim mạch khi
dùng thuốc ATK cho bệnh nhân TTPL ngoại trú đã bị xem nhẹ. Thuốc ATK, đặc
biệt các ATK không điển hình có rất nhiều tác dụng phụ trên hệ tim mạch, đặc
biệt đối với những bệnh nhân lớn tuổi, có tiền sử bệnh lý tim mạch. Do vậy một
nguyên tắc quan trọng khi điều trị ATK cho bệnh nhân là theo dõi điện tâm đồ.
Việc này được thực hiện tốt tại các khoa điều trị nội trú nhưng với các bệnh nhân
điều trị ngoại trú chúng ta lại chưa tuân thủ. Có thể đưa ra nhiều lý do để giải
thích cho điều này nhưng dù lý do nào thì chúng ta vẫn phải tìm cách khắc phục
và phải xem việc theo dõi điện tâm đồ cũng như một số xét nghiệm khác là bắt

buộc trong quy trình điều trị.

14


Chương V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Sau khi khảo sát một số vấn đề về việc sử dụng thuốc ATK tại Bệnh viện
Tâm thần Đà Nẵng chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây:
- Tỉ lệ bệnh nhân TTPL được điều trị bằng đa trị liệu là 88%.
- Liều trung bình tương đương chlorpromazine là 383,9 mg.
- Nhóm bệnh nhân dùng đơn trị liệu có liều ATK trung bình thấp hơn nhóm
bệnh nhân dùng đa trị liệu.
- Có 6 % bệnh nhân được chỉ định thuốc liều cao.
- Tỉ lệ bệnh nhân TTPL bị tiền béo phì và béo phì là 18 %.
- Có 75,8 % bệnh nhân TTPL điều trị nội trú được kiểm tra điện tim. Không
có bệnh nhân TTPL điều trị ngoại trú nào được kiểm tra điện tim.
5.2. Đề nghị
Từ các kết luận trên chúng tôi có các nghị sau đây:
- Các bác sĩ cần cân nhắc khi sử dụng đa trị liệu cho bệnh nhân.
- Kết hợp các liệu pháp khác ngoài dùng thuốc ATK để nâng cao hiệu quả
điều trị, giảm tác dụng phụ cho bệnh nhân.
- Kiểm tra xét nghiệm cần thiết trong quá trình điều trị bằng ATK cho bệnh
nhân TTPL (điện tim, tế bào máu,…) đặc biệt cho các bệnh nhân TTPL
điều trị ngoại trú tại khoa khám bệnh.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
[1] Correll, C.U., Rummel – Kluge, C. et al., “Antipsychotic combination vs
monotherapy

in schizophrenia: a meta analysis of randomized controlled

trials”, Schizophrenia Bulletin, 35, 443 – 447 (2007).
[2] Fenton WS, Blyler CR, et al., “Determinants of medication compliance in
schizophrenia: empirical and clinical finding”, Schizo. Bull 1997; 23: 637 – 51.
[3] Hiroto Ito, Yasuyuki Okumura et al., “International Variation in
antipsychotic prescribing for Schizophrenia: Pooled results from the research on
East Asia psychotropic prescription (reap) studies”, Open Journal of Psychiaty,
2012, 2, 340 – 346.
[4] Ito, H Kozama, et al., “Polypharmacy and excessive dosing: Psychiatrists
perception of drug prescription”, British Journal of Psychiatry, 2005, 187, 243 –
247.
[5] Josephine, M Stanton, “Weight gain associated neuroleptic medication: A
review”, Schizophrenia Bulletin, vol.21, No. 3, 1995.
[6] Kang sim, Alex Su, et al., “Antipsychotic pharmacy in patients with
schizophrenia: A multicenter comparative study in Asia”, British Journal of
Clinical Pharmacology”, DOI: 10. 111/J 1365-2125.2004.0212.
[7] Mian yoon Chong, Chay Hoon Tan, et al., “Antipsychotic drug prescription
for schizophrenia in Est Asia: Rational for change”, Psychiatry and Clinical
neurosciences (2004), 58, 61 – 67.
[8] O Ainsah, R Salmi, et al., “Relationships beetwen antipsychotic medication
and athropometric measurements in patients with schizophrenia attending a
psychiatric clinic in Malaysia”, Hongkong J psychiatry 2008; 18: 23-7.

16



[9] Peter F. Buckley, MD, “New evidence based approaches in bipolar disorders
and schizophrenia”, 2006, Johns Hopkins advanced studies in medicine, pp.12
[10]

Stahl’s,

“Stahl’s

essencial

psychopharmacology”,

Third

Edition,

Cambridge,
[11] Tim Bradshaw, Hilary Mairs, “Obesity and serious mental ill health: A
critical review of the literature”, Health care 2014, 2, 166-182.

17



×