Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Hệ thống an sinh xã hội theo mô hình nhà nước phúc lợi và mô hình nhà nước xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.98 KB, 46 trang )

Viện Xã hội học
Đề tài “Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam trong mơ hình phát triển và quản lý xã hội
Việt Nam giai đoạn 2011-2020” (mã số : CT 11-08-03)
(Chủ nhiệm đề tài : TS. Bế Quỳnh Nga)

Chun đề

Hệ thống an sinh xã hội theo mơ
hình nhà nước phúc lợi và mơ
hình nhà nước xã hội, và việc
vận dụng vào Việt Nam

Trần Hữu Quang

TP. Hồ Chí Minh
Tháng 1-2012


Mục lục

Trang
Mở đầu...................................................................................................................................... 2
I. Các khái niệm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, và bảo hộ xã hội .......................................... 2
II. Mơ hình nhà nước phúc lợi và mơ hình nhà nước xã hội .................................................... 7
A. Nhà nước phúc lợi....................................................................................................... 7
B. Nhà nước xã hội .......................................................................................................... 9
III. Hệ thống an sinh xã hội theo mơ hình nhà nước phúc lợi và nhà nước xã hội ................ 10
A. Quan niệm của một số định chế quốc tế ................................................................... 13
B. Một số cách phân loại trên thế giới ........................................................................... 15
C. Phương thức cung ứng các dịch vụ an sinh xã hội.................................................... 21
IV. Khả năng vận dụng hệ thống an sinh xã hội theo mơ hình nhà nước phúc lợi và nhà nước


xã hội trong bối cảnh Việt Nam hiện nay............................................................................... 30
A. Một số nhận định và đánh giá ................................................................................... 30
B. Những ý kiến về định hướng cải tổ hệ thống an sinh xã hội..................................... 34
C. Khả năng vận dụng ở Việt Nam................................................................................ 37
Tài liệu tham khảo .................................................................................................................. 42

1


Mở đầu
Kể từ khi khởi sự công cuộc đổi mới vào năm 1986 để thốt ra khỏi mơ hình
quản lý theo phương thức kế hoạch hóa tập trung và quan liêu bao cấp, chuyển sang
mơ hình quản lý dựa trên nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhiều thể chế kinh tế và xã hội đã thay hình đổi dạng một cách khá ngoạn mục. Trong
khn khổ của những giải pháp cải tổ sâu rộng ấy, diện mạo của hệ thống phúc lợi xã
hội nói chung cũng như hệ thống an sinh xã hội nói riêng cũng thay đổi gần như toàn
diện : hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội của thời quan liêu bao cấp đã bị giải
thể để nhường bước cho sự hình thành của một hệ thống mới. Tuy nhiên, cho đến
nay, các định chế của một hệ thống an sinh xã hội mới vẫn chưa được xác lập một
cách vững chắc, ổn định, và người ta dễ dàng nhận ra rằng vẫn cịn đang chất chứa
nhiều tình trạng mâu thuẫn và bất ổn ở nhiều mặt.
Bài chuyên đề này sẽ đi vào tìm hiểu một số đặc trưng chính của hệ thống an
sinh xã hội theo mơ hình nhà nước phúc lợi và mơ hình nhà nước xã hội tại một số
quốc gia trên thế giới, và sau đó, thử cố gắng nêu lên một vài ý kiến và suy nghĩ về
những khả năng vận dụng những nguyên tắc và kinh nghiệm của những hệ thống an
sinh xã hội ấy vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam đương đại.
Báo cáo chuyên đề này sẽ bao gồm những mục sau đây : (i) một số khái niệm,
(ii) nhà nước phúc lợi và nhà nước xã hội, (iii) hệ thống an sinh xã hội theo mơ hình
nhà nước phúc lợi và nhà nước xã hội, và (iv) khả năng vận dụng những nguyên tắc
của hệ thống này vào Việt Nam.

Trước khi đi vào tìm hiểu về nhà nước phúc lợi, nhà nước xã hội và các chính
sách an sinh xã hội trong các mơ hình này, chúng ta cần xem lại một số khái niệm
then chốt liên quan tới lĩnh vực này nhằm minh định thật rõ rệt từng thuật ngữ.
I. Các khái niệm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, và bảo hộ xã hội
Trong các văn bản tiếng Anh, có ba thuật ngữ thường được sử dụng đôi lúc
tương đồng nhau đến mức nhiều lúc người ta dễ lẫn lộn chúng với nhau, đó là : social
welfare, social security, và social protection. Tuy vậy, ba thuật ngữ này thực ra cũng
có mức độ cự ly ngữ nghĩa khác nhau.
Trong tiếng Việt, để xác định các khái niệm này cho thật rạch ròi, nhất là trong
2


giai đoạn mà ngay giới khoa học xã hội Việt Nam cũng cần hội nhập quốc tế như hiện
nay, theo thiển ý chúng tơi thì chúng ta cần dịch những thuật ngữ trên tương ứng với
những thuật ngữ tiếng Việt như sau :
- social welfare : phúc lợi xã hội,
- social security : an sinh xã hội, và
- social protection : bảo hộ xã hội.
Trong tiếng Hoa, cụm từ social welfare được người Trung Quốc dịch là “xã
hội phúc lợi” (phiên âm Hán Việt của cụm từ 社會福利 hay 社会福利, shehui fuli). Còn
hai cụm từ social security và social protection thì đều được người Trung Quốc dịch là
“xã hội bảo chướng” (phiên âm Hán Việt của cụm từ 社会保障, shehui baozhang),
trong đó “bảo” là giữ gìn, chăm sóc, “chướng” là che chở. Trong tiếng Hoa, khơng có
cụm từ “an sinh”.
Theo chúng tôi, một cách ngắn gọn, ba thuật ngữ này cần được hiểu như sau :
Phúc lợi xã hội (social welfare) thường được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
các lĩnh vực đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người dân như : giáo dục, y tế, nhà ở,
bảo hiểm xã hội, và hệ thống trợ giúp xã hội.
An sinh xã hội (social security) thường được hiểu theo nghĩa hẹp hơn so với
thuật ngữ phúc lợi xã hội, và chỉ bao gồm : hệ thống bảo hiểm xã hội (social

insurance), hệ thống bảo hiểm y tế (health insurance), các chính sách trợ giúp xã hội
(social assistance) và cứu trợ xã hội (social relief) – tức không bao gồm những lĩnh
vực như giáo dục hay nhà ở.
Còn về thuật ngữ bảo hộ xã hội (social protection) (mà có những người dịch
là “bảo đảm xã hội”, “bảo vệ xã hội” hay “bảo trợ xã hội"1), nếu cần nói một cách
chính xác hơn thì nên dịch là sự bảo hộ của xã hội, thì người ta thường hiểu thuật
ngữ này như tương tự với thuật ngữ an sinh xã hội.
Chữ “phúc lợi” đã xuất hiện trong cuốn Hán Việt từ điển giản yếu của Đào
Duy Anh (xuất bản lần đầu vào năm 1932) với một ý nghĩa ngắn gọn, có chú thích
thêm tiếng Pháp : phúc lợi là “hạnh phúc và lợi ích (bonheur et intérêts)”.2

1

Thuật ngữ “bảo trợ xã hội” ở Việt Nam hiện nay, kể cả ở Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội, thường được hiểu theo nghĩa trợ giúp xã hội, tương ứng với cụm từ social assistance
trong tiếng Anh ; thí dụ : Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo.
2
Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển giản yếu (1932), Sài Gòn, Nxb Trường Thi, in lần thứ ba,
1957, tr. 137.

3


Viện Khoa học Lao động và Xã hội (thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội) và Tổ chức GIZ của CHLB Đức, trong quyển Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam
(vừa được xuất bản vào cuối năm 2011), đã đưa ra định nghĩa về phúc lợi xã hội như
sau (tương ứng của thuật ngữ tiếng Anh social welfare) : “Phúc lợi xã hội là hoạt
động của người dân, cộng đồng và tổ chức trong xã hội nhằm bảo đảm mức sống tối
thiểu và các điều kiện sống nhất định. Phúc lợi xã hội thường chỉ các hoạt động/hành
động giúp những người gặp phải khó khăn trong cuộc sống. Thơng thường, phúc lợi

xã hội bao gồm các chương trình hỗ trợ thu nhập, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ
giáo dục, cung cấp nước sạch.”3
Chúng tôi cho rằng cách định nghĩa về phúc lợi xã hội như trên là quá hạn hẹp,
bởi lẽ trên thế giới (ngoại trừ ở vùng Bắc Mỹ), khi nói đến khái niệm này, thông
thường người ta không chỉ đề cập tới việc “giúp những người gặp phải khó khăn
trong cuộc sống”, mà là nói tới những hoạt động đảm bảo đáp ứng những nhu cầu cơ
bản của mọi người dân trong một quốc gia.
Từ điển Oxford của Anh (2000) liệt kê ra ba nghĩa của chữ welfare như sau :
(a) tình trạng sức khỏe tốt, hạnh phúc và an toàn của một người, một con vật hay một
nhóm (đồng nghĩa với chữ well-being); (b) sự giúp đỡ bằng hành động hoặc bằng tài
chính, thơng thường là của chính phủ, dành cho những người hoặc những con vật
đang cần sự giúp đỡ (thí dụ : một chương trình phúc lợi xã hội, các dịch vụ phúc lợi);
(c) riêng ở Bắc Mỹ thì welfare được hiểu là số tiền mà chính phủ chi trả thường
xuyên cho những người nghèo, thất nghiệp, bệnh tật..., còn ở Anh thì được hiểu như
đồng nghĩa với thuật ngữ social security (an sinh xã hội).4
Từ điền khoa học xã hội do Craig Calhoun làm chủ biên (2002) đã định nghĩa
phúc lợi xã hội (social welfare) một cách vắn tắt là “tình trạng sống đàng hồng hạnh
phúc của xã hội hay cộng đồng nói chung”.5

3

Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Tổ chức GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, Hà
Nội, 2011, tr. 53-54.
4
Welfare : (1) The general health, happiness and safety of a person, an animal or a group
(synonym: well-being); (2) Practical or financial help that is provided, often by the
government, for people or animals that need it (e.g. a social welfare programme; welfare
provision/services/work); (3) (especially North American English) Money that the
government pays regularly to people who are poor, unemployed, sick, etc. (British
English: also social security) (xem Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current

English, 6th edition, Oxford, Oxford University Press, 2000, p. 1470).
5
“The well-being of society or the community at large” (Craig Calhoun [Ed.], Dictionary of
the Social Sciences, Oxford, Oxford University Press, 2000, p. 453).

4


Theo nhà xã hội học người Anh Gordon Marshall (1998), khái niệm phúc lợi
(welfare) là “tình trạng hoặc điều kiện làm ăn khấm khá [doing well] hoặc sinh sống
đàng hoàng, hạnh phúc [being well]”.6 Marshall nhận định rằng lúc đầu người ta
thường nói đến từ welfare khi cần có những biện pháp nào đó để bảo vệ tình trạng
phúc lợi của một cá nhân hay một nhóm nào đó. Vì thế, từ này chủ yếu được sử dụng
trong lĩnh vực chính sách (policy), vì nó gắn trực tiếp với những nhu cầu : “Các
chính sách phúc lợi là những chính sách được thiết lập nhằm đáp ứng những nhu cầu
của cá nhân hay của nhóm.” Theo Marshall, các nhu cầu ở đây cần được hiểu khơng
phải chỉ có những nhu cầu tối thiểu để sinh tồn, mà bao gồm cả những nhu cầu cần
thiết cho một “cuộc sống tử tế và xứng đáng” (a reasonable and adequate life). Các
nhu cầu này bao gồm không chỉ một mức thu nhập tối thiểu để có cái ăn, cái mặc, mà
cịn bao gồm nhà ở đàng hoàng, giáo dục, y tế và cơ hội có việc làm.7
Như vậy, theo chúng tơi, cần định nghĩa phúc lợi xã hội là hệ thống các định
chế, các chính sách và các hoạt động nhằm bảo đảm đáp ứng những nhu cầu thiết
yếu nhất của người dân, với mục tiêu là làm sao cho mọi người dân có được một
cuộc sống đàng hồng, tử tế, xứng đáng với phẩm giá con người. Hệ thống này cần
được hiểu là bao gồm nhiều lĩnh vực như : nhà ở, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, các
chính sách trợ giúp xã hội (trợ giúp những tầng lớp nghèo, tàn tật, dễ bị tổn thương...)
và các chính sách cứu trợ xã hội (khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh...).
Khác với định nghĩa về khái niệm phúc lợi xã hội đã nêu trên của Viện Khoa
học Lao động và Xã hội vốn nhấn mạnh đến các “hoạt động của người dân, cộng
đồng và tổ chức trong xã hội”, chúng tôi cho rằng, một khi đã nói đến hệ thống phúc

lợi xã hội thì ln ln hàm ý rằng nhà nước buộc phải đóng một vai trị thiết kế và
điều phối hết sức quan trọng, mặc dù nhà nước vẫn có thể và cần khuyến khích sự
tham gia đa dạng của các tổ chức và đoàn thể xã hội và tư nhân.
Về khái niệm an sinh xã hội : điều đáng chú ý là quyển Thuật ngữ của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội đã sử dụng cụm từ “an sinh xã hội” để dịch thuật ngữ
social protection (ngay cái tựa của quyển sách này cũng tương tự như vậy). Quyển
Thuật ngữ định nghĩa khái niệm này là “hệ thống các chính sách can thiệp của nhà
nước (bảo hiểm xã hội/trợ giúp xã hội) và tư nhân (các chế độ không theo luật định
hoặc của tư nhân) nhằm giảm mức độ nghèo đói và tổn thương, nâng cao năng lực tự
bảo vệ của người dân và xã hội trước những rủi ro hay nguy cơ giảm hoặc mất thu
6

“Welfare is the state or condition of doing or being well” (Gordon Marshall [Ed.], A
Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford University Press, 1998, tr. 701.
7
Xem Gordon Marshall, sách đã dẫn, tr. 701-702.

5


nhập, bảo đảm ổn định, phát triển và công bằng xã hội.”8 Chúng tôi đồng ý với định
nghĩa này, bởi lẽ, giống như thông lệ trên thế giới, chúng ta có thể hiểu thuật ngữ
social security (an sinh xã hội) và social protection (bảo hộ xã hội) như tương đồng
nhau và có thể hốn chuyển lẫn nhau.
Quyển Thuật ngữ cịn nêu thêm định hướng đường lối an sinh xã hội của chính
phủ Việt Nam như sau : “Theo Chiến lược An sinh Xã hội Việt Nam 2011-2020, an
sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các đối tác
xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi
xã hội, nâng cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và
kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai, chuyển đổi cơ cấu,

khủng hoảng kinh tế dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận
đến các dịch vụ xã hội cơ bản.” Và nói rõ rằng “hệ thống chính sách an sinh xã hội
Việt Nam gồm ba nhóm chính sách chính : (i) chính sách thị trường lao động chủ
động; (ii) bảo hiểm xã hội; và (iii) trợ giúp xã hội.”9
Như vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ rằng khái niệm “an sinh xã hội” được hiểu
một cách chính thức ở Việt Nam hiện nay theo ý nghĩa hẹp hơn so với khái niệm
“phúc lợi xã hội” mà chúng tôi đã nêu trên.
Một khái niệm nữa cũng cần được minh định ở đây là bảo hiểm xã hội. Bảo
hiểm xã hội (social insurance) là thuật ngữ thường được dùng để chỉ một chương
trình quốc gia mang mục tiêu cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản, do nhà nước
trực tiếp đứng ra tổ chức hoặc bảo trợ. Nguyên tắc của hệ thống này là sự chia sẻ chi
phí tài chính giữa các thành viên nhằm đối phó với những hồn cảnh bất trắc như
bệnh tật, mất việc làm, tuổi già... Đối tượng của hệ thống này là một số tầng lớp dân
cư nhất định, với nguồn ngân sách thường là từ tiền thuế và/hoặc tiền phí đóng góp
của những người tham gia. Hệ thống này thường mang tính cưỡng bách (do nhà nước
bắt buộc), nhưng cũng có hệ thống mang tính tự nguyện. Ở Việt Nam hiện nay, hệ
thống bảo hiểm y tế nằm trong hệ thống bảo hiểm xã hội.
Có một số khác biệt quan trọng sau đây giữa bảo hiểm xã hội với bảo hiểm tư
nhân : (a) bảo hiểm xã hội hoạt động dựa trên nguyên tắc chia sẻ và tương trợ giữa
các thành viên với nhau mà không phụ thuộc vào mức phí phải đóng, cịn bảo hiểm tư

8

Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Tổ chức GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, Hà
Nội, 2011, tr. 10.
9
Viện Khoa học Lao động và Xã hội, sách đã dẫn, tr. 11.

6



nhân thì chủ yếu dựa trên nguyên tắc chi trả tương ứng với mức đóng phí ; (b) bảo
hiểm xã hội thường mang tính chất bắt buộc, trong khi bảo hiểm tư nhân thường
mang tính tự nguyện ; (c) việc cung ứng các dịch vụ trong hệ thống bảo hiểm tư nhân
dựa trên sự thỏa thuận giữa nhà bảo hiểm với người được bảo hiểm thông qua một
bản hợp đồng, trong khi đó đối với hệ thống bảo hiểm xã hội, thì thường dựa trên các
chế độ chính sách đối với từng tầng lớp dân cư nhất định, tức là dựa trên quyền được
hưởng trợ cấp của người được bảo hiểm ; (d) bảo hiểm tư nhân thường nhấn mạnh
đến tính chất cơng bình (equity) giữa các cá nhân mua bảo hiểm, cịn bảo hiểm xã hội
thì thường nhấn mạnh nhiều hơn tới tính chất thỏa đáng (social adequacy) của các
khoản trợ cấp đối với mọi thành viên tham gia.
II. Mơ hình nhà nước phúc lợi và mơ hình nhà nước xã hội
Cho đến nay, hai thuật ngữ “nhà nước phúc lợi” và “nhà nước xã hội” thường
được hiểu như gần như tương đương với nhau hay thậm chí đồng nghĩa, mặc dù cũng
có một số tác giả phân biệt sự khác nhau giữa hai thuật ngữ này.
A. Nhà nước phúc lợi
Thuật ngữ “nhà nước phúc lợi” trong tiếng Việt được dịch từ thuật ngữ
Welfare State trong tiếng Anh, État-providence trong tiếng Pháp, hay Wohlfahrtsstaat
trong tiếng Đức. Thuật ngữ tương ứng trong tiếng Hoa là 福利国家 (fú lì g jiā, phiên
âm Hán Việt : “phúc lợi quốc gia”). Trong tiếng Tây Ban Nha, người ta sử dụng cụm
từ Estado del Bienestar, và trong tiếng Bồ Đào Nha là cụm từ Estado de Bem-EstarSocial hay cụm từ Estado de Providência để chỉ khái niệm nhà nước phúc lợi. Ở
Thụy Điển, nhà nước phúc lợi được gọi là Folkhemmet, ra đời từ một thỏa ước ký kết
năm 1936 giữa nghiệp đoàn với các công ty lớn nhằm thiết lập một hệ thống an sinh
xã hội và bảo hiểm y tế phổ quát.
Thuật ngữ Welfare State (nhà nước phúc lợi) được coi là được tạo ra lần đầu
tiên bởi tổng giám mục người Anh William Temple trong thời kỳ chiến tranh thế giới
thứ hai.10 Theo R. Lowe (1993), thuật ngữ này được dùng để nói tới một nhà nước có
trách nhiệm bảo đảm sự phúc lợi và thịnh vượng của người dân và biết tôn trọng luật
lệ quốc tế, đối lập với kiểu “nhà nước chiến tranh” (warfare state, hay power state)
của Đức Quốc Xã vốn là nhà nước chỉ biết áp đặt ý muốn của mình lên người dân và


10

Dẫn lại theo William L. Megginson, Jeffry M. Netter, “From State to Market: A Survey of
Empirical Studies on Privatization”, Journal of Economic Literature, June 2001, 39 (2),
pp. 321-389.

7


các nước láng giềng.11
Khái niệm Welfare State bắt đầu được sử dụng nhiều trong thập niên 1940, đặc
biệt sau Thế chiến thứ hai, được dùng để mô tả những nhà nước có trách nhiệm chủ
yếu trong việc cung ứng phúc lợi xã hội thông qua các hệ thống an sinh xã hội, cung
ứng các dịch vụ và các khoản trợ cấp nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người
dân về mặt nhà ở, y tế, giáo dục và thu nhập,12 mặc dù về sau, thuật ngữ này nhiều
khi được sử dụng một cách khá mơ hồ và hầu như khơng có được một định nghĩa
thống nhất giữa các tác giả, đến mức mà Titmuss nói vào năm 1962 rằng “thuật ngữ
này có vẻ như có nghĩa là đủ mọi thứ”!13
Chúng ta có thể hiểu khái niệm nhà nước phúc lợi theo cách mà N.
Abercrombie và một số tác giả (1988) đã định nghĩa như sau : “Ý tưởng căn bản của
một nhà nước phúc lợi [Welfare State] là : chính quyền có trách nhiệm đối với sự
phúc lợi [well-being] của các cơng dân của mình, và điều này khơng thể được giao
phó cho cá nhân, cơng ty tư nhân hay cộng đồng địa phương.”14 Theo các tác giả này,
nhà nước phúc lợi là nhà nước bảo vệ người dân của mình tránh khỏi sự nghèo đói
bằng các khoản trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia cảnh, phụ cấp thu nhập cho những
người có lương thấp, và trợ cấp người già ; nhà nước phúc lợi cung ứng đầy đủ các
dịch vụ y tế, giáo dục miễn phí, và nhà ở. Những dịch vụ này được tài trợ bởi các chế
độ bảo hiểm của nhà nước và từ nguồn thu thuế khóa.15
Quyển Thuật ngữ (2011) của Viện Khoa học Lao động và Xã hội xác định

rằng khái niệm nhà nước phúc lợi (Welfare State) thuộc về trường phái Beveridge của
Anh và có nghĩa như sau : “Nhà nước phúc lợi (trường phái William Beveridge) là
một hệ thống xã hội trong đó chính phủ chịu trách nhiệm chính trong việc cung cấp
phúc lợi xã hội cơ bản theo các tiêu chuẩn nhất định cho người dân về giáo dục, y tế,
11

R. Lowe, The Welfare State in Britain since 1945, London, Macmillan Press Ltd., 1993.
Dẫn lại theo Mee-Sok Park, Jeong-Won Han, In-Ja Song, “Gender and the Welfare State :
The British Feminist Critiques”, Journal of Korean Home Economics Association, English
Edition, Vol. 3, No. 1, December 2002, tr. 79.
12
Xem Gordon Marshall (Ed.), A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford
University Press, 1998, tr. 702.
13
Richard Titmuss, dẫn lại theo Bent Greve, “What Characterise the Nordic Welfare State
Model”, Journal of Social Sciences, Vol. 3, No. 2, 2007, tr. 44.
14
Nicholas Abercrombie, Stephen Hill và Bryan S. Turner, The Penguin Dictionary of
Sociology, 2nd edition, London, Penguin Books, 1988, tr. 269 (những chỗ nhấn mạnh là
do chúng tôi, THQ).
15
Xem Nicholas Abercrombie, et al., sách đã dẫn, tr. 269.

8


nhà ở, hưu trí và các phúc lợi khác. Đặc điểm của mơ hình nhà nước phúc lợi là
người thụ hưởng khơng phải đóng góp trực tiếp từ tiền túi của mình hoặc đóng góp
rất ít.”16
B. Nhà nước xã hội

Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, người ta ít khi sử dụng thuật ngữ Social State
hay État social (nhà nước xã hội), mà thường chỉ nói đến Welfare State hay Étatprovidence (nhà nước phúc lợi), mặc dù ở Anh, nhà chính trị học William Beveridge
(1879-1963) lúc đầu đã gọi mơ hình nhà nước phúc lợi là “nhà nước dịch vụ xã hội”
(Social Service State), ra đời với một chương trình phúc lợi xã hội do Beveridge soạn
thảo năm 1942 theo yêu cầu của chính phủ Anh, mệnh danh là chương trình
Beveridge. Ở Ý, người ta cũng dùng từ Stato sociale (nhà nước xã hội) để nói đến
nhà nước phúc lợi.
Thuật ngữ “nhà nước xã hội” được sử dụng nhiều chủ yếu ở Đức (Sozialstaat).
Trong tiếng Đức, từ này từng được sử dụng vào năm 1870 bởi Lorenz von Stein
(1815-1890), nhưng mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ hai vào giữa thế kỷ XX mới
trở nên phổ biến, phần nào nhằm tránh thuật ngữ nhà nước phúc lợi (Wohlfahrtsstaat)
vốn lúc đó được một số người sử dụng với hàm ý chê bai.
Quyển Thuật ngữ (2011) của Viện Khoa học Lao động và Xã hội định nghĩa
khái niệm nhà nước xã hội (Social State) như sau : “Nhà nước xã hội (trường phái
Otto Eduard Leopold von Bismarck) là một hệ thống xã hội trong đó việc hưởng các
phúc lợi xã hội cơ bản theo các tiêu chuẩn nhất định của người dân (giáo dục, y tế,
việc làm, nhà ở, nước sạch, hưu trí và các phúc lợi khác) dựa trên đóng góp của cá
nhân và các đối tác xã hội. Mơ hình nhà nước xã hội nhấn mạnh đến vai trò, năng
lực cá nhân trong việc bảo đảm phúc lợi cơ bản của bản thân. Nhà nước đóng vai trị
tạo mơi trường, cơ chế và chỉ can thiệp trong các trường hợp cần thiết nhằm hạn chế
các rủi ro đối với các nhóm đặc thù, bảo đảm cơng bằng và ổn định xã hội.”17
Ở Đức, thuật ngữ nhà nước xã hội (Sozialstaat) tuy đôi khi được hiểu như
cũng đồng nghĩa với thuật ngữ nhà nước phúc lợi (Wohlfahrtsstaat), nhưng thường
bao hàm ý nghĩa hẹp hơn, chỉ bao gồm những biện pháp căn bản nhằm giúp đỡ những
người dễ bị tổn thương trong xã hội, cịn cụm từ nhà nước phúc lợi thì được hiểu rộng

16

Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Tổ chức GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, Hà
Nội, 2011, tr. 50.

17
Viện Khoa học Lao động và Xã hội, sách đã dẫn, tr. 50.

9


hơn, bao gồm những chương trình tổng hợp nhằm bảo đảm các phúc lợi vật chất, văn
hóa và xã hội cho mọi công dân trong xã hội.18
Hans Zacher (1977) đã nêu lên những nguyên tắc của một nhà nước xã hội như
sau : “Nhà nước xã hội là một nhà nước có chức năng bảo đảm và, nếu cần, sửa chữa
những sự chênh lệch do kinh tế gây ra trong xã hội, nhằm mục tiêu đem lại cho tất cả
mọi người một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm bằng cách cung ứng cho các
thành viên của xã hội một số phúc lợi xã hội tối thiểu. Một nhà nước xã hội phải tìm
cách giảm thiểu tối đa hoặc kiểm soát những sự chênh lệch về tài sản tư nhân nhằm
làm sao không ai bị phụ thuộc vào người khác. Nguyên tắc của một nhà nước xã hội
đòi hỏi một nhà nước phải hành xử một cách tương ứng.”19
Còn Franz-Xaver Kaufmann (2005) thì định nghĩa nhà nước xã hội là “điều
kiện chính trị của những xã hội nào đang đi theo con đường hiện đại hóa dựa trên tư
tưởng tích lũy tư nhân và mong muốn giải quyết những hậu quả của q trình hiện
đại hóa trên bình diện cá nhân bằng cách thừa nhận các quyền xã hội [social rights]
và bằng cách thiết lập và phát triển những định chế nhằm thực thi những quyền
ấy”.20
Ở Thụy Sĩ, người ta cũng thường sử dụng thuật ngữ “nhà nước xã hội” hơn là
“nhà nước phúc lợi”. Nói chung, họ hiểu đây là một nhà nước đặt nền tảng trên nhà
nước pháp quyền, kinh tế thị trường và quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
nhưng ngoài những quyền cơ bản của con người thì nhà nước này cịn bổ sung thêm
các quyền xã hội hoặc những mục tiêu xã hội, và còn can thiệp vào thị trường nhằm
điều tiết hoạt động của các nhà sở hữu tư nhân (Bernard Degen, 2007).21
III. Hệ thống an sinh xã hội theo mô hình nhà nước phúc lợi và nhà nước xã hội
Khái niệm nhà nước phúc lợi và khái niệm nhà nước xã hội thường được hiểu


18

Xem và
(truy cập ngày 12-12-2011).
19
Hans Zacher, mục “Sozialstaatsprinzip”, Handwörterbuch der Wirtschaftswissenschaften,
Stuttgart, 1977, tr. 154.
20
Franz-Xaver Kaufmann, “Steuerungsprobleme im Wohlfahrtsstaat”, in Franz-Xaver
Kaufmann, Sozialpolitik und Sozialstaat: Soziologische Analysen, Wiesbaden, VS Verlag
für Sozialwissenschaften, 2005, p. 190, dẫn lại theo Peter Herrmann, Social Professional
Activities and the State, New York, Nova Publishers, 2007, p. 105.
21
Xem Bernard Degen, “État social”, 15-10-2007, Dictionnaire historique de la Suisse,
www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F9932.php (truy cập ngày 5-12-2011).

10


một cách khá tổng quát, và tuy vẫn có sự phân biệt về mặt lý thuyết giữa hai cụm từ
này (đặc biệt là nhấn mạnh rằng “nhà nước phúc lợi” thiên về mơ hình Beveridge của
Anh, cịn “nhà nước xã hội” thì thiên về mơ hình Bismarck của Đức), nhưng giới
nghiên cứu nói chung vẫn khơng đi đến được sự thống nhất về cách định nghĩa cũng
như về những tiêu chí để phân định rạch rịi đâu là nhà nước phúc lợi, đâu là nhà
nước xã hội. Do đó, các nhà nghiên cứu thường không dùng những thuật ngữ này khi
phân tích hay xếp loại cụ thể các loại hình hệ thống an sinh xã hội tại các quốc gia
trong thực tiễn. Mặt khác, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, trong thực tế, có nhiều loại
hình nhà nước phúc lợi hay nhà nước xã hội khác nhau, với những biến thể hết sức đa
dạng.

Một cách tổng quát, nhà nước phúc lợi hay nhà nước xã hội thường được hiểu
là một mơ hình lý tưởng trong đó nhà nước đảm nhiệm chủ yếu trách nhiệm chăm lo
cho các phúc lợi của các cơng dân của mình. Trách nhiệm này thường bao quát toàn
diện tất cả các lĩnh vực phúc lợi, bởi lẽ nếu đấy chỉ là một cái “lưới an toàn” hay chỉ
bao gồm một số tiêu chuẩn tối thiểu thì khơng đủ. Mặt khác, trách nhiệm ấy cũng
phải bao phủ tồn bộ cơng dân, tức phải mang tính chất phổ quát, vì phải xem phúc
lợi xã hội như là một thứ quyền của người công dân.
Nhà xã hội học người Anh Thomas H. Marshall là tác giả đầu tiên đã gắn khái
niệm phúc lợi (welfare) với khái niệm quyền công dân (citizenship), và cho rằng
quyền được hưởng phúc lợi (welfare rights) là nhóm quyền thứ ba mà các thành viên
của xã hội đã giành được trong thế kỷ XX, sau nhóm các quyền dân sự và nhóm các
quyền chính trị. Trong một bài viết nổi tiếng vào năm 1949 mang tên là “Citizenship
and Social Class”, ông quan niệm quyền cơng dân gồm có ba thành tố : quyền cơng
dân về mặt dân sự, về mặt chính trị, và về mặt xã hội (civil, political and social
citizenship). Theo Marshall, nhà nước phúc lợi (welfare state) chính là kết quả của cả
một quá trình lịch sử đấu tranh cho các quyền công dân (citizenship rights) trong suốt
hơn 200 năm qua, mở rộng từ lĩnh vực dân sự, sang lĩnh vực chính trị, rồi tới lĩnh vực
xã hội. Vào thế kỷ XVIII, cuộc đấu tranh cho các quyền công dân dân sự (civil
citizenship) – bao gồm quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tơn giáo, và quyền bình
đẳng trước pháp luật – đã giành được thắng lợi ở Anh. Vào thế kỷ XIX, đó là cuộc
đấu tranh giành quyền cơng dân chính trị (political citizenship), bao gồm quyền ứng
cử và bầu cử. Trong thế kỷ XX, đó là cuộc đấu tranh giành quyền công dân xã hội
(social citizenship) – đây là quyền được hưởng một mức độ an sinh nhất định về mặt

11


kinh tế và quyền được tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội của đất nước.22 Quan
niệm của Marshall đã đặc biệt khẳng định rằng việc được hưởng các khoản phúc lợi
cần được quan niệm như một quyền mang tính pháp lý, dựa trên nguyên tắc phổ quát

(universality), chứ không phải dựa trên quyền ấn định của những cơ quan có thẩm
quyền (discretionary).23
Tại nhiều “nhà nước phúc lợi” (welfare states), đặc biệt là ở châu Âu lục địa,
các lĩnh vực phúc lợi không phải chỉ do nhà nước cung ứng, mà thực tế là một sự
phối hợp giữa các tổ chức nhà nước, tổ chức tương tế, tổ chức tình nguyện và tổ chức
tư nhân. Nhà cung cấp dịch vụ phúc lợi có thể là một cơ quan của nhà nước, một tổ
chức hay một hiệp hội do nhà nước tài trợ, một công ty tư nhân, một tổ chức từ thiện
hay một tổ chức phi lợi nhuận nào đó. Tuy nhiên, nếu những dạng tổ chức thuộc khu
vực tư nhân chiếm đa số thì người ta thường gọi quốc gia này là một thứ “xã hội phúc
lợi” (welfare society), chứ không gọi đấy là “nhà nước phúc lợi”. Và cũng do vậy mà
người ta thường dùng chữ “hệ thống phúc lợi” (welfare system) để mô tả và phân tích
những cách tổ chức phúc lợi khác nhau tại các quốc gia.24
Các nhà nước phúc lợi hiện đại trên thế giới, đặc biệt là ở Tây Âu, đều đã kinh
qua một quá trình tiệm tiến xây dựng hệ thống phúc lợi khởi sự từ cuối thế kỷ XIX và
tiếp tục trong suốt thế kỷ XX. Những hệ thống này thường bắt đầu hình thành từ
những chương trình cứu giúp người nghèo, sau đó mở rộng dần ra thành những
chương trình mang tính phổ quát. Đáng chú ý nhất và gây ảnh hưởng nhiều nhất đến
các quốc gia chính là sự phát triển của chương trình bảo hiểm xã hội ở Đức dưới thời
Bismarck vào cuối thế kỷ XIX. Có những nước như các nước thuộc khu vực Bắc Âu
thì phần lớn phát triển hệ thống phúc lợi dựa trên các tổ chức tương tế (mutualist) độc
lập với nhà nước. Nhưng ở một số nước khác thì hệ thống phúc lợi lại do chính nhà
nước đứng ra đảm nhiệm. Những quốc gia đầu tiên có hệ thống phúc lợi xã hội trên
thế giới là Đức, tất cả các nước Bắc Âu, Hà Lan, Uruguay và New Zealand trong thập
niên 1930. Đặc biệt trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước Âu
22

Thomas H. Marshall, “Citizenship and Social Class”, trong Thomas H. Marshall (Ed.),
Class, Citizenship, and Social Development : Essays by T. H. Marshall, Garden City, New
York, Anchor, 1965, tr. 71-134. Dẫn lại theo Robert J. Brym, New Society. Sociology for
the 21st Century, 2nd edition, Toronto, Harcourt Brace, 1998, tr. 470-471, và theo George

Fallis, “Universities and Democracy”, COU Academic Colleagues' Working Papers, April
22, 2005.
23
Xem Gordon Marshall (Ed.), A Dictionary of Sociology, Oxford, New York, Oxford
University Press, 1998, tr. 702.
24
Xem Arthur Gould, Capitalist Welfare Systems, New York, Longman, 1993.

12


châu đã chuyển dần từ những hệ thống cung ứng phúc lợi hạn hẹp và có chọn lọc
sang những hệ thống phúc lợi tương đối toàn diện hơn và phổ qt, tức bao phủ lên
tồn dân.
Trước khi tìm hiểu các hệ thống an sinh xã hội trong mơ hình nhà nước phúc
lợi và nhà nước xã hội (mục c), chúng ta hãy xem quan niệm về an sinh xã hội của
một số định chế quốc tế (mục a), một số cách phân loại các nước dựa trên tính chất
của hệ thống an sinh xã hội (mục b).
A. Quan niệm của một số định chế quốc tế
Vào năm 1948, Liên hiệp quốc đã ghi rõ trong bản Tuyên ngôn nhân quyền về
quyền được hưởng an sinh xã hội như sau : “Mọi người, với tư cách là thành viên của
xã hội, đều có quyền hưởng an sinh xã hội và được quyền thực hiện, thông qua nỗ lực
của quốc gia và sự hợp tác quốc tế và phù hợp với cách thức tổ chức và các nguồn
lực của mỗi quốc gia, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cần thiết cho phẩm giá
của mình và cho sự phát triển tự do của nhân cách của mình.”25
Năm 1944, Hội nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã nhìn nhận rằng
“nghĩa vụ nghiêm cẩn của tổ chức ILO là thúc đẩy các quốc gia trên thế giới tiến
hành những chương trình thực hiện... việc mở rộng các biện pháp an sinh xã hội
nhằm cung ứng một mức thu nhập căn bản cho tất cả những người có nhu cầu cần
được bảo hộ và cần được hưởng sự chăm sóc y tế toàn diện”.26

Năm 1952, tổ chức ILO đã đưa ra Công ước số 102 qui định những tiêu chuẩn
tối thiểu của hệ thống an sinh xã hội mà sau đó phần lớn các nước trên thế giới đều
dựa vào đó để xây dựng hệ thống an sinh của mình. Hệ thống an sinh tối thiểu này
bao gồm các thành tố như sau : chăm sóc y tế, trợ cấp bệnh tật, trợ cấp thất nghiệp,
trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn nghề nghiệp, trợ cấp gia cảnh, trợ cấp thai sản, trợ
cấp tàn tật, và trợ cấp cho người kiêm hưởng.27
Năm 1958, tổ chức này định nghĩa an sinh xã hội là “kết quả đạt được bởi một

25

“Everyone, as a member of society, has the right to social security and is entitled to
realization, through national effort and international co-operation and in accordance with
the organization and resources of each State, of the economic, social and cultural rights
indispensable for his dignity and the free development of his personality” (Điều khoản 22
của bản Tuyên ngôn nhân quyền [Universal Declaration of Human Rights] năm 1948 của
Liên Hiệp Quốc. Xem trang web : www.un.org/Overview/rights.html).
26
Dẫn lại theo International Labour Organization (ILO), Social Security : A New Consensus,
Geneva, International Labour Office, 2001, tr. 1.
27
International Labour Organization (ILO), The Social Security (Minimum Standards)
Convention No. 102, 1952.

13


loạt các biện pháp tổng hợp và thành công nhằm bảo vệ công chúng (hay một phần
lớn công chúng) khỏi tình cảnh túng quẫn về mặt kinh tế mà nếu thiếu những biện
pháp ấy thì sẽ xảy ra vì khơng còn nguồn thu nhập do bệnh tật, thất nghiệp hoặc tuổi
già và qua đời ; nhằm cung ứng cho giới cơng chúng ấy sự chăm sóc y tế cần thiết ;

và nhằm trợ cấp cho các gia đình trong việc nuôi dạy con cái”.
Đến năm 1984, tổ chức ILO bổ sung cho định nghĩa trên bằng cách nhấn mạnh
tới vai trò của nhà nước, coi đây là “sự bảo vệ mà xã hội cung ứng cho các thành
viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công nhằm tránh rơi vào tình cảnh
túng quẫn về mặt kinh tế mà nếu khơng có những biện pháp này thì sẽ xảy ra vì bị
mất hoặc bị giảm phần lớn nguồn thu nhập do bệnh tật, sinh nở, công việc, tai nạn,
thất nghiệp, tàn phế, tuổi già và qua đời ; cung ứng sự chăm sóc y tế và cung ứng các
khoản trợ cấp cho các gia đình có con”. Nhưng ít lâu sau đó, Tổ chức Lao động Quốc
tế lại đưa ra một định nghĩa khác, lần này khơng cịn nhấn mạnh tới vai trò của nhà
nước : an sinh xã hội là “sự an toàn chống lại một số nguy cơ, được cung ứng thơng
qua cách tổ chức thích hợp cho những thành viên nào của mình có thể rơi vào hoàn
cảnh này. Những nguy cơ này chủ yếu là những sự bất trắc mà cá nhân có ít phương
tiện không thể nào đương đầu nổi bằng khả năng riêng của mình hoặc khơng thể trù
liệu một mình hay kể cả với sự phối hợp riêng tư với những người thân thuộc của
mình.”28
Cịn Hiệp hội An sinh Xã hội Quốc tế (ISSA) thì đưa ra một định nghĩa tương
đối hạn hẹp hơn về an sinh xã hội, và quan niệm rằng đây không chỉ là phần việc của
nhà nước : đó là “những chương trình bảo hộ xã hội do nhà nước thiết lập, hoặc
những tổ chức được ủy nhiệm khác, [có chức năng] cung ứng cho các cá nhân một
mức độ an toàn về thu nhập khi họ phải đối diện với những hoàn cảnh bất trắc do
tuổi già, do lợi quyền thượng tồn29, do mất khả năng, do tàn tật, thất nghiệp hoặc do
phải nuôi dạy con cái. Nó cũng có thể cung ứng quyền được hưởng sự chăm sóc y tế
– chữa trị hay phịng ngừa bệnh tật.”30 Theo tổ chức ISSA, an sinh xã hội bao gồm :
các chương trình bảo hiểm xã hội (social insurance), các chương trình trợ giúp xã hội

28

International Labour Organization (ILO), Introduction to Social Security, Geneva, ILO,
1984, tr. 3 và tr. 83. Dẫn lại theo Madhava P. Rao, “Social Security Administration in
India. Study of Provident Funds and Pension Scheme”, 30 Dec. 2005, MPRA Paper

(Munich Personal RePEc Archive) No. 1919, tr. 2.
29
Survivorship, “lợi quyền thượng tồn”, tức là quyền của người thừa kế phát sinh sau khi
những người đồng thừa kế qua đời (chẳng hạn giữa vợ và chồng), còn gọi là quyền kiêm
hưởng. Xem thêm Vũ Trọng Hùng, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Trọng Khải, Phan Thăng, Từ
điển pháp luật Anh-Việt, TP.HCM, Nxb TP.HCM, 2000, tr. 1247.
30
International Social Security Association (ISSA), www.issa.int/aiss/Topics/About-socialsecurity#, truy cập ngày 27-10-2008.

14


(social assistance), các chương trình phổ quát (universal programmes), các chế độ trợ
cấp hỗ tương (mutual benefit schemes), các quỹ dự phịng quốc gia (national
provident funds), và những chương trình khác trong đó kể cả những chương trình
mang tính thương mại, phù hợp với luật lệ quốc gia hoặc tập quán.
Theo cuốn ESSPROS Manual 1996,31 hệ thống bảo hộ xã hội bao gồm tất cả
những chương trình phúc lợi của nhà nước và của tư nhân trong việc trợ giúp các hộ
gia đình và cá nhân trước những hồn cảnh bất trắc hoặc túng thiếu. Tuy dựa trên
định nghĩa về an sinh xã hội của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) vào năm 1952,32
nhưng hệ thống ESSPROS còn bổ sung thêm nguy cơ của tình trạng bị gạt ra ngoài lề
xã hội (social exclusion), và liệt kê những loại trợ cấp phúc lợi cho những trường hợp
cụ thể sau đây : bệnh tật và chăm sóc y tế, tàn tật, tuổi già, những người kiêm
hưởng33, gia đình/trẻ em, thất nghiệp, nhà ở, tình trạng bị gạt ra ngồi lề xã hội, và
những khoản trợ cấp khác.34
B. Một số cách phân loại trên thế giới
Richard Titmuss (1974) thường được coi là tác giả đầu tiên đưa ra một cái
khung xếp loại các mơ hình phúc lợi. Dựa trên kết quả của phương pháp phân tích đa
chiều kích (tức phương pháp phân tích nhân tố), ơng đã nhận diện ra ba quan niệm
khác nhau về vai trị của chính sách xã hội, và ông nối kết mỗi quan niệm với những

nguyên tắc cung ứng và hưởng dụng các dịch vụ phúc lợi. Theo ơng, trên thế giới, có
ba mơ hình như sau :
(a) Mơ hình phúc lợi tồn dư (residual), trong đó vai trị chủ đạo thuộc về gia
đình và thị trường chứ không phải là sự tái phân phối của nhà nước, và quyền hưởng
phúc lợi phụ thuộc vào việc thẩm tra khả năng thu nhập (means-testing).
(b) Mơ hình phúc lợi phổ quát (universalism) hay cũng có thể gọi là mơ hình
định chế tái phân phối, trong đó nhà nước thay thế vào chỗ của gia đình và thị trường
trong việc bảo đảm phúc lợi theo mục tiêu hướng đến sự bình đẳng.

31

European System of Integrated Social Protection Statistics, ESSPROS (Hệ thống Thống
kê tích hợp về Bảo trợ xã hội Âu châu).
32
ILO Social Security [Minimum Standards] Convention, 1952, No. 102.
33
“Survivors”, những người được hưởng “lợi quyền thượng tồn” (survivorship), tức là quyền
của người thừa kế phát sinh sau khi người đồng thừa kế qua đời.
34
Xem Alexandra Petrásová, “Social Protection in the European Union”, Eurostat. Statistics
in focus, No. 46/2008, tr. 11.

15


(c) Mơ hình đóng góp dựa trên mức thu nhập kiếm được (earnings-related
contributory systems), phản ánh quan niệm đặt nặng trên hiệu quả đạt được trong lao
động (“industrial achievement-performance”) ; trong mơ hình này, cả thị trường lẫn
nhà nước đều cùng có mặt, nhưng người ta ưu tiên nhấn mạnh đến những đóng góp
kinh tế của các cá nhân.35

Theo Gøsta Esping-Andersen (1990), chính lịch sử của các mối liên minh
chính trị giữa các giai cấp mới là nguyên nhân quyết định đối với những biến thể của
mơ hình nhà nước phúc lợi trong các xã hội hiện đại.36 Tác giả này cho rằng phần lớn
các lý thuyết về nhà nước phúc lợi hiện nay đều dựa trên những phân tích truyền
thống về các mức độ cơng nghiệp hóa, về hình thái quyền lực chính trị, hay về khả
năng chi tiêu của ngân sách nhà nước. Kế thừa và khai triển các tư tưởng của Karl
Polanyi (1944),37 Esping-Andersen muốn vượt qua những khn khổ phân tích ấy, và
cho rằng chìa khóa của một hình thái nhà nước phúc lợi chủ yếu nằm trong ba khâu
sau đây : mức độ phi hàng hóa hóa (de-commodification), sự phân tầng xã hội (social
stratification), và tình hình nhân dụng (employment) trong xã hội.38
Esping-Andersen gọi sự “phi hàng hóa hóa” (de-commodification) là tình trạng
trong đó sở dĩ người ta được hưởng các dịch vụ phúc lợi là do người ta có quyền được
hưởng, và người ta có thể duy trì cuộc sống của mình mà khơng cần dựa trên thị
trường.39 Ơng nói rõ rằng cho dù có những chính sách trợ giúp xã hội hay bảo hiểm
xã hội thì điều này khơng nhất thiết dẫn đến một tình hình “phi hàng hóa hóa” thực
thụ nếu chúng khơng thực sự giải phóng các cá nhân ra khỏi sự phụ thuộc vào thị
trường. Khi người công nhân bị lệ thuộc hoàn toàn vào thị trường, họ sẽ rất khó mà
đồn kết với nhau và rất khó mà tập hợp lại được trong những phong trào hành động
tập thể. Chỉ khi nào các quyền xã hội của họ được “phi hàng hóa hóa” thì lúc ấy họ

35

Richard Titmuss, Social Policy : an Introduction, London, Allen&Unwin, 1974. Dẫn lại
theo Deborah Mabbett, Helen Bolderson, “Theories and Methods in Comparative Social
Policy”, www.bbk.ac.uk/polsoc/staff/academic/deborah-mabbett/theories-and-methods
(truy cập ngày 24-10-2008), tr. 18, và Richez-Battesti Nadine, “Régimes d’EtatProvidence et Economie sociale et solidaire en Europe : Le Régime Conservateur franỗais
dộstabilisộ?, www.crida-fr.org/03_actualites/streams/stream%201/1-ISTR-EMES_ paper
_Richez.doc, tr. 2 (truy cp ngy 24-10-2008).
36
Xem Gøsta Esping-Andersen, The Three Worlds of Welfare Capitalism, Oxford, Polity

Press, 1990, tr. 1.
37
Xem Karl Polanyi, The Great Transformation (1944), Boston, Beacon Press, 2001.
38
Xem Gøsta Esping-Andersen, sách đã dẫn, tr. 2-3.
39
Xem Gøsta Esping-Andersen, sách đã dẫn, tr. 21-22.

16


mới thực sự có sức mạnh, và đồng thời, ngược lại, quyền lực tuyệt đối của giới chủ
lúc ấy mới yếu bớt đi.40
Khi nghiên cứu về các loại hình nhà nước phúc lợi, Gøsta Esping-Andersen
nhận định rằng có nhiều kiểu cấu hình sắp xếp (arrangements) khác nhau giữa nhà
nước, thị trường và gia đình. Tác giả này đã dựa trên bảy chỉ báo sau đây để tiến hành
việc loại hình hóa : số lượng các chế độ trợ cấp hưu bổng riêng biệt theo ngành nghề ;
mức độ bao phủ bảo hiểm trong dân cư ; mức chênh lệch giữa mức trợ cấp trung bình
với mức trợ cấp tối đa ; mức chi tiêu tính theo qui mơ tương đối của số người hưu trí
thuộc diện cơng chức nhà nước ; số trợ cấp dựa trên sự thẩm tra khả năng thu nhập
(means tested) ; số người hưu trí thuộc khu vực tư nhân ; và y tế thuộc khu vực tư
nhân.41 Từ đó, Esping-Andersen đã nhận diện ra ba loại hình nhà nước phúc lợi điển
hình như sau :
(a) Loại hình nhà nước phúc lợi theo quan điểm tự do (liberal), trong đó các
đặc trưng chính là : trợ giúp dựa trên sự thẩm tra thu nhập (means-tested) ; hạn chế
chế độ trợ cấp phổ quát (universal transfer) ; hoặc chỉ có những chương trình bảo
hiểm xã hội hạn hẹp. Các khoản tiền trợ cấp thường rất thấp, và chủ yếu chỉ được
dành cho những người có thu nhập thấp hoặc buộc phải sống phụ thuộc vào nhà
nước. Điển hình cho loại hình này là Mỹ, Canada và Úc.
(b) Loại hình nhà nước phúc lợi bảo thủ (conservative) và mang nặng tính chất

“nghiệp hội” (corporatist). Chế độ phúc lợi ở đây dựa trên những khác biệt về vị thế
(status), do đó các quyền ở đây ln đi đơi với các giai cấp và các vị thế. Nhà nước
đóng vai trị chính trong việc cung ứng các dịch vụ phúc lợi xã hội, và hệ thống bảo
hiểm tư nhân chỉ đóng vai trị mờ nhạt. Đặc trưng của chế độ phúc lợi “nghiệp hội”
còn là dựa vào các tổ chức của giáo hội và gia đình. Điển hình cho loại hình này là
Áo, Pháp, Đức và Ý.
(c) Loại hình nhà nước phúc lợi thứ ba là chế độ dân chủ-xã hội (social
democratic), trong đó những ngun tắc về tính phổ quát (universalism) và về việc
phi hàng hóa hóa (de-commodification) các quyền xã hội được mở rộng cho tới cả các
tầng lớp trung lưu. Mục tiêu của khuynh hướng dân chủ-xã hội là xây dựng một nhà
nước phúc lợi hướng đến sự bình đẳng ở mức độ cao nhất, chứ khơng chỉ sự bình
đẳng đối với những nhu cầu tối thiểu như ở các nước khác. Nguyên tắc của nhà nước

40
41

Xem Gøsta Esping-Andersen, sách đã dẫn, tr. 22.
Xem Gøsta Esping-Andersen, sách đã dẫn, tr. 69-77.

17


phúc lợi này là không đợi đến khi các nguồn lực của gia đình cạn kiệt thì mới trợ cấp,
mà là “xã hội hóa các chi phí của đời sống gia đình ngay từ đầu” ("to preemptively
socialize the costs of familyhood”), không phải nhằm tăng cường sự phụ thuộc vào
gia đình, mà ngược lại, nhằm tăng cường những khả năng độc lập của cá nhân. Nhà
nước phúc lợi này cung ứng các khoản trợ cấp trực tiếp cho trẻ em, đảm nhận trách
nhiệm trực tiếp chăm lo cho trẻ em, người già và những người khơng nơi nương tựa.
Điển hình cho loại hình nhà nước phúc lợi này là các nước Bắc Âu.42
Nhà kinh tế học người Pháp Bruno Amable (2005) đã sử dụng phương pháp

phân tích nhân tố và phương pháp phân tích phân loại để tìm cách nhận diện những
nhóm quốc gia khác nhau xét về mặt hệ thống bảo hộ xã hội (protection sociale). Ông
đã dựa trên các số liệu chi tiêu của các quốc gia về những lĩnh vực sau đây : trợ cấp
tuổi già, trợ cấp tàn tật, bảo hiểm y tế, các dịch vụ dành cho người già và người tàn
tật, trợ cấp tử tuất, trợ cấp gia đình, các dịch vụ dành cho gia đình, phụ cấp thất
nghiệp, trợ cấp bệnh tật, trợ cấp nhà ở và một số khoản trợ cấp khác. Các chỉ số được
tính theo ba cách sau đây : (1) phần chi của nhà nước cho từng lĩnh vực trong tổng số
chi cho từng lĩnh vực (bao gồm phần chi của nhà nước cộng với phần chi của tư
nhân ; chỉ tính những khoản bắt buộc phải chi) ; (2) phần chi của nhà nước cho từng
lĩnh vực trong tổng chi tiêu của nhà nước ; (3) tỷ lệ của tổng cộng khoản chi của nhà
nước và của tư nhân cho từng lĩnh vực, tính trên tổng sản phẩm nội địa (GDP). Cơ
cấu các khoản chi tiêu vừa nêu sẽ cho phép hình dung được những chiều hướng tổng
quát của mỗi loại hình hệ thống bảo hộ xã hội, và nhất là những loại nguy cơ nào
được chú ý bảo vệ tương đối mạnh nhất.43
Kết quả xử lý và phân tích của Bruno Amable cho thấy có sáu nhóm quốc gia
khác nhau xét về mặt hệ thống bảo hộ xã hội.
Nhóm 4 bao gồm các nước Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan)
thuộc nhóm nhà nước phúc lợi điển hình theo kiểu dân chủ-xã hội : phần chi tiêu của
nhà nước cho các lĩnh vực xã hội chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng sản phẩm nội địa
(GDP), nhất là các khoản chi cho người già và cho các gia đình. Nhóm 2 (bao gồm
Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản) là nhóm có hệ thống bảo hộ xã hội tư nhân. Nhóm 1 (Úc,
Ireland) và nhóm 6 (Pháp, Đức, Áo, Bỉ) khác nhau chủ yếu về các khoản chi cho
người già và các khoản chi cho gia đình. Nhưng nhóm 1 gần với nhóm 2 (có hệ thống
42
43

Xem Gøsta Esping-Andersen, sách đã dẫn, trang 26-27.
Xem Bruno Amable, Les cinq capitalismes. Diversité des systèmes économiques et
sociaux dans la mondialisation, Paris, Éd. Du Seuil, 2005, tr. 196.


18


bảo hộ xã hội tư nhân), trong khi nhóm 6 có mức độ chi tiêu của nhà nước cho các
lĩnh vực xã hội cao hơn (mơ hình nhà nước phúc lợi Âu châu lục địa).
Về cơ bản, chúng ta có thể nhận thấy rằng kết quả phân loại của Bruno
Amable khá trùng khớp với các khung phân loại của một số tác giả khác (xem
Bảng 1).

19


Bảng 1. Bảng đối chiếu những cách phân loại của các tác giả về một số hệ thống bảo hộ xã hội trên thế giới (theo Bruno Amable)
Nước

1. Úc, Ireland
2. Hoa Kỳ, Canada,
Nhật Bản

3. Anh, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha
4. Thụy Điển, Đan
Mạch, Na Uy, Phần
Lan

Titmuss (1974)

Flora (1986)


Hoa Kỳ nằm trong
mơ hình tồn dư
(residual)

Hoa Kỳ nằm
trong mơ hình
khơng có nhà
nước phúc lợi

Các nước Bắc Âu
(cùng với Anh)
nằm trong mô hình
định chế tái phân
phối

Anh nằm trong
mơ hình phổ qt
tối thiểu
Các nước Bắc Âu
nằm trong mơ
hình phổ qt tối
đa

Những cách phân loại
EspingBradshaw et
al. (1994)
Andersen
(1990)
Mơ hình tự do
Mơ hình tự do

Hoa Kỳ và
Nhật Bản nằm
trong mơ hình
dựa trên gia
đình nhẹ

Mơ hình dân
chủ-xã hội

5. Ý, Hy Lạp

Ý nằm trong
mơ hình dựa
trên gia đình

6. Pháp, Đức, Áo,
Bỉ

Pháp và Đức nằm
trong mơ hình hồn
tồn cơng nghiệp

Pháp và Đức nằm
trong mơ hình nhà
nước-quan liêu
lục địa

Pháp và Đức
nằm trong mơ
hình bảo thủnghiệp hội


Boismenu
(1994)

Théret (1997)

Ebbinghaus
(1998)

Hoa Kỳ và
Canada nằm
trong mơ hình
tự do dân chủ
đa ngun

Mơ hình Hoa
Kỳ có chế độ
bảo hộ xã hội ở
mức độ zero

Hoa Kỳ nằm
trong nhóm mơ
hình tồn dư tự
do

Thụy Điển và
Na Uy nằm
trong nhóm
nghiệp hội
mạnh

Ý (và Pháp)
nằm trong
nhóm nghiệp
hội yếu
Đức và Bỉ nằm
trong nhóm
nghiệp hội
trung bình

Bảo hộ xã hội
tồn diện

Anh nằm trong
mơ hình phổ
qt tự do
Mơ hình phổ
qt dân chủxã hội

Mơ hình la-tinh
clientelist phụ
thuộc
Đức thuộc mơ
hình nghiệp hội
tự do

Mơ hình
nghiệp hội lục
địa

Ghi chú : Dựa trên kết quả phân tích nhân tố các khía cạnh khác nhau của các hệ thống bảo hộ xã hội của các nước,

Bruno Amable đã phân ra thành sáu nhóm nước (nằm trong cột đầu tiên), và trong bảng trên đây, ơng đối chiếu cách phân
loại của mình với những cách phân loại của một số tác giả khác.
Nguồn : Bruno Amable, Les cinq capitalismes. Diversité des systèmes économiques et sociaux dans la mondialisation,
Paris, Éd. Du Seuil, 2005, tr. 204-205.

20


C. Phương thức cung ứng các dịch vụ an sinh xã hội
Ở Tây Âu, người ta có thể đại loại phân biệt ba loại mơ hình cung ứng
dịch vụ an sinh xã hội trong các nhà nước phúc lợi và nhà nước xã hội như sau :
- mơ hình Bismarck ở Đức : được thiết lập bởi những đạo luật ra đời trong
thập niên 1880, hoạt động theo cơ chế bảo hiểm xã hội, theo đó các dịch vụ phúc
lợi được cung ứng dựa trên việc đóng phí, bao gồm những dịch vụ như y tế, hưu
trí, tai nạn lao động dành cho những người lao động.
- mơ hình Beveridge ở Anh : ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh
phí lấy từ tiền thuế, cung ứng các dịch vụ phúc lợi đồng đều cho mọi người trong
xã hội, các mức dịch vụ thường chỉ ở mức thấp tối thiểu
- ở Pháp thì áp dụng một mơ hình trung gian kết hợp giữa hai mơ hình
trên, vừa nhằm bảo vệ xã hội (protection sociale) trước những rủi ro và bất trắc
trong đời sống, vừa nhằm mục tiêu công bằng xã hội thông qua một số cơ chế tái
phân phối thu nhập.
Trên thế giới, chương trình phúc lợi của nhà nước sớm nhất là hệ thống
bảo hiểm xã hội quốc gia (soziale Sicherheit) do thủ tướng Bismarck (18151898) thực hiện ở Đức vào thập niên 1880.44 Đây là một hệ thống bảo hiểm xã
hội cưỡng bách đối với người lao động, bao gồm chế độ lương hưu, chế độ bảo
hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn lao động.
Ở Đức vào hậu bán thế kỷ XIX, lúc đầu, các chương trình phúc lợi khơng
xuất phát từ chính quyền hay tầng lớp quí tộc, mà là từ mấy thành phần sau đây :
một số doanh nhân, giáo hội, và công nhân. Một số nhà kinh doanh đã tìm cách
cải thiện điều kiện sống vất vả của công nhân bằng cách xây nhà ở cho họ chẳng

hạn. Giáo hội thì tìm cách giúp đỡ những người nghèo khổ. Và chính những
người nghèo cũng tham gia những hoạt động đấu tranh trong một số tổ chức
nhằm chống lại tình trạng bất cơng xã hội. Trong thập niên 1860, ở Đức, đã xuất
hiện những hoạt động chính trị mang mục tiêu địi cải thiện đời sống của những
tầng lớp thấp kém trong xã hội. Năm 1863, Câu lạc bộ công nhân Đức (German
Workers’ Club) được thành lập bởi Ferdinand Lassalle, và vào năm 1869, Đảng
44

Otto von Bismarck (tên đầy đủ là Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen)
là thủ tướng của vương quốc Phổ từ 1862 và sau đó là thủ tướng của nước Đức thống
nhất vào năm 1871 cho tới năm 1890.

21


công nhân dân chủ xã hội (Social Democratic Workers’ Party) được thành lập
bởi August Bebel và Karl Liebknecht. Tất cả những nhóm ấy, bao gồm giáo hội,
các nhà kinh doanh, các đảng phái chính trị và chính tầng lớp nghèo khổ đã u
sách địi nhà nước phải có những hành động nhằm chống lại tình trạng bất cơng
xã hội. Lúc đầu, nhà nước tỏ ra ngần ngại. Nhưng sau đó, nhà nước mới dần dà
chấp thuận bằng cách ban hành Luật bảo hiểm y tế vào năm 1883, Luật tai nạn
lao động vào năm 1884, và Luật trợ cấp tàn tật và hưu trí vào năm 1889. Cho đến
tận ngày nay, ba bộ luật được thông qua vào thời Bismarck này vẫn được coi như
là những bộ luật tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực này, và những tư tưởng
chính liên quan tới tính cơng bằng xã hội của ba bộ luật ấy vẫn còn nguyên giá
trị.
Ở Anh Quốc, mơ hình phúc lợi của thủ tướng Đức Bismarck được David
Lloyd George sao chép để đưa vào Anh năm 1911 với một hệ thống quốc gia về
bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp, trong đó mọi người lao động cần phải
đóng phí vào một quỹ bảo hiểm quốc gia. Có thể nói giai đoạn ban sơ của nhà

nước phúc lợi ở Anh bắt đầu hình thành từ đó. Nhưng William Henry Beveridge
(1879-1963) mới là người có ảnh hưởng quyết định tới các chính sách xã hội của
chính quyền Anh và tới việc thiết lập nhà nước phúc lợi toàn diện đầu tiên ở Anh
trong nhiệm kỳ 1945-1950 của chính phủ Cơng đảng.
Năm 1941, Beveridge được giao làm chủ tịch một ủy ban điều tra về việc
quản lý các dịch vụ xã hội, và năm 1942, ông viết bản phúc trình nổi tiếng mang
tên là “Social Insurance and Allied Services” (“Bảo hiểm xã hội và các dịch vụ
liên quan”, thường được gọi là Beveridge Report, “Bản phúc trình Beveridge”),
nhằm cứu giúp những người cần giúp đỡ hoặc đang ở trong tình trạng nghèo đói,
trong đó ơng khai triển những nguyên tắc trong việc xây dựng một nhà nước
phúc lợi (welfare state). Beveridge là một người tình nguyện làm việc cho người
nghèo, và chính ơng đứng ra xây dựng hệ thống bảo hiểm quốc gia. Ông nhận
định như sau : “Mọi người nằm trong tuổi lao động cần phải đóng một khoản
bảo hiểm quốc gia hàng tuần. Bù lại, các khoản trợ cấp sẽ được chi cho những
người bị ốm đau, thất nghiệp, về hưu hoặc góa bụa.” Theo ơng, tình trạng thất
nghiệp, bệnh tật, đói nghèo và túng thiếu là những nguy cơ chủ yếu của các cá
nhân trong một xã hội cơng nghiệp, và đấy là những tình trạng cần được nhà
nước cứu chữa.
Chương trình trợ cấp cho toàn bộ trẻ em (Universal Child Benefit) mà
Beveridge đề xướng xây dựng là một chương trình nhằm mục tiêu khuyến khích
22


mọi người sinh con, bởi lẽ sau chiến tranh thế giới thứ hai, dân số bị sụt giảm và
người ta khơng dám sinh đẻ vì sợ chết đói. Chương trình này đã gây ra một tác
động to lớn lên cả nước Anh. Báo cáo của Beveridge được in ra và phát hành lên
tới con số 600.000 bản. Beveridge khuyến cáo rằng chính phủ cần tìm mọi biện
pháp nhằm chống lại năm đại họa : sự thiếu thốn, bệnh tật, sự dốt nát, sự khốn
cùng, và sự lười biếng (being Want, Disease, Ignorance, Squalor and Idleness).
Ông lập luận rằng để giải quyết những vấn đề này, chính phủ phải cung ứng mức

thu nhập thỏa đáng cho người dân, sự chăm sóc y tế thỏa đáng, nhà ở thỏa đáng,
và việc làm thỏa đáng.
Bản phúc trình của ơng đưa ra khuyến nghị là cần thiết lập hệ thống y tế
quốc gia, hệ thống bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội (social assistance), thực
hiện các chính sách trợ cấp gia đình, và bảo đảm cơng ăn việc làm.45
Chính là dựa trên những ý tưởng của Beveridge trong bản phúc trình này
mà kể từ ngày 5-7-1948, ba đạo luật quan trọng là đạo luật bảo hiểm quốc gia
(National Insurance Act), đạo luật trợ giúp quốc gia (National Assistance Act), và
đạo luật dịch vụ y tế quốc gia (National Health Service Act) bắt đầu có hiệu lực,
chính thức khai trương nhà nước phúc lợi hiện đại của Anh Quốc. Thomas
Hörber nhận định rằng hệ thống chăm sóc y tế mang tên là National Health
Service (NHS) (Cơ quan y tế quốc gia) theo đó mọi người đều được chữa bệnh
miễn phí, chính là hịn đá tảng của nhà nước phúc lợi Anh. Và điều này thể hiện
“một chính sách xã hội mang mục đích tự nó và nhằm phục vụ cho sự an sinh
của xã hội. Nguyên tắc liên đới [solidarity] – nguyên tắc nền tảng [của chính
sách này] – là cơ sở của một hệ thống y tế tồn quốc có qui mơ toàn diện nhất
được thiết lập từ trước đến nay”46 (những chỗ nhấn mạnh là do chúng tôi, THQ).
Hệ thống phúc lợi y tế này hoạt động dựa trên ngân sách thu được từ tiền thuế, áp
dụng cho việc chăm sóc y tế đối với mọi người dân ; ngoài y tế, cịn có những hệ
thống phúc lợi khác, dựa trên ý tưởng mà Beveridge nêu ra là người dân phải
được bảo vệ và chăm sóc “từ trong nơi cho tới nấm mồ” ("from the cradle to the
grave”).
Sau hệ thống an sinh xã hội quốc gia đầu tiên ở Đức thời Bismarck trong

45

Nicholas Abercrombie, Stephen Hill và Bryan S. Turner, The Penguin Dictionary of
Sociology, 2nd edition, London, Penguin Books, 1988, tr. 269-270 và tr. 20.
46
Thomas Hörber, “Societal Security – The Development of the European Social Model

during the Cold War”, Hamburg Review of Social Sciences, Vol. 2, Issue 2, August
2007, tr. 45-46.

23


thập niên 1880, một số nước Tây phương khác dần dà áp dụng mơ hình này như
Đan Mạch năm 1891, New Zealand năm 1898, Áo năm 1906, Úc và Anh năm
1908. Đến năm 1935, đã có 27 nước thiết lập hệ thống bảo hộ công cộng. Mỹ và
Nhật Bản là những nước công nghiệp cuối cùng tiến hành những chương trình
này.47
Nói chung, ở châu Âu, quan niệm về hệ thống “bảo hộ xã hội” (social
protection) được hiểu như bao gồm các thành tố như sau :
- các chương trình trợ cấp thất nghiệp,
- các chương trình trợ cấp y tế (để trang trải cho tình trạng mất thu nhập
do bệnh tật và những chi phí về chăm sóc y tế),
- các chương trình trợ cấp tàn tật hoặc tai nạn lao động,
- các chương trình trợ cấp gia đình (để trang trải cho những thiệt thịi do
gia đình có con và có thêm con),
- các chương trình trợ cấp xã hội khác để trang trải những hồn cảnh khó
khăn (như tan vỡ gia đình khiến cho thu nhập bị giảm sút).48
Theo số liệu của Eurostat-ESSPROS, vào năm 2005, tỷ lệ chi tiêu cho hệ
thống bảo hộ xã hội tính trên tổng sản phẩm nội địa (GDP) ở 27 nước thuộc Liên
minh Âu châu (EU) bình quân là 27,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ của các nước hết sức
chênh lệch nhau, chẳng hạn mức cao nhất là 32,0% ở Thụy Điển, trong khi ở
Latvia chỉ đạt mức 12,4%.

47

Xem Mai Huy Bích, “An sinh xã hội ở châu Âu và Mỹ”, Tạp chí Xã hội học, số 1

(93), 2006, tr. 100.
48
Xem Mai Huy Bích, bài đã dẫn, tr. 96.

24


×