Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trẻ sốt và một số yếu tố liên quan của các bà mẹ có con nằm điều trị tại bệnh viện Đức Giang”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.75 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

LƯƠNG HÀ MAI PHƯƠNG

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH CHĂM SÓC TRẺ
SỐT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA CÁC BÀ MẸ
CÓ CON NẰM ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐỨC GIANG

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

Hà Nội, tháng 01 - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

LƯƠNG HÀ MAI PHƯƠNG

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH CHĂM SÓC TRẺ
SỐT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA CÁC BÀ MẸ
CÓ CON NẰM ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐỨC GIANG

Chuyên ngành: Điều dưỡng
Mã số: 8.72.03.01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng



Hà Nội, tháng 01 - 2019


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương 1: TỔNG QUAN

3

1.1

Khái niệm về sốt

3

1.2

Cơ chế bệnh sinh của sốt

4

1.3.


Phân loại sốt

8

1.3.1

Theo mức thân nhiệt

8

1.3.2.

Theo thời gian sốt

8

1.3.3.

Kiểu sốt trên lâm sàng

9

1.3.3.1

Kiểu sốt

9

Kiểu khởi phát sốt


9

1.4.

Các yếu tố ảnh hưởng tới sốt

10

1.4.1.

Vai trò của vỏ não

10

1.4.2.

Vai trò tuổi

10

1.4.3.

Vai trò của nội tiết

10

1.5.

Đặc điểm điều hòa thân nhiệt ở trẻ em


10

1.6.

Nguyên nhân gây sốt

11

1.6.1.

Các bệnh nhiễm khuẩn

11

1.6.2.

Các bệnh không nhiễm khuẩn có sốt

12

.
1.3.3.2
.


1.7.

Các dấu hiệu nhận biết khi trẻ sốt

12


1.7.1.

Ở trẻ nhỏ

12

1.7.2.

Ở trẻ lớn

13

1.8.

Hậu quả của việc sốt cao ở trẻ em

13

1.8.1.

Hậu quả tốt

13

1.8.2.

Hậu quả xấu

13


1.9.

Cách đo thân nhiệt

14

1.9.1.

Dụng cụ đo thân nhiệt

14

1.9.2.

Cách đo nhiệt độ

14

1.9.2.1

Đo nhiệt độ ở nách

14

Đo nhiệt độ ở miệng

15

Đo nhiệt độ tại hậu môn


15

1.10.

Cách xử trí khi trẻ bị sốt

15

1.10.1.

Với trẻ sốt cao

15

1.10.2.

Khi trẻ sốt nhẹ

16

1.11.

Nuôi dưỡng khi trẻ sốt

16

1.12.

Tác hại của thuốc hạ sốt


16

1.13.

Biến chứng của sốt

18

1.14.

Các nghiên cứu về sốt và chăm sóc trẻ khi sốt

18

1.14.1.

Các nghiên cứu về sốt ở trẻ em và chăm sóc trẻ khi sốt

18

1.14.2.

Các nghiên cứu về sốt ở trẻ em và chăm sóc trẻ khi sốt

20

.
1.9.2.2
.

1.9.2.3
.

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

24


2.1.

Đối tượng nghiên cứu

24

2.2.

Phương pháp nghiên cứu

24

2.2.1.

Thiết kế nghiên cứu

24

2.2.2.

Phương pháp thu thập số liệu


24

2.3.

Cỡ mẫu

24

2.4.

Kỹ thuật chọn mẫu

25

2.5.

Cách thức thu thập số liệu

25

2.5.1.

Các biến số nghiên cứu

25

2.5.2.

Sơ đồ nghiên cứu


26

2.6.

Xử lý số liệu

27

2.7.

Sai số và cách khống chế

27

2.8.

Đạo đức nghiên cứu

27

Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ

29

3.1.

Thông tin về đối tượng nghiên cứu

29


3.1.1.

Đặc điểm của trẻ trong nhóm nghiên cứu

29

3.1.2.

Đặc điểm của bà mẹ trong nhóm nghiên cứu

30

3.2.

Kiến thức, thái độ và hành vi xử trí sốt của bà mẹ.

32

3.2.1.

Kiến thức của bà mẹ về vấn đề sốt ở trẻ

32

3.2.2.

Thái độ của bà mẹ về vấn đề sốt ở trẻ

33


3.2.3.

Thực hành của bà mẹ khi con bị sốt

34

3.3.

Một số yếu tố liên quan đến cách xử trí sốt của bà mẹ

36

3.3.1

Mối liên quan về kiến thức của bà mẹ với vấn đề sốt ở trẻ

36

3.3.2.

Mối liên quan về thái độ của bà mẹ với vấn đề sốt ở trẻ

37

3.3.3.

Một số yếu tố liên quan giữa thực hành với thái độ về sốt của

42


bà mẹ


Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN

45

4.1.

Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

45

4.1.1.

Đặc điểm của trẻ

45

4.1.2.

Đặc điểm về mẹ

45

4.2.

Kiến thức của các bà mẹ về vấn đề sốt ở trẻ

45


4.3.

Thái độ của các bà mẹ về vấn đề sốt ở trẻ

45

4.4.

Cách xử trí sốt của các bà mẹ

45

4.4.1.

Cách phát hiện trẻ sốt của các bà mẹ

45

4.4.2.

Biện pháp hạ sốt ban đầu cho trẻ của các bà mẹ

45

4.4.3.

Cách nuôi dưỡng trẻ khi sốt của bà mẹ

45


4.5.

Mối liên quan giữa TĐHV với kiến thức, thực hành về chăm

45

sóc trẻ sốt của các bà mẹ
4.5.1.

Mối liên quan giữa TĐHV và kiến thức về sốt của bà mẹ

45

4.5.2.

Mối liên quan giữa TĐHV và thực hành chăm sóc trẻ sốt của

45

bà mẹ
DỰ KIẾN KẾT LUẬN

46

DỰ KIẾN KIẾN NGHỊ

47

KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1: BỘ CÂU BỘ PHỎNG VẤN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNVC

Công nhân viên chức

NT

Nội trợ

THPT

Trung học phổ thông

CĐ, ĐH

Cao đẳng, Đại học

PG E

Prostaglandine E

UNICEF

United National Chirldren’s Fund


WHO

World Health Organization : Tổ chức Y tế thế giới

IMCI

Intergrated management of childhood illness:
Chương trình lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh

DANH MỤC BẢNG
STT

Tên

Trang


Bảng 3.1

Đặc điểm của bà mẹ trong nhóm nghiên cứu

29

Bảng 3.2

Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình

30

Bảng 3.3


Điều kiện kinh tế của đối tượng nghiên cứu

30

Bảng 3.4

Kiến thức của bà mẹ về sốt

30

Bảng 3.5

Kiến thức của bà mẹ về dấu hiệu sốt ở trẻ

31

Bảng 3.6

Kiến thức của bà mẹ về biến chứng của sốt ở trẻ

31

Bảng 3.7

Kiến thức của bà mẹ về sử dụng thuốc hạ sốt ở trẻ

31

Bảng 3.8


Kiến thức của bà mẹ về loại thuốc hạ sốt hay dùng cho
trẻ

32

Bảng 3.9

Đánh giá chung về kiến thức của các bà mẹ

32

Bảng 3.10

Thái độ của bà mẹ về việc xử trí khi trẻ bị sốt

32

Bảng 3.11

Cách phát hiện trẻ sốt của bà mẹ

33

Bảng 3.12

Biện pháp hạ sốt ban đầu cho trẻ

33


Bảng 3.13

Cách dùng thuốc hạ sốt khi trẻ sốt

34

Bảng 3.14

Cách nuôi dưỡng khi trẻ sốt

34

Bảng 3.15

Nguồn kiến thức về chăm sóc sốt của các bà mẹ

35

Bảng 3.16

Kiến thức của bà mẹ về biến chứng của sốt ở trẻ theo
TĐHV

35

Bảng 3.17

Mối liên quan giữa nghề nghiệp với kiến thức sốt

34


Bảng 3.18

Mối liên quan giữa TĐHV với kiến thức sốt

35

Bảng 3.19

Mối liên quan giữa tuổi với kiến thức sốt

35

Bảng 3.20

Mối liên quan giữa số con với kiến thức sốt

36


Bảng 3.21

Mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân với kiến thức
sốt

36

Bảng 3.22

Mối liên quan giữa thu nhập TB của gia đình với kiến

thức sốt

37

Bảng 3.23

Mối liên quan giữa nghề nghiệp mẹ với thái độ về sốt

37

Bảng 3.24

Mối liên quan giữa học vấn mẹ với thái độ về sốt

38

Bảng 3.25

Mối liên quan giữa tuổi mẹ với thái độ của mẹ về sốt

38

Bảng 3.26

Mối liên quan giữa số con với thái độ của mẹ về sốt

39

Bảng 3.27


Mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân với thái độ của
mẹ về sốt

39

Bảng 3.28

Mối liên quan giữa thu nhập với thái độ về của sốt của
mẹ

40

Bảng 3.29

Mối liên quan giữa số con với thực hành của mẹ về sốt

40

Bảng 3.30

Mối liên quan giữa nghề nghiệp mẹ với thực hành về
sốt của mẹ

41

Bảng 3.31

Mối liên quan giữa học vấn mẹ với thực hành về sốt

41


Bảng 3.32

Mối liên quan giữa tuổi mẹ với thực hành của mẹ về
sốt

42

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT

Tên

Trang

Biểu đồ 3.1

Đặc điểm về giới của nhóm trẻ trong nghiên cứu

28

Biểu đồ 3.2

Đặc điểm về tuổi của nhóm trẻ trong nghiên cứu

29

Biểu đồ 3.3

Đánh giá chung về thái độ khi trẻ bị sốt


33


Biểu đồ 3.4

Đánh giá chung về thực hành khi trẻ bị sốt

36


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo sinh lý bệnh học thì về cơ bản sốt là một phản ứng bảo vệ, vì khi
sốt làm tăng số lượng bạch cầu, tăng khả năng thực bào của bạch cầu, tăng tế
bào của hệ liên võng ...; nhiệt độ cao do sốt còn có tác dụng ức chế sự sinh
sản của một số virut (cúm, bại liệt...) [1].
Ở trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ khi hệ thống miễn dịch của cơ thể còn chưa
hoàn thiện nên trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, nhiễm khuẩn
đường hô hấp, …. [2], [5]. Khi mắc các bệnh, đa số trẻ sẽ có phản ứng sốt
kèm theo để phản ứng bảo vệ lại cơ thể. Sốt còn làm tăng nội tiết tố có tác
dụng chống viêm và chống dị ứng, tăng khả năng phân huỷ vi khuẩn, tăng các
chức phận sinh lý. Nhưng khi sốt cao và kéo dài có thể dẫn đến rối loạn
chuyển hoá các chất, rối loạn các chất và rối loạn các chức phận cơ quan, tạo
nên vòng xoắn bệnh lý [3], [4], [5].
Sốt cao hoặc sốt kéo dài dễ dẫn đến tình trạng mất nước, điện giải, thiếu
các chất dinh dưỡng do tăng chuyển hóa, giảm hấp thu, kém ăn. Trẻ sốt kéo
dài dẫn đến nguy cơ suy dinh dưỡng, chậm phát triển về thể chất [5]. Ở trẻ
dưới 6 tuổi sốt cao có khi kèm theo co giật [4]. Sốt cao co giật thường gặp ở

trẻ nhỏ và để lại những di chứng nặng nề cho đứa trẻ sau này giả ở Mỹ và
châu Âu, 3-5 % số trẻ em < 5 tuổi bị sốt cao co giật một hoặc nhiều lần, tỷ lệ
gặp cao nhất trong khoảng 10 tháng đến 2 tuổi [7], [8], [5]. Ở Việt Nam theo
Lê Thanh Hải và cộng sự, co giật do sốt ở trẻ dưới 7 tuổi vào khoa cấp cứu
lưu bệnh viện Nhi Trung Ương giai đoạn 1984-1990 chiếm 2.12% số trẻ nhập
viện trong thời gian đó [10]. Cơn co giật kéo dài dẫn đến thiếu oxi não làm
tổn thương các tế bào thần kinh (giảm trí nhớ, động kinh), thậm chí hôn mê,
tử vong hoặc làm tăng nguy cơ co giật cho những lần sau khi trẻ sốt [5], [3].
Kiến thức thái độ hành vi của người mẹ, người chăm sóc và người nuôi dưỡng
trẻ mỗi khi con mình bị sốt có ảnh hưởng rất lớn tới việc điều trị, mức độ
nặng cũng như sức khỏe của trẻ em. Vì vậy việc nâng cao kiến thức và kĩ


2

năng thực hành của các bà mẹ để phòng ngừa các biến chứng của sốt trước
khi trẻ tiếp cận với dịch vụ chăm sóc y tế đóng vai trò rất quan trọng.
Trong những năm gần đây, đề tài về sốt và chăm sóc trẻ khi sốt đã
được một số tác giả quan tâm; tuy nhiên kết quả thay đổi theo thời gian, địa
điểm nghiên cứu cũng như các dịch vụ chăm sóc sức khỏe… bên cạnh đó với
mong muốn tiến hành nghiên cứu để nâng cao nghiệp vụ cho các nhân viên y
tế tại bệnh viện đa khoa Đức Giang. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài
“Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trẻ sốt và một số yếu
tố liên quan của các bà mẹ có con nằm điều trị tại bệnh viện Đức Giang”.
Các kết quả của đề tài sẽ giúp cho việc lập kế hoạch truyền trông giáo dục sức
khỏe cho các bà mẹ, cách chăm sóc trẻ khi bị sốt trong tương lai. Đề tài với
hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ
có con nằm điều trị tại bệnh viện Đức Giang năm 2019.
2. Phân tích mối liên quan đến kiến thức và thực hành đúng trong chăm

sóc trẻ sốt của các bà mẹ.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về sốt
Sốt là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh lý toàn thân gây nên rối loạn
điều hòa thân nhiệt, làm phá vỡ sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt của cơ
thể. Trong nhiều bệnh lý, đặc biệt là các bệnh nhiễm khuẩn, triệu chứng sốt
thường xuất hiện rất sớm. Vì vậy, sốt còn được coi là triệu chứng nhạy bén và
đáng tin cậy. Sốt là trạng thái thân nhiệt cao hơn bình thường [5], một trẻ được
coi là sốt khi nhiệt độ đo ở nách ≥ 37,5 0C [11].
Một số tác giả cho rằng: “Sốt là hiện tượng tăng thân nhiệt của cơ thể được xác
nhận khi đo nhiệt độ ở hậu môn trên 37,8 0C (ở trẻ bú mẹ) hoặc trên 380C (ở trẻ
lớn hơn) trong điều kiện cơ thể nghỉ ngơi, do hậu quả của sự rối loạn trung tâm
điều hoà nhiệt ở vùng dưới đồi làm tăng ngưỡng thân nhiệt” [7].
Một bệnh nhân được đánh giá là sốt khi thân nhiệt như sau: [2]
- Sốt nhẹ: 37,5 0C – 38,0 0C
- Sốt vừa: 38,00C – 38,5 0C
- Sốt cao: 38,5 0C – 39,0 0C
- Sốt rất cao: ≥ 39,5 0C
Cách phân loại trên dựa vào nhiệt độ đo ở nách [7],[17].
Cơ chế điều hòa nhiệt của cơ thể người:
Sự ổn định nhiệt độ cơ thể là một điều kiện để đảm bảo cho các phản ứng hóa
học diễn ra bình thường. Nhờ có cơ chế điều hòa nhiệt nên nhiệt độ của cơ thể
luôn được duy trì trong giới hạn bình thường. Rối loạn điều nhiệt sẽ dẫn đến
rối loạn hoạt động chức năng cơ thể. [7]



4

Ở cơ thể người cũng như ở các loài động vật máu nóng khác, thân nhiệt luôn
được duy trì ở mức hằng định hoặc dao động trong một giới hạn hợp lý do có
sự cân bằng giữa hiện tượng “sinh nhiệt” và hiện tượng “thải nhiệt”.
- Hiện tượng sinh nhiệt: Nhiệt lượng được sinh ra trong cơ thể người do quá
trình “đốt cháy” carbonhydrat, acid béo và acid amin mà chủ yếu là trong quá
trình co cơ và tác động của hormon thông qua men ATP-aza (Adenosin
triphosphataza). Sinh nhiệt do cơ bắp có tầm quan trọng đặc biệt vì nó có thể
thay đổi tùy theo nhu cầu do sự chỉ huy của võ não (hữu ý) hoặc do thần kinh
tự động. Một nguồn sinh nhiệt nữa của cơ thể là do cơ. Trong co cơ, năng
lượng sinh ra dưới dạng nhiệt năng, do đó lao động thể lực làm cho thân nhiệt
tăng lên, Run cơ khi rét thực chất cũng là co cơ với biên độ thấp và là một
nguyên nhân sinh nhiệt quan trọng, có tới 80% năng lượng bị mất đi dưới
hình thức này [7].
- Hiện tượng thải nhiệt: Cơ thể thải nhiệt ra môi trường xung quanh chủ yếu
bằng các con đường đối lưu, bức xạ và bốc hơi qua bề mặt da. Chi phối các
quá trình này do tuần hoàn đưa máu đến bề mặt của cơ thể nhiều hay ít và bài
tiết mồ hôi dưới tác động của thần kinh giao cảm [4]. Ngoài con đường trên,
cơ thể còn thải nhiệt qua hô hấp, mất nhiệt qua các chất thải (phân, nước
tiểu…) [2], [3].
- Trung tâm điều hòa nhiệt: Duy trì sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt
được đặt dưới sự điều hành của trung tâm điều hòa nhiệt, nằm dưới đồi thị của
não. Nếu tổn thương trung tâm điều hòa nhiệt thì cơ thể người sẽ mất khả
năng duy trì thân nhiệt ổn định và lúc đó nhiệt độ của cơ thể sẽ biến đổi theo
nhiệt độ của môi trường xung quanh gọi là hiện tượng “biến nhiệt” [4].
1.2. Cơ chế bệnh sinh của sốt [3],[4]
Sốt là trạng thái tăng thân nhiệt chủ động do trung tâm điều hòa nhiệt bị rối
loạn trước tác động của chất gây sốt (chất sinh nhiệt). Chất sinh nhiệt có hai

loại: chất sinh nhiệt nội sinh và chất sinh nhiệt ngoại sinh [5], [12].


5

- Chất sinh nhiệt nội sinh: đó là các cytokine do bạch cầu sinh ra thông qua
Prostaglandine E2 tác động lên thụ thể ở trung tâm điều nhiệt gây sốt.
- Chất sinh nhiệt ngoại sinh: được biết rõ nhất là các pyrogen thuộc các thành
phần, độc tố, các sản phẩm của các vi sinh vật.
Cơ chế gây sốt nội sinh: đó là các cytokine do bạch cầu sinh ra thông qua
Prostaglandine E2 tác động lên thụ thể ở trung tâm điều nhiệt gây sốt.
Ở một số nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra đem tiêm tĩnh mạch một kháng
nguyên cho một con vật đã gây cảm ứng trước có thể trong một số điều kiện,
gây sốt nhanh không khác gì một đáp ứng với nội tiết tố. Trái lại không sốt
nếu con vật không được cảm ứng. Đem tiêm huyết tương của con vật đã được
cảm ứng cho một vật tiếp nhận thì phản ứng nhiệt xuất hiện khi tiêm kháng
sinh vào tĩnh mạch, nhưng nếu đem tiêm tế bào lách hay tế bào bạch – hạch
thì không gây phản ứng nào cả. Hơn nữa lại có mối liên quan chặt chẽ giữa tỉ
lệ kháng thể đặc hiệu với phản ứng sốt. Tiêm tĩnh mạch một hợp phức kháng
sinh kháng thể cho thực nghiệm không gây cảm ứng sẽ tạo ra sốt [11], Những
thực nghiệm này có thể thực hiện sau quá trình cảm ứng bằng kháng sinh vi
khuẩn hay sau gây miễn dịch cho vật bằng protein lạ (thí dụ albumin huyết
thanh người) hoặc bằng hapten của thuốc trong vài trường hợp trước sự hiện
diện của quá nhiều kháng sinh hợp phức kháng nguyên - kháng thể cố định
ngay bổ thể rất cần thiết để tạo ra sốt. Trong mọi trường hợp ta đã chứng minh
rõ ràng sự tổng hợp của gây nhiệt nội sinh.
Chất gây sốt ngoại sinh: được biết rõ nhất là các pyrogen thuộc các thành
phần, độc tố, các sản phẩm của các vi sinh vật [11].
- Tác nhân vi khuẩn: Khi người ta tiêm cho thỏ một liều độc tố của khuẩn
Coli từ 1-3mg/kg, sốt sẽ xuất hiện sau 15-30 phút và đạt đỉnh cao giữa 90 và

120 phút. Phản ứng này chống nội tiết tố vi khuẩn, chủ yếu do lipo-polisacarit
Lipit A gồm một nhân diglucosamit este hóa và amin hóa do một acid béo dài


6

chuỗi như 2 ceto 3 desoxytonat và một gốc pyrophotphat là nguyên nhân phản
ứng vì khi lipo - polisacarit bị hủy thì hết sốt [11].
-

Tác nhân nấm: Những chiết xuất từ nấm chết gây sốt cho vật. Những

polisacarit rút ra từ vách cryptococ tạo phản ứng nhiệt. Những chiết xuất từ
protein cũng làm tăng nhiệt nhưng chỉ trên những con vật đã được cảm ứng
như vậy loại sốt này có thể do cơ chế khác gây ra [11].
-

Tác nhân siêu vi khuẩn: Nhiễm trùng do những siêu vi khuẩn chết tip

influenza hay coc-sac-ki gây sốt. Hình như những phân tử Glucido Lipit trong
ngưng kết tố hồng cầu của siêu vi khuẩn là nguyên nhân của sốt vì nếu bị hủy
đi thì khả năng gây bệnh cũng mất.
Cơ chế gây sốt:
Sốt là một phản ứng của cơ thể trước nhiều tác nhân: vi khuẩn và độc tố của
chúng, nấm, ricketsia, kí sinh trùng, một số chất hóa học và một số thuốc,
hormon, các kháng nguyên của cơ thể…Những tác nhân gây sốt trên gọi là
chất sinh nhiệt ngoại sinh. Các chất sinh nhiệt ngoại sinh tác động thông qua
chất trung gian gọi là chất sinh nhiệt nội sinh. Interleukin-1 do các tế bào đơn
nhân và đại thực bào sản xuất ra, bản chất là một peptid có vai trò đáp ứng
sớm hay “đáp ứng của giai đoạn cấp tính” và được coi là cytokin đảm nhiệm

chức năng sinh nhiệt nội sinh. Hoạt động của interleukin-1 được thực hiện khi
chúng tác động lên các nơron cảm ứng nhiệt ở vùng trước thị giác của vùng
dưới đồi thị, kích thích quá trình tổng hợp prostaglandin nhóm E từ acid
arachidonic. Prostaglandin E mà đặc biệt là PG-E1 sẽ kích thích quá trình
tổng hợp adenyl monophosphat vòng (AMP vòng) để hoạt hóa quá trình sinh
nhiệt. Thực chất của quá trình sinh nhiệt là một dãy phản ứng thần kinh- hóa
học phức tạp chưa hoàn toàn sáng tỏ. Nhìn chung những nguyên nhân làm
tăng sản xuất chất sinh nhiệt nội sinh Interleukin-1 hoặc tăng sản xuất
Prostaglandin E đều làm tăng quá trình sinh nhiệt và ngược lại (asprin và các


7

dẫn xuất) có tác dụng hạ sốt thông qua cơ chế ức chế men cyclo-oxygenaza từ
đó ngăn cản tổng hợp prostaglandin E1, E2. Glucocorticoid hạ nhiệt thông
qua cơ chế ức chế sản xuất ra interleukin-1 v.v…) [5], [12].
Cần phải nhấn mạnh rằng, sốt là một phản ứng của cơ thể đối với các chất
sinh nhiệt ngoại sinh (phần lớn là các tác nhân gây bệnh) thông qua vai trò
trung gian của interleukin-1; là đáp ứng đặc thù của cơ thể với các nhiễm
trùng và viêm nhiễm cấp tính. Một số đáp ứng này mang tính bảo vệ. Do vậy,
không phải tất cả mọi trường hợp sốt đều cần dùng thuốc hạ sốt ngay mà chỉ
khi sốt gây rối loạn những chức năng của cơ quan trong cơ thể lúc đó mới cần
phải hạ sốt [12].
Chất gây sốt nội sinh làm thay đổi điểm đặt nhiệt của trung tâm khiến nó điều
chỉnh thân nhiệt vượt 370C. nói cách khác, lúc này nhiệt độ 37 0C được trung
tâm coi là bị nhiễm lạnh, do vậy cơ thể phản ứng giống như bị nhiễm lạnh.
Như vậy, trung tâm điều nhiệt trong sốt không rối loạn mà vẫn điều chỉnh
được thân nhiệt và vẫn phản ứng đúng quy luật với sự thay đổi nhiệt độ của
môi trường. Khi chất gây sốt hết tác dụng, điểm điều nhiệt trở về mức 37 0C,
cơ thể phản ứng giống như bị nhiễm nóng. Nếu thân nhiệt trong sốt quá cao,

trung tâm mới bị rối loạn, mất khả năng điều chỉnh [5]


8

1.3. Phân loại sốt.
1.3.1. Theo mức thân nhiệt.
- Sốt nhẹ: 37,50C – 380C
- Sốt vừa: 380C – 38,50C
- Sốt cao: 38,50C – 390C
- Sốt rất cao: ≥ 39,50C
Cách phân loại trên dựa vào nhiệt độ đo ở nách [7]
1.3.2. Theo thời gian sốt.
- Sốt cấp tính: thường dưới 7 ngày, gồm các bệnh nhiễm trùng do virus.
- Sốt kéo dài: thời gian sốt ít nhất 2 tuần [4], [13]
- Sốt kéo dài không rõ nguyên nhân: khái niệm này dùng để chỉ những trường
hợp sốt kéo dài mà trong vòng 1 tuần với sự tích cực tìm kiếm của bác sỹ và
sự giúp đỡ của các xét nghiệm thường quy vẫn không xác định được nguyên
nhân [13],


9

1.3.3. Kiểu sốt trên lâm sàng [11]
1.3.3.1. Kiểu sốt
Theo quan niệm kinh điển, sốt bao gồm sốt dao động, sốt liên tục, sốt từng
cơn, sốt có chu kỳ [12],[17],[18]:
Sốt dao động: là khi nhiệt độ trong ngày (lấy nhiệt độ hàng giờ) dao
động > 10C.
Sốt liên tục: là khi nhiệt độ trong ngày dao động ít (chênh lệc 1 0C, có

tác giả lấy tiêu chuẩn 0,50C). Khái niệm “sốt cao liên tục” hay còn gọi là sốt
hình cao nguyên để chỉ những trường hợp nhiệt độ tăng trên 39 0C và dao
động chênh lệch 0,50C.
Sốt thành cơn: khi trong ngày có những cơn sốt rõ rệt (kể cả cảm giác
của người bệnh và lấy nhiệt độ chứng minh) xen kẽ với những thời gian hoàn
toàn không sốt. Trong ngày có thể có 1 hoặc nhiều cơn sốt.
Sốt có chu kỳ: cơn sốt trong ngày xảy ra cùng một thời gian và kiểu sốt
tương tự. Chu kỳ có thể xảy ra hàng ngày hoặc cách ngày hoặc cách 2 ngày.
Kiểu sốt này hay gặp trong sốt rét tái phát. “Sốt hồi quy” cũng có thể coi là
sốt có chu kỳ nhưng từng đợt sốt kéo dài nhiều ngày xen kẽ những đợt nghỉ
nhiều ngày không sốt
1.3.3.2. Kiểu khởi phát sốt
Trong lâm sàng, kiểu khởi phát sốt được các thầy thuốc rất chú ý bởi lẽ có thể
là định hướng cho chẩn đoán nguyên nhân. Dựa vào kiểu khởi phát sốt, nguời
ta chia sốt ra làm 3 loại: đột ngột, tương đối đột ngột và từ từ.
- Sốt đột ngột: là khi nhiệt độ ở bệnh nhân tăng lên rất nhanh, đạt tới đỉnh cao
trong vòng 1 ngày, đúng hơn là trong vòng 12 giờ. Sốt đột ngột gần đồng
nghĩa với sốt cấp tính.
- Sốt tương đối đột ngột: khi nhiệt độ của bệnh nhân đạt tới đỉnh cao từ 1-2
ngày.
- Sốt từ từ: khi nhiệt độ ở bệnh nhân tăng dần chậm và sau 3 ngày mới đạt
đỉnh cao.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới sốt
1.4.1. Vai trò của vỏ não


10

Thí nghiệm: trước khi gây sốt, nếu tiêm cafein, cơn sốt cao hơn bình thường
nhưng nếu cho động vật uống bromua thì sốt nhẹ hơn. Như vậy mức độ sốt

phụ thuộc vào mức hưng phấn của vỏ não và hệ giao cảm [5].
1.4.2. Vai trò tuổi
Ở trẻ nhỏ, phản ứng sốt thường mạnh nên trẻ dễ xuất hiện co giật khi thân
nhiệt cao. Ngược lại, ở người già phản ứng sốt yếu không thể hiện được mức
độ bệnh. Ở đây có vai trò của cường độ chuyển hóa [7].
1.4.3. Vai trò của nội tiết
Vai trò của các tuyến nội tiết trong cơ chế sốt chưa có nhiều ý kiến chứng
minh. Tuy nhiên việc cắt bỏ một tuyến như hạ não, tuyến giáp thì thấy phản
ứng sốt giảm. Gần đây người ta chú ý đến vai trò của prostaglandine trong cơ
chế gây sốt. Chất gây sốt giúp cho tăng quá trình tổng hợp prostaglandine từ
các acid béo không bão hòa. Có lẽ chất gây sốt tác dụng lên trung tâm điều
hòa nhiệt độ thông qua vai trò của prostaglandine [5].
1.5.

Đặc điểm điều hòa thân nhiệt ở trẻ em
Đặc điểm cơ bản nhất của điều hòa thân nhiệt ở trẻ em là trung tâm điều

nhiệt chưa trưởng thành, rất dễ bị tác động, dễ sốt cao ngay cả khi nhiễm
trùng nhẹ hoặc ngược lại.
Diện tích da của trẻ em tính theo cân nặng rộng, mạng mao mạch dưới
da cũng nhiều hơn so với người lớn nên thân nhiệt rất dễ bị ảnh hưởng bởi
nhiệt độ môi trường. Do cơ thể trẻ đang phát triển, trẻ luôn hiếu động nên quá
trình sinh nhiệt cũng cao hơn. Để cân bằng thân nhiệt, cơ chế thải nhiệt qua
bốc hơi ở trẻ qua nhịp thở và bài tiết mồ hôi có vai trò rất quan trọng. Ở lứa
tuối dậy thì do có biến động về nội tiết và thần kinh mạnh mẽ nên sự điều hòa
nhiệt độ ở trẻ em cũng rất dễ mất cân bằng và rối loạn. Ngoài ra ở trẻ em có
thể gặp các bệnh bẩm sinh do rối loạn các cơ quan điều nhiệt như thiểu sản
hay bất sản tuyến mồ hôi, loạn sản ngoại bì gây sốt kéo dài [3], [13].
1.6. Nguyên nhân gây sốt
1.6.1. Các bệnh nhiễm khuẩn:



11

- Nhiễm virus: đa số các bệnh do virus gây ra đều có sốt đột ngột hoặc tương
đối đột ngột và thời gian sốt thường chỉ kéo dài 2-7 ngày hoặc tới 10 ngày.
Sốt do virus còn gọi là sốt cấp tính hay sốt ngắn ngày (để phân biệt với sốt
kéo dài). Tuy vậy cũng có một số virus gây sốt kéo dài như: Epstein-Barr,
virus Coxsackie nhóm B, virus sốt chim, vẹt…[14]
- Nhiễm vi khuẩn: Sốt do nhiễm các vi khuẩn rất đa dạng và không có một đặc
điểm chung nhất. Tuy nhiên, căn cứ vào cơ quan tổn thương và tính chất của
sốt cũng có thể chẩn đoán được căn nguyên bệnh.
- Nhiễm ký sinh trùng: đa số các bệnh do ký sinh trùng gây ra đều có sốt nhẹ
và sốt vừa, ít khi có sốt cao, trừ một số đơn bào như sốt rét Plasmodium, bệnh
do Leishmania.
- Nhiễm rickettsia: các rickettsia gây ra những bệnh thường có ổ bệnh thiên
nhiên và là nhóm bệnh từ động vật lây sang người. Sốt trong các bệnh do
rickettsia gây nên có đặc điểm chung là dao động, có chu kì, kéo dài và tái
phát [15].
1.6.2. Các bệnh không nhiễm khuẩn có sốt
- Các bệnh của hệ thống tạo máu: các bệnh Leucose, Hodgkin, u lympho
không phải Hodgkin, tăng tổ chức bào ác tính là những bệnh thường xuyên có
sốt
- Các bệnh mô liên kết: các bệnh luput ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp,
viêm động mạch, viêm tắc tĩnh mạch, viêm nút quanh động mạch, viêm động
mạch tế bào khổng lồ đều có thể có sốt. Các bệnh mô liên kết thường gây sốt
cao, kéo dài và chủ yếu là sốt nóng. Các bệnh lý u, đặc biệt là u ác tính cũng
là nguyên nhân gây sốt kéo dài. Tuy vậy, sốt trong bệnh lý u thường là muộn
và đa số các trường hợp sốt xuất hiện khi đã phát hiện ra khối u trước đó [16].



12

- Mắc một số bệnh lý khác: nhiều bệnh lý khác cũng có sốt như: tắc mạch
phổi rải rác, sốt do tan máu bởi các nguyên nhân khác nhau, sốt do phản ứng
với thuốc…. [17].
1.7. Các dấu hiệu nhận biết khi trẻ sốt
Các dấu hiệu và triệu chứng sốt ở trẻ có thể được biểu hiện rõ ràng hoặc kín
đáo. Các triệu chứng ở trẻ càng nhỏ thì càng kín đáo và thường có các biểu
hiện và triệu chứng sau [20]:
1.7.1. Ở trẻ nhỏ
Ở trẻ nhỏ thường có các dấu hiệu sau:
- Cáu gắt hơn bình thường
- Trẻ làm nũng cha mẹ
- Trẻ yên lặng
- Trẻ hôn mê hoặc li bì (đây là những dấu hiệu rất nguy hiểm)
- Trẻ bú và ăn kém
- Trẻ khóc hoặc thét lên
- Trẻ thở nhanh hơn bình thường
- Có những thay đổi bất thường trong giấc ngủ hoặc ăn uống
- Cha mẹ thấy trẻ ấm, nóng hơn
1.7.2. Ở trẻ lớn
- Trẻ nóng hoặc lạnh hơn những người xung quanh ở cùng môi trường sống
- Trẻ kêu đau nhức cơ thể
- Trẻ nói trẻ đau đầu
- Trẻ khó ngủ hoặc ngủ nhiều
- Trẻ chán ăn
1.8. Hậu quả của việc sốt cao ở trẻ em



13

1.8.1. Hậu quả tốt
- Sốt có tác dụng trên các mầm bệnh hoặc trực tiếp do tăng nhiệt độ kích
thích các phản ứng tự vệ của cơ thể, hoặc gián tiếp qua nhiều trung gian
- Nhiều công trình cho thấy nhiệt độ có tác dụng ức chế sinh trưởng của
vi khuẩn Chất gây sốt nôi sinh là tiền đề của nhiều sự biến đổi trong nội môi
và hàng loạt đáp ứng kích thích có lợi cho cơ thể, gia tăng sản sinh bạch các
bạch cầu đa nhân trung tính, phòng thích các lysosyme và lactoferin
- Tăng bài tiết corticosteroids, glucagon, insuline với những tác dụng
chuyển hóa thứ phát. Sốt tạo điều kiện cho virus tiêu hủy lysosome, gây chết tế
bào, kéo theo sự chết của virus.
- Sốt tác dụng gián tiếp qua trung gian interfero, ức chế không đặc hiệu sự
tổng hợp của nhiều chất và sự sinh trưởng của virus [18]
1.8.2. Hậu quả xấu
-

Sốt cao ở trẻ em thường gây co giật nhất là đối với trẻ dưới 5 tuổi, co giật

làm cho bà mẹ lo lắng và hoang mang, đây cũng là lý do trẻ được đi khám và
là một trong những dấu hiệu nguy hiểm toàn thân mà chương trinh xử trí lồng
ghép chăm sóc trẻ bệnh ( IMCI: Integrated Management of Childhood Illness)
khuyến cáo chuyển viện, thật vậy cũng khó mà nhận biết ngay là co giật lành
tính do hậu quả của sốt cao hay là biểu hiện của một bệnh lý não – màng não
nặng nề hay co giật do nguyên nhân khác ở một trẻ có sốt [18].
- Sốt cao kéo dài gây mất nước và điện giải qua vả mồ hôi và tăng nhịp thở
- Gây kiềm hô hấp
- Sốt cao kéo dài gây vỡ hồng cầu, gây thiếu máu, tăng chuyển hóa và
tăng nhịp thở
1.9. Cách đo thân nhiệt

1.9.1. Dụng cụ đo thân nhiệt


14

Cần đo nhiệt độ để xác định mức độ sốt của trẻ. Dụng cụ có thể sử dụng là
nhiệt kế thủy ngân và nhiệt kế điện tử để đo ở nách, đo tai, đo trán/thái dương.
Tuy nhiên không nên sử dụng loại nhiệt kế điện tử dán trán vì không chính
xác. Nhiệt kế điện tử đo tai cũng thường không chính xác cho trẻ dưới 3 tháng
tuổi [19]
1.9.2. Cách đo nhiệt độ
Có thể đo nhiệt độ của trẻ tại nách (đa số), miệng, hậu môn, tai, trán/thái
dương (điện tử dùng tia hồng ngoại)
Với trẻ sơ sinh, nên sử dụng nhiệt kế điện tử để kẹp vào nách.
Với trẻ 3 tháng đến 5 tuổi, có thể lấy nhiệt độ tại nách hoặc tai.
Trẻ lớn hơn thì có thể lấy ở nách là chủ yếu.
Thông thường, nếu trẻ có nhiệt độ hậu môn là 36,5- 37,5 0C là bình thường.
Nếu nhiệt độ hậu môn từ 38 0C trở lên tức là trẻ sốt. Trong đó, nhiệt độ hậu
môn bằng nhiệt độ nách +0,5 và bằng nhiệt độ tai +0,3.
1.9.2.1. Đo nhiệt độ ở nách [1], [3]
- Lau khô vùng nách
- Vẩy mạnh nhiệt kế sao cho mức thủy ngân ở dưới 350C.
- Đặt đầu thủy ngân vào giữa vùng hõm nách. Đọc kết quả sau 5 phút.
1.9.2.2. Đo nhiệt độ ở miệng [3], [20]
- Không ăn uống ít nhất 10 phút trước khi cặp nhiệt độ.
- Kiểm tra mức thủy ngân dưới vạch 350C.
- Đặt đầu thủy ngân ở dưới lưỡi – với trẻ nhỏ ở góc má, ngậm miệng lại nhẹ
nhàng (tránh cắn phải nhiệt kế). Với trẻ lớn, khi trẻ có răng hạn chế cặp theo
phương pháp này vì trẻ dễ cắn vỡ nhiệt kế. Đọc kết quả sau 5 phút.
1.9.2.3. Đo nhiệt độ tại hậu môn [3], [20]

- Cặp nhiệt độ được đặt vào ống trực tràng (thường có loại nhiệt kế riêng).
Đây là nhiệt độ phản ánh trung thực nhiệt độ cơ thể nhất. Nên thực hiện cần
cẩn thận vì nếu thô bạo có thể làm tổn thương hậu môn ở trẻ nhỏ.
- Đọc kết quả sau 5 phút. Nhiệt độ đo được bằng hoặc trên 38 0C được xem là
sốt.
1.10. Cách xử trí khi trẻ bị sốt [19], [20]
Khi nghi ngờ trẻ bị sốt, chúng ta cần cặp nhiệt độ cho trẻ rồi 10 phút sau lại kiểm
tra lại xem nhiệt độ đó có thay đổi không, nếu trẻ sốt cần hạ nhiệt độ ngay.
Có rất nhiều biện pháp hạ sốt đã được áp dụng rộng rãi tùy theo từng người
bệnh và loại bệnh.


×