Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Cac yeu to anh huong den GOLD va cac chi so phan tich co ban

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.03 KB, 18 trang )

"Bí kíp" khi đầu tư vàng
Ngày đăng: 11:35 | 14/07/2011

Đầu tư vào vàng như thế nào và các yếu tố nào sẽ quyết định giá cả đang là câu hỏi lớn đặt
ra với các nhà đầu tư trên thị trường được xem là nóng nhất hiện nay.
Giá vàng đang ở mức cao nhất từ trước tới nay (trên 1.580 USD/ounce) bởi nỗi lo khủng hoảng
nợ ở châu Âu lan rộng và hy vọng về gói QE3. Dưới đây là một số đặc điểm và các yếu tốc tác
động lên giá mà nhà đầu tư nên biết trước khi bước vào thị trường kim loại quý.
ĐẦU TƯ NHƯ THẾ NÀO?
Thị trường giao ngay
Các nhà đầu tư lớn và các tổ chức thường mua vàng từ các ngân hàng lớn. London là trung tâm
của thị trường vàng giao ngay, với hơn 33 tỷ USD được các thương nhân giao dịch qua hệ thống
thanh toán bù trừ của thành phố mỗi ngày.
Các thị trường lớn khác về vàng vật chất là Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông, Singapore, Thổ
Nhĩ Kỳ, Ý và Hoa Kỳ.
Thị trường kỳ hạn
Nhà đầu tư có thể đầu tư thông qua các sàn giao dịch kỳ hạn – nơi mọi người có thể giao dịch
bằng hợp đồng để mua hoặc bán một hàng hoá cụ thể theo giá cố định vào một ngày nhất định
trong tương lai.
Bộ phận Comex của Sàn New York Mercantile Exchange là nơi giao dịch vàng kỳ hạn lớn nhất
thế giới về khối lượng. Sàn giao dịch hàng hoá Tokyo, được biết đến với tên gọi Tocom, cũng
khá phổ biến ở châu Á.
Trung Quốc đưa vào hoạt động sàn giao dịch vàng kỳ hạn của họ vào ngày 9/1/2008. Một số
quốc gia khác như Ấn Độ, Dubai và Thổ Nhĩ Kỳ cũng có sàn giao dịch vàng kỳ hạn.
Các quỹ giao dịch
Giá vàng cao đã thu hút đầu tư vào các quỹ giao dịch (ETFs). Các ETFs sẽ phát hành một số
chứng khoán được đảm bảo bởi vàng vật chất mà quỹ nắm giữ và cho phép mọi người tiếp xúc
với vàng mà không phải nhận chính nó.


Hiện quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới là SPDR Gold Trust có trụ sở tại New York. Lượng


nắm giữ của quỹ này đạt kỷ lục 1.320,436 tấn vào tháng 6/2010, tương đương một nửa tổng
nguồn cung vàng của các mỏ toàn cầu và có giá trị 62 tỷ USD nếu tính theo giá của ngày 13/7.
Một số ETFs vàng khác còn có iShares COMEX Gold Trust, ETF Securities' Gold Bullion
Securities and ETFS Physical Gold, và Zurich Cantonal Bank's Physical Gold.
Vàng thỏi và đồng xu vàng
Các nhà đầu tư riêng lẻ có thể mua vàng từ các thương nhân bán vàng thỏi hay đồng xu vàng ở
cửa hàng chuyên biệt hoặc trên internet. Nhà đầu tư sẽ phải trả phí bảo hiểm cho các sản phẩm
đầu tư khoảng 5 – 20% trên giá vàng giao ngay, phụ thuộc vào kích thước của sản phẩm và trọng
lượng yêu cầu.
CÁC YẾU TỐ ĐIỀU KHIỂN GIÁ
Nhà đầu tư
Sự quan tâm ngày càng nhiều đối với hàng hoá, bao gồm cả vàng, từ các quỹ đầu tư trong vài
năm trở lại đây là yếu tố quan trọng đứng sau những lần vàng lập kỷ lục. Màn trình diễn tuyệt
vời 10 năm qua đã thu hút nhiều người chơi hơn và cả dòng vốn đổ vào thị trường.
Ngoại tệ
Vàng là một hàng rào phổ biến chống lại biến động thị trường tiền tệ. Nó có truyền thống đi
ngược chiều đồng USD. USD yếu khiến cho giá vàng rẻ hơn với các nhà đầu tư nắm giữ các
đồng tiền khác và ngược lại.
Mối tương quan trên đôi khi bị phá vỡ khi thị trường căng thẳng. Cả hai sẽ được lợi trong bối
cảnh rủi ro, chẳng hạn như nỗi lo khủng hoảng nợ châu Âu những ngày qua.
Các nhà phân tích cho rằng, trong năm ngoái, giá vàng tăng mạnh bởi nỗi lo đến từ thị trường
tiền tệ, chủ yếu là USD. Các nền kinh tế lớn đã làm giảm sức mạnh đồng tiền của mình để bảo vệ
xuất khẩu
Giá dầu
Vàng có lịch sử gắn kết với giá dầu, vì kim loại quý được sử dụng để chống lại lạm phát, thường
do giá dầu gây nên. Gần đây mối tương quan này đã suy yếu, khi giá vàng cao kỷ lục còn giá dầu
rời mức đỉnh của năm.


Căng thẳng tài khoá và căng thẳng chính trị

Giá vàng luôn được coi là công cụ đầu tư an toàn, mua vào trong thời điểm có nhiều rủi ro. Thị
trường hiện nay là điển hình về vai trò của vàng, khi nợ công ở Hy Lạp và các nước châu Âu
ngày càng nghiêm trọng, thúc đẩy dòng vốn đổ vào kim loại quý.
Các sự kiện địa chính trị, chẳng hạn như bất ổn gần đây ở Trung Đông và Bắc Phi, cũng trợ lực
cho vàng.
Dự trữ vàng của NHTU
Các ngân hàng trung ương nắm giữ vàng như một phần dự trữ ngoại hối của họ. Mua hay bán
vàng từ các ngân hàng sẽ ảnh hưởng lên giá.
Hồi đầu tháng 8/2009, nhóm 19 ngân hàng trung ương châu Âu đã gia hạn hiệp ước hạn chế bán
vàng, vốn được ký vào năm 1999 và gia hạn thêm 5 năm vào 2004. Việc bán vàng hàng năm của
nhóm hiện hạn chế ở 400 tấn, thay vì 500 tấn trong lần gia hạn thứ hai kết thúc vào tháng 9/2009.
Gần đây, các ngân hàng trung ương, điển hình là ở châu Á, đã tích cực mua vàng dự trữ. Cùng
với động thái tương tự ở Mexico và Nga, giá vàng đã được hỗ trợ mạnh.
Cung/cầu
Các yếu tố cơ bản nói chung là cung và cầu thường không có vai trò lớn điều khiển giá vàng như
các hàng hoá khác bởi kim loại quý được sử dụng khác với cách người ta tiêu thụ dầu mỏ, nông
sản hay đồng.
Nhu cầu mua mạnh theo mùa ở các nước tiêu dùng vàng quan trọng như Ấn Độ và Trung Quốc
chỉ phần nào tác động lên giá. Đồng USD và bất ổn tài chính sẽ quyết định phần lớn.
Theo Cafef - www.kinhtethegioi.net

Tổng hợp các chỉ số phân tích cơ bản

1. Doanh số bán lẻ của thị trường Mỹ
Chi tiêu tiêu dùng chiếm 70% trong tất cả các hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ. Doanh số bán lẻ chiếm 1/3
trong số đó. Nếu người tiêu dùng tiếp tục chi tiêu, đó là tín hiệu của sự gia tăng toàn bộ trong nền kinh tế.
Để theo dõi sự tiêu dùng, Viện điều ra dân số Hoa Kỳ đề nghị hàng ngàn nhà bán lẻ mỗi tháng cung cấp
doanh số mới nhất của họ. Nhờ vậy mà mỗi tháng chúng ta có được bản báo cáo doanh số bán lẻ như là
một trong những công cụ đo lường tốt nhất sự thay đổi trong mô hình chi tiêu của ngưởi tiêu dùng.



Nhưng doanh số bán lẻ cũng còn một vài thiếu sót nhất định.
Nó chỉ cho biết sức mua hàng hóa hiện tại, chẳng hạn như các mặt hàng có thể tìm thấy ở : cửa hàng đồ
điện, cửa hàng ôtô, trạm gas và nhà hàng. Bản báo cáo không cho chúng ta biết về việc chi tiêu trong
lĩnh vực dịch vụ như : hàng không, nha khoa, làm tóc, bảo hiểm và điện ảnh. Cho đến bây giờ, ngành
kinh doanh dịch vụ chiếm gần 2/3 chi tiêu cá nhân.
Nó được đo lường như thế nào?
Một bảng khảo sát được gởi ngẫu nhiên đến 5.000 cửa hàng bán lẻ lớn, nhỏ trên khắp đất nước. Những
cửa hàng nhận được chúng vào khoảng 3 ngày cuối tháng. Sau đó họ sẽ trả lời,r ồi trả lại trong vòng một
tuần. Tuy nhiên, chỉ có ít hơn 50% cửa hàng được hỏi trả lại đúng hạn. Mặc dù vậy chính phủ vẫn xem lại
dữ liệu để chuẩn bị cho bản báo tạm – một trong ba bản sẽ được công bố trong tháng. Bản tạm này cung
cấp một cái nhìn nhanh và đánh giá về sự thay đổi trong cách chi của người tiêu dùng sơ lược.
Khoảng 8.000 người bán lẻ khác thì được thăm dò trong nhiều ngày để có được một bức tranh toàn diện
về hoạt động của các chủ hàng. Kết quả của bảng khảo sát sẽ được điều chỉnh và cho ra bản báo cáo
thứ 2. Bốn tuần sau, Bản báo cáo Doanh số bán lẻ cuối cùng được công bố. Tổng cộng có khoảng
13.000 người được hỏi và có khoảng 75% trả lời.
Làm thế nào để hiểu được nó?
Có một sự mạo hiểm khi lệ thuộc quá nhiều vào Bản khảo sát sơ bộ bởi vì chúng dựa trên một số nhỏ
lượng người được khảo sát. Để có được cái nhìn chính xác về thói quen tiêu dùng cần phải dựa vào
doanh số bán ra trung bình trong ba tháng hoặc xem qua dữ liệu trong ba tháng qua rồi so sánh nó với
cùng thời kỳ của năm trước.
Doanh số bán lẻ trừ ôtô là gì?
Khoảng 25% tổng số lượng tiền chi tiêu của người tiêu dùng là mua các sản phẩm giao thông và các sản
phẩm liên quan. Số liệu này thay đổi rất mạnh từ tháng này sang tháng khác và nó bóp méo bức tranh
doanh số bán lẻ. Để loại trừ nó, có một hàng riêng trong bản báo cáo, nơi mà chính phủ loại bỏ chi tiêu
cho ôtô để mọi người có thể theo dõi rõ hơn xu thế tiêu dùng.
Nó ảnh hưởng như thế nào đối với đồng đô?
Thị trường tiền tệ nhận thấy bản báo cáo Doanh số bán lẻ như là một công cụ đòi hỏi sự tinh tế để phân
tích. Trong khi, những người nước ngoài thì thích thấy được tinh thần mua sắm của người tiêu dùng Hoa
Kỳ vì nó sẽ khẳng định việc sự chắc chắn của lãi suất (điều mà làm USD tăng giá), một sự chi tiêu quá

mức sẽ báo hiệu sự rắc rối cho USD bởi vì hàng nhập khẩu quá nhiều. Một sự nhảy vọt trong việc nhập
khẩu sẽ làm gia tăng nhu cầu đối với các đồng tiền nước ngoài để chi trả cho hàng nhập khẩu và điều
này có thể làm tổn thương USD.

2. Chỉ số sản xuất ISM
Bản khảo sát chỉ số sản xuất ISM dựa trên những lời bình luận của những nhà quản lý thu
mua trong lĩnh vực sản xuất.
Nó là mẫu tin tức đầu tiên của nền kinh tế được công bố mỗi tháng và nó cung cấp những
bằng chứng sớm nhất cho thấy nền kinh tế đã biểu hiện như thế nào trong 4 tuần trước.
Tại sao nó được xem xét?


Những người chi trả cho những thứ mua trong công ty của họ được gọi là Người quản lý thu
mua. Các công ty sản xuất cần nguồn cung cấp để tạo ra sản phẩm. Các mẫu sản phẩm họ
có thể đặt hàng bao gồm: cáp, hộp đóng hàng, và máy vi tính. Nếu có một sự gia tăng trong
nhu cầu của các sản phẩm, Người quản lý thu mua sẽ phản ứng lại bằng cách gia tăng đơn
hàng nguyên liệu sản xuất và những nguồn khác. Nếu doanh số của công việc sản xuất
giảm, điều này sẽ liên kết với việc những ngưởi mua sẽ cắt giảm đơn hàng công nghiệp trở
lại.
Do vị trí của họ, bạn có thể có được những thông tin rất đáng tin cậy về các hoạt động sản
xuất bằng cách theo dõi điều mà những người quản lý thu mua đang làm. Đây là điều quan
trọng vì các hàng hóa sản xuất chiếm khoảng một nữa nền kinh tế.
Nó được tính như thế nào?
Hằng tháng, ISM gửi qua bưu điện bảng câu hỏi đến khoảng 400 công ty thành viên khắp
Hoa Kỳ, trải đều ra 20 lĩnh vực công nghiệp khác nhau. Những người quản lý thu mua của
các công ty được hỏi để xác định xem liệu các hoạt động sản xuất đang tăng, giảm, hoặc
không thay đổi trong các nhóm sau:
1. Đơn hàng mới: Các đơn hàng mới mua bởi các đại lý.
2. Sản lượng: Số lượng hàng hóa được sản xuất.
3. Việc làm: tình trạng thuê nhân công trong công ty.

4. Nguồn cung: Tốc độ cung cấp hàng của nhà cung cấp.
5. Dự trữ: Tỉ lệ thanh toán hàng dự trữ của nhà sản xuất.
6. Dự trữ của khách hàng: Các đại lý phỏng đoán mức độ dự trữ của khách hàng của họ.
7. Giá hàng hóa: Giá nhà sản xuẩt trả cho nhà cung cấp.
8. Đơn hàng tồn đọng: Các đơn hàng chưa được thực hiện.
9. Đơn hàng xuất khẩu mới: Tỷ lệ đơn hàng mới từ các quốc gia khác.
10. Nhập khẩu: Các nguyên liệu mà các đại lý mua từ các quốc gia khác.
Chỉ số ISM tự bản thân nó được sưu tập dựa trên các câu trả lời cho 5 câu hỏi đầu tiên của
bảng câu hỏi. Chúng lần lượt chiếm tỉ trọng như sau: đơn hàng (30%), sản lượng sản xuất
(25%), việc làm (20%), nguồn cung (15%), và dự trữ (10%). Năm câu hỏi cuối thì cung cấp
thêm các tin tức cho thấy các hoạt động sản xuất đang được tiến hành như thế nào.
Đọc bản số liệu này như thế nào?
Trên 50: Cả hai các hoạt độg sản xuất và nền kinh tế đang mở rộng.
Dưới 50 nhưng trên 43: Các hoạt động sản xuất đang co lại, Manufacturing activity is
contracting, lúc này toàn bộ nền kinh tế vẫn tăng trưởng.
Dưới 43: Cả hai các hoạt độg sản xuất và nền kinh tế rất có thể suy thoái. Kỳ vọng Fed sẽ
cắt giảm lãi suất để cố gắng và kích thích nền kinh tế tăng trưởng.
Nó ảnh hưởng như thế nào đối với thị trường tiền tệ?
ISM trên 50 thì đồng đô tăng giá
ISM dưới 50 thì đồng đô rớt giá


3. Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường mức độ lạm phát
PPI là gì? Nó đo lường cái gì?
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường mức độ lạm phát trải qua bởi các nhà sản xuất. Số liệu
này mô tả mức độ thay đổi giá cả trung bình trong rổ hàng hóa cố định được mua bởi nhà
sản xuất. Một cách tổng thể, lạm phát cao dẫn đến lãi suất cao, điều này sẽ có xu hướng làm
mạnh đồng tiền của quốc gia.
Nó nghe có vẻ giống CPI, vậy đâu là sự khác biệt?
PPI là một chỉ số của giá thương phẩm. Ngược lại, CPI đo lường cả giá của thương phẩm và

dịch vụ - nhà, giao thông, y tế và những dịch vụ khác chiếm 50% của CPI. CPI cũng bao gồm
hàng hóa nhập khẩu trong khi PPI thì không.
Một sự khác biệt giữa PPI và CPI là PPI đo lường giá trị của đồng vốn dành cho trang thiết bị
trong kinh doanh.
“Rổ hàng hóa ” bao gồm những gì?
Các hàng hóa liên qua đến tiều dùng chiếm 75% biểu đồ tròn. Hàng hóa tiêu dùng, chủ yếu
là xe hơi chiếm 40%. Thực phẩm chiếm 26% gồm : thịt, cá, sản phẩm liên quan đến bơ sữa,
trái cây và rau quả. Danh mục năng lượng, chủ yếu là gas và dầu nhiên liệu chiếm thêm 9%.
Danh mục trang thiết bị chiếm 25% gồm: ôtô và xe tải.
Các số liệu được đặt với nhau như thế nào ?
Các nhà kinh tế Bộ Lao động so sánh giá của nhiều món hàng – khoảng 3.450. Giá thì được
lấy mẫu hàng tháng.
PPI lõi là gì?
Nhiều nhà kinh tế xem xét PPI trừ đi thực phẩm và năng lượng cái mà được gọi là PPI
lõi.Vậy tại sao? Bởi vì giá thực phẩm và năng lượng thay đổi rất nhanh. Giá năng lượng có
thể bị ảnh hưởng bởi thời tiết chẳn hạn như nếu bão gây ảnh hưởng đến các dàn khoan dầu
thì sẽ anh hưởng đến sản lượng khai thác. Điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với thực
phẩm. Đó là lý do tại sao phải loại trừ chúng để thấy được xu thế lạm phát thật của PPI.
Các “nhà chuyên nghiệp” xem xét PPI như thế nào ?
Các “nhà chuyên nghiệp” xem xét PPI một cách chung chung và xem xét nhiều phương
pháp:
• So sánh tháng gần đây nhất với hai đến ba tháng trước
• Xem xét sự thay đổi trung bình của chỉ số PPI được công bố trong sáu hoặc mười hai
tháng trước.
• Xác định tỉ lệ lạm phát giữa các năm.
Điểm chính ở đây là không nên để ý quá nhiều vào bản báo cáo đơn độc. Tốt hơn là hãy xác
định xu thế và liệu có một xu thế mới sắp xuất hiện không.
PPI ảnh hưởng như thế nào đối với USD?
Đồng đô có xu hướng mạnh lên khi tăng lãi suất ngắn hạn. Vì thế nếu Fed tăng lãi suất, thì



USD tăng giá.
Nếu lạm phát cao, USD thường sẽ tăng vì điều này cho thấy Fed có lý do để tăng lãi suất.

4. Retail Sales – Doanh số bán lẻ
Định nghĩa: doanh số bán lẻ đo lường tổng doanh số của ngành bán lẻ tại
Mỹ (không bao gồm doanh số ngành dịch vụ). số liệu này được tính toán trên
đồng Dollar Mỹ, không điều chỉnh khi lạm phát nhưng điều chỉnh theo thời
điểm: mùa, lễ, ngày giao dịch và những thời điểm này khác nhau giữa các
tháng trong năm.
Ý nghĩa: đây là chỉ số chính xác nhất trong số những chỉ số tiêu dùng. Chỉ số
này chỉ ra ý nghĩa của những xu hướng giữa những nhóm nhà bán lẻ khác
nhau. Những xu hướng này sẽ giúp chỉ ra những cơ hội đầu tư đặc biệt.
Việc giám sát doanh số bán lẻ (không bao gồm sản phẩm ôtô và xe tải) là rất
quan trọng nhằm tránh những biến động bất ngờ của nền kinh tế.
Cơ quan phát hành: ban điều tra dân số của phòng thương mại
Thời điểm phát hành: khoảng 8:30 (ET) sáng ngày 12 hàng tháng (8h30 tối
giờ Việt Nam). Dữ liệu của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: Hàng tháng.
Xét duyệt: dữ liệu của 2 tháng trước đó được xem xét hàng tháng để tổng
hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố mới thay đổi theo
thời gian sẽ được công bố vào tháng Hai. Việc xét duyệt này sẽ có ảnh
hưởng tới dữ liệu của ít nhất 5 năm. Tầm quan trọng của chỉ số này là khá
lớn.

5. Chỉ Số Bán Lẻ (Retail Sales)
Chỉ Số Bán Lẻ (Retail Sales) (1)
Retail Sales ( hay còn gọi là Advance Monthly Retail Sales Report) là thước
đo tổng hoá đơn của các tiệm bán lẻ. Sự thay đổi trong chỉ số này rất quan
trọng và được nhận định là một biểu thị kịp thời nhất về mức tiêu thụ của

khách hàng.
News được Ban Thương Nghiệp Mĩ thông báo hàng tháng từ năm 1953 và
chỉ vắng mặt trong vòng 2 năm kể từ tháng 2 năm 1970 đến tháng 2 năm
1972.
Mục đích chính cuả news này là cung cấp dấu hiệu ban đầu về tình hình bán
hàng của các công ty bán lẻ và dịch vụ cung cấp thực phẩm. Nội dung của
báo cáo là giá trị về tiền của các sản phẩm được bán ra, giai đoạn báo cáo,
và số các điểm bán lẻ.
Các chỉ số bán lẻ, hay các chỉ số bán các mặt hàng có sức chịu đựng lâu dài
hoặc ko lâu dài, thường được Ban Thương Nghiệp cục Thông Kê dân số báo
cáo vào ngày 11 và 15 hàng tháng.
Ko giống báo cáo Sổ đỏ Johnson cũng về chỉ số bán lẻ nhưng được thông kê


hàng tuần và chỉ khảo sát dựa trên 15 điểm bán lẻ, chuỗi thống kê của báo
cáo này dược soạn dựa trên một loạt cơ sở kinh doanh xuyên suốt đất nước.
Báo cáo bao gồm các công ty bán lẻ và cung cấp dịch vụ ăn uống với một
hoặc nhiều cơ sở mà cung cấp các hàng hoá và dịch vụ có liên quan tới
nhau. Nhưng lại có nhược điểm là thực tế rất khó để xem lại.
Các chuyên gia thị trường thường tập trung vào chỉ số “ retail sales less
autos”. Điều này là vì những người tham gia vào thị trường tài chính có thể
dễ dàng nắm bắt được thói quen chi tiêu nổi bật của các khách hàng bằng
cách loại bỏ yếu tố rất bấp bênh là “ auto sales” ( các mặt hàng như ôtô).
Một khía cạnh khác của news này mà xứng đáng được chú ý là lạm phát. Vì
việc bán hàng thườngđược báo cáo bằng giá tiền hiện tại, những biến động
trao đảo bất thường về mức giá có thể bóp méo bức tranh tổng thể về số
lượng sản phẩm bán được.
Một ví dụ của tình huống này một sự biên đổi tăng vọt nhanh chóng giá xăng
dầu, cũng giống hiện tượng đã được chứng kiến suốt thời kì chiến tranh Vịnh
Ba Tư. Suốt thời gian đó, một khối lượng khổng lổ số mặt hàng bán tăng lên

đã góp phần làm tăng giá trị tiền của các ga dịch vụ.
Chỉ Số Bán Lẻ (Retail Sales) (2)
News này còn thường xuyên được theo dõi sát sao và sử dụng một cách
rộng rãi trong hệ thống chính phủ, các viện và các cộng đồng kinh tế.
Viện Phân tích Kinh tế sử dụng news này như một đầu vào để tính toán chỉ
số GDP. Hội Đồng Dự trữ Liên Bang cũng sử dụng sự đánh giá này để đoán
trước xu thế kinh tế. Hội đồng Cố Vấn Kinh tế cũng sử dụng news này để
phân tích các chính sách kinh tế.
Các phương tiện thông tin thường viết phóng sự về báo cáo này và sử dụng
những chỉ số được ước lượng trong báo cáo để phan tích kinh tế. Các nhà
phân tích tài chính và các công ty nghiên cứu thị trường thường dùng các dữ
liệu để phân tích xu thế của thị trường cũng như là để quyết định chiều
hướng của kinh tế.
Các doanh nghiệp thường sử dụng bản thống kê này để tính toán xem họ
đang hoạt động như thế nào và dự đoán những nhu cầu trong tương lai.
Nhiều yếu tố cho rằng The Advance Monthly Retail Sales Report là một trong
những thước đo quan trọng nhất thể hiện độ mạnh yếu trong phạm vi khu
vực khách hàng và bao gồm 10 yếu tố lớn.
Được chú ý nhất là những phần sau : các nhà buôn máy móc tự động


( chiếm 25%); thực phẩm (17%), các mặt hàng chung chung (13%), và các
trạm dịch vụ ( 6%) ( ở nước ngoài thường có các cây xăng trên đường cao
tốc.
Đi cùng các cây xăng này là những tiệm đồ ăn nhanh để mọi người có thể
nghỉ ngơi và ăn uống thường được gọi là các trạm dịch vụ). Các nhà buôn đồ
tự động hoá thường bán các phương tiện có động cơ motor ( như ôtô, xe
máy ) …. mang giá trị cao và chỉ có vậy thội đã một tay làm ảnh hưởng hết
toàn bộ chỉ số bán lẻ.
Vì vậy, tổng chỉ số của retail sales cũng được giới thiệu mà ko có yếu tố này,

để giúp người phân tích có một cái nhìn cân bằng hơn về sức tăng trưởng
của retail sales. Chỉ số chính là chỉ số retail sales less auto mới được kể ở
trên. Báo cáo này được coi là một kim chỉ nam kịp thời về yếu tố chi tiêu của
khách hàng trong một phạm vi rất rông.
Nếu tổng số của retail sales lên dù chỉ một phần thôi cũng chỉ ra sự phát triển
kinh tế và niềm tin của khách hàng vào thị trường. Còn một chỉ số xấu thể
hiện sự tụt giảm trong số lượng mặt hàng bán ra và mức chi tiêu cũng giảm
bớt. Xin nhắc lại một lần nữa là việc theo dõi chỉ số retail sales less auto là
rất quan trọng vì chỉ số này sẽ thể hiện một bức tranh chân thật hơn .
Xem xét một vài tháng dữ liệu Retail Sales cũng là một điều rất hữu dụng.
Người ta thường đổ tội cho những điều chỉnh theo mùa ko hoàn hảo khi một
tháng đặc biệt kém được nối tiếp sau đó bằng một tháng tốt.
Dữ liệu của một đường chuyển động trung bình ( thường gọi là moving
average, MA) trong vòng 3 tháng thường vẽ lên một bức tranh rõ ràng hơn.
Những người nắm giữ trái phiếu thường thích chỉ số này hạ vì sự yếu kém ấy
thể hiện kinh tế đi chậm lại. Một nền kinh tế mạnh thường mang theo nỗi sợ
về lạm phát, điều thường đặt gánh nặng lớn lên giá
của trái phiếu.
Ý kiến cá nhân : Là một news trader ( người trade theo news tại thời điểm ra
news _ bạn có thể xem ở đây để biết rõ chi tiết hơn) mình nhận thấy tại thời
điểm ra news retail sales ko phải là một news tạo nhiều đột phá.
Như vậy nếu bạn cũng là một news trader thì retail sales ko phải là một tin
thích hợp cho bạn. Nhưng nếu bạn sử dụng retail sales để phân tích kinh tế
như một người trading theo phương pháp cơ bản thật sự thì đó mới thực sự
là khôn ngoan vì retail sales có mức độ ảnh hưởng sâu và rộng, mang lại
những phản ứng lâu dài chứ ko phải là nhất thời!
Theo thời gian và kinh nghiệm rồi bạn sẽ nhận thấy được điều này.


6. Producer Price Index (PPI) – Chỉ số giá sản xuất

Định nghĩa: PPI đo lường mức giá trung bình của một rổ hàng hoá và tiền
vốn cố định ở mức giá bán sỉ. Có 3 dạng của PPI đó là : công nghiệp , hàng
hoá và quá trình sản xuất.
Ý nghĩa: việc kiểm soát chỉ số PPI (không bao gồm giá thực phẩm và năng
lượng) được xem là rất quan trọng nhằm ổn định mức giá hàng tháng. Nó
còn được gọi là core PPI, cho ta một bức tranh rõ ràng hơn về xu hướng lạm
phát cơ bản.
Sự thay đổi của core PPI được coi là 1 dấu hiệu của lạm phát. Áp lực của
lạm phát được sản sinh khi core PPI tăng cao trên mức dự kiến.
Cơ quan phát hành: Cục Thống kê Lao động thuộc Phòng Lao động Hoa
Kỳ.
Thời điểm phát hành: 8:30 (ET) sáng ngày 11 hàng tháng (8h30 tối giờ Việt
Nam). Dữ liệu của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu của 3 tháng trước đó được xem xét hàng tháng để tổng
hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố mới thay đổi theo
thời gian sẽ được công bố vào tháng Hai. Việc xét duyệt này sẽ có ảnh
hưởng tới ít nhất dữ liệu của 5 năm. Tầm quan trọng là không đáng kể.

7. Personal Income and Consumption – Thu nhập
và tiêu dùng cá nhân
Định nghĩa: thu nhập cá nhân ở đây chỉ thu nhập của hộ gia đình
có từ tất cả các nguồn khác nhau như: tiền lương, tiền từ hoạt
động kinh doanh, đầu tư và kể cả tiền chuyển khoản.
Tiêu dùng cá nhân được phân ra thành tiêu dùng cho các sản
phẩm thiết yếu, không thiết yếu và dịch vụ.
Ý nghĩa: thu nhập là yếu tố quan trọng quyết định việc tiêu dùng
(ở Mỹ, cứ mỗi Dollar được làm ra thì sẽ có 95 cent được tiêu
dùng) và tổng giá trị tiêu dùng chiếm khoảng 2/3 nền kinh tế. Gia
tăng tiêu dùng sẽ kích thích tăng trưởng và tạo thêm lợi nhuận

cho thị trường chứng khoán.
Cơ quan phát hành: Cục phân tích kinh tế thuộc phòng Thương
mại
Thời điểm phát hành: 8:30 (ET) sáng ngày làm việc đầu tiên của
tháng (8h30 tối giờ Việt Nam). Lấy dữ liệu của tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu của 3 tháng trước đó được xem xét hàng tháng
để tổng hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố
mới thay đổi theo thời gian sẽ được công bố vào tháng Sáu. Việc


xét duyệt này sẽ có ảnh hưởng tới ít nhất dữ liệu của 5 năm. Tầm
quan trọng là vừa phải.

8. Chỉ số New Home Sales – Doanh số bán nhà mới
Định nghĩa: được xem như là một chỉ số thống kê số lượng nhà vừa bán ra
cho các gia đình mới. chỉ số này dựa trên kết quả phỏng vấn 10,000 nhà thầu
hoặc các chủ đầu tư của 15,000 dự án bất động sản được lựa chọn. chỉ số
sẽ đo lường số lượng căn hộ mới được xây dựng so với doanh số bán cam
kết trong 1 tháng.
Ý nghĩa: chỉ số này xem xét các số liệu lạc quan về chi tiêu cho việc mua nhà
và các mặt hàng có liên quan cũng như chi phí tiêu dùng nói chung của
người dân. Tuy nhiên, các nhà đầu tư lại thích sử dụng các báo cáo doanh
thu căn hộ đã có sẵn hơn vì nó phản ánh tới gần 84% số lượng nhà được
bán và thường được công bố vào đầu tháng.
Cơ quan phát hành: Cục thống kê dân số của Bộ Thương mại
Thời điểm phát hành: khoảng 10:00 sáng ngày làm việc cuối cùng của
tháng (10h tối giờ Việt Nam). Dữ liệu của tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng so với dữ liệu tháng trước.


9. chỉ số ISM Services Index – Chỉ số dịch vụ ISM
Định nghĩa: chỉ số này cũng được xem là chỉ số ISM không bao gồm sản xuất. ISM
service dựa trên kết quả khảo sát 370 chuyên viên phụ trách mua hàng trong lĩnh vực
công nghiệp bao gồm: tài chính, bảo hiểm, bất động sản, truyền thông và các ngành
phục vụ công cộng. chỉ số này báo cáo hoạt động kinh doanh của khu vực dịch vụ.
Ý nghĩa: nếu chỉ số có giá trị trên 50% tức là các thành phần không thuộc khu vực sản
xuất vật chất của nền kinh tế đang phát triển tốt, còn nếu dưới 50% thì các ngành này
đang có dấu hiệu suy giảm.
Chỉ số này sẽ thay đổi vào các thời kỳ khác nhau trong năm, sự khác biệt xuất hiện
trong các ngày lễ hay do có sự thay đổi thể chế.
ISM service chỉ vừa mới ra đời vào năm 1997 nên chưa được các nhà đầu tư quan
tâm nhiều bằng chỉ số sản xuất ISM đã xuất hiện từ những năm 40.
Cơ quan phát hành: Viện Quản trị Cung cấp, nguyên là NAPM (Hiệp hội các Giám
đốc phụ trách thu mua Quốc gia)
Thời điểm phát hành: 10:00 sáng (10h tối giờ Việt Nam)ngày làm việc thứ ba vủa
tháng. Dữ liệu của tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu này không được xét duyệt.

10. chỉ số . ISM Manufacturing Index – Chỉ số sản
xuất ISM


Định nghĩa: Chỉ số sản xuất ISM được xác đinh dựa trên bản khảo sát 300 giám đốc
phụ trách mua hàng của các công ty trên toàn quốc, đại diện cho 20 ngành công
nghiệp có liên quan tới hoạt động sản xuất. nó bao gồm những chỉ báo liên quan đến
các đơn hàng mới, sản xuất, việc làm, tồn kho, giao nhận, giá cả và đơn hàng xuất
nhập khẩu.
Ý nghĩa: chỉ số này được xem là dẫn đầu trong số tất cả các chỉ số sản xuất. nếu chỉ

số này đạt giá trị trên 50% sẽ được coi là có dấu hiệu của sự phát triển mở rộng trong
khu vực sản xuất và sự vững mạnh của nền kinh tế, trong khi một giá trị dưới 50 sẽ
được liên hệ tới sự giảm sút hoặc thu hẹp.
Thêm vào đó, các thành phần thay thế khác của chỉ số cũng chứa đựng nhiều thông
tin hữu ích về hoạt động sản xuất. các bộ phận của ngành sản xuất thì liên quan đến
sản xuất công nghiệp, những đơn đặt hàng mới có liên quan tới những đơn đặt hàng
lâu dài, việc làm sẽ liên quan tới bảng lương, giá thành sẽ liên quan tới giá sản xuất,
đơn hàng xuất khẩu liên quan tới xuất khẩu mậu dịch, còn đơn hàng nhập khẩu liên
quan tới nhập khẩu mậu dịch.
Chỉ số này sẽ điều chỉnh khác nhau tuỳ thuộc vào từng thời kỳ nhất định trong năm,
sự khác biệt đó rơi vào các kỳ nghỉ lễ hoặc do sự thay đổi thể chế.
Cơ quan phát hành: Viện Quản trị Cung cấp, nguyên là NAPM (Hiệp hội các Giám
đốc phụ trách thu mua Quốc gia)
Thời điểm phát hành: 10:00 sáng (ET) của ngày làm việc đầu tiên trong tháng. Dữ
liệu của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu không được xét duyệt

11. Chỉ số . Initial Claims
Định nghĩa: một chỉ số của chính phủ nhằm theo dõi số lượng người than phiền để
xác định tình hình bảo hiểm thất nghiệp.
Ý nghĩa: các nhà đầu tư sử dụng đường trung bình trượt 4 tuần của chỉ số này để dự
đoán xu hướng của thị trường lao động. Sự dịch chuyển của 30,000 (hoặc hơn) than
phiền báo hiệu tình hình tăng trưởng việc làm ổn định. Nên nhớ rằng số lượng than
phiền càng thấp thì thị trường việc làm càng vững mạnh và ngược lại.
Cơ quan phát hành: ban điều phối đào tạo và việc làm của Bộ Lao động.
Thời điểm phát hành: 8:30 sáng (8h30 tối giờ Việt Nam), thứ năm. Dữ liệu thu thập
trong 1 tuần và kết thúc trước ngày thứ bảy
Mật độ phát hành: hàng tuần
Xét duyệt: đối chiếu số liệu với số liệu tuần trước được công bố vào thứ năm hàng

tuần. Tầm quan trọng ở mức độ vừa phải.

12. chỉ số Industrial Production and Capacity
Utilization
Định nghĩa: chỉ số sản xuất công nghiệp là một chuỗi đo lường trọng lượng sản phẩm
của các ngành sản xuật vật chất, khai khóang và ngành công nghiệp phục vụ công


cộng. Capacity utilization đo lường tỉ lệ giữa năng suất sử dụng đất và công cụ lao
động được dùng trong các ngành công nghiệp nói trên.
Ý nghĩa: trong một nển kinh tế, khu vực công nghiệp chiếm khoảng 25% GDP, vì thế
GDP thay đổi chủ yếu do tác động của khu vực công nghiệp. Do đó, sự biến đổi chỉ
số sản xuất công nghiệp cung cấp những thông tin bổ ích về tình hình tăng trưởng
hiện tại của GDP.
Các nhà đầu tư sử dụng chỉ số này như một chỉ báo lạm phát. Khi chỉ báo này tăng
cao trên 85% tức là nguy cơ lạm phát xuất hiện.
Cơ quan phát hành: Uỷ ban điều hành Hệ thống dự trữ Liên bang
Thời điểm phát hành: vào khoảng 9:15 sáng ngày 15 hàng tháng (9h15 tối giờ Việt
Nam). Dữ liệu thu thập của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng so với 3 tháng trước đó nhằm giúp phản
ánh thông tin hoàn chỉnh hơn. Các nhân tố điều chỉnh theo mùa sẽ được công bố vào
tháng 12. Sự xét duyệt này ảnh hưởng tới dữ liệu của ít nhất 3 năm và tầm quan trọng
là vừa phải.

13. chỉ số Philadelphia Fed
Định nghĩa: chỉ số sản xuất vùng tổng hợp kết quả của các bang
Pennsylvania, New Jersey và Delaware. Những vùng này đại diện cho khu
vực sản xuất hỗn hợp của quốc gia.
Ý nghĩa: nếu chỉ số có giá trị đạt trên 50% tức là khu vực sản xuất đang mở

rộng, ngược lại nếu dưới 50% thì sản xuất đang thu hẹp.
Nếu kết hợp chỉ số này với chỉ số Chicago Purchasing Manager sẽ hỗ trợ cho
việc dự báo chính xác hơn kết quả của chỉ số ISM- là chỉ số dẫn đầu trong
các chỉ số đánh giá tổng quan hoạt động kinh tế.
Cơ quan phát hành: ngân hàng dự trữ bang Philadelphia
Thời điểm phát hành: 10:00 (ET) sáng ngày thứ năm thứ ba của tháng (10h
tối giờ Việt Nam). Dữ liệu được lấy của tháng hiện tại.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: những nhân tố thay đổi theo thời gian mới sẽ được công bố vào
đầu năm. Tầm quan trọng ở mức vừa phải.

14. Chỉ số . Housing Starts and Building Permits – Bắt
đầu xây nhà và giấy phépcông trình
Định nghĩa: Là số lượng nhà ở được xây dựng hằng tháng.
Ý nghĩa: Dùng để dự đóan sự thay đổi của GDP. Trong khi đầu tư nhà ở chiếm 4%
GDP, tính không ổn định của nó chiếm phần nhiều hơn trong sự thay đổi GDP trong
thời gian tương đối ngắn.
Nguồn: Bộ phận tính toán của Bộ thương mại
Thời điểm phát hành: khỏang ngày 16 của tháng, lúc 8h30 sáng (8h30 tối giờ Việt
Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: Dữ liệu được xét duyệt hàng tháng lầy từ 2 tháng trước đó để kết hợp


thông tin chặt chẽ hơn. Những yếu tố mới thay đổi theo mùa được giới thiệu trong
thág 2 với những thông tin có được từ tháng 1. Nó có hiệu lực ít nhất 3 năm, và không
quan trọng lắm.

15. Chỉ số Gross Domestic Product (GDP) – Tổng sản
lượng nội địa

Định nghĩa: GDP tính toán giá trị đồng dollar của tất cả các sản phẩm và dịch vụ
được sản xuất trong biên giới Liên bang Mỹ, bất chấp các sản phẩm và dịch vụ thuộc
sở hữu của ai hay quốc tịch của người lao động sản xuất ra hàng hóa đó.
Số liệu cho cả đồng tiền thực và ảo. Nhà đầu tư luôn theo dõi tỉ lệ tăng trưởng thật vì
nó điều chỉnh mức độ lạm phát.
Ý nghĩa: Đây là thước đo nền kinh tế tốt nhất. GDP tăng trưởng tốt là từ 2% – 2.5%
(khi tỉ lệ thất nghiệp trong khoản 5.5% – 6.0%) Chuyển sang khả năng hợp tác kiếm
tiền, đó là dấu hiệu tốt cho thị trường chứng khoán.
Mức tăng trưởng GDP cao làm đẩy nhanh tốc độ lạm phát, trong khi mức tăng GDP
thấp là biểu hiện của một nền kinh tế yếu kém.
Cơ quan phát hành: Cục phân tích kinh tế, Bộ Thương mại Mỹ
Thời điểm phát hành: tuần thứ 3 hoặc thứ 4 trong tháng của quý được ưu tiên, với
những xét duyệt từ tháng 2 và 3 trong quý.
Mật độ: theo quý
Xét duyệt: Những đánh giá được đưa ra trong tháng thứ 2 và thứ 3 của quý dựa trên
những thông tin hoàn chỉnh. Dữ liệu chuẩn và những yếu tố mới thay đổi theo mùa
được giơi thiệu trong tháng 7 với dữ liệu của quý 2. Nó có hiệu lực nhất 3 năm và
cũng khá quan trọng.

16. chỉ số Industrial Production and Capacity
Utilization
Định nghĩa: chỉ số sản xuất công nghiệp là một chuỗi đo lường trọng lượng sản phẩm
của các ngành sản xuật vật chất, khai khóang và ngành công nghiệp phục vụ công
cộng. Capacity utilization đo lường tỉ lệ giữa năng suất sử dụng đất và công cụ lao
động được dùng trong các ngành công nghiệp nói trên.
Ý nghĩa: trong một nển kinh tế, khu vực công nghiệp chiếm khoảng 25% GDP, vì thế
GDP thay đổi chủ yếu do tác động của khu vực công nghiệp. Do đó, sự biến đổi chỉ
số sản xuất công nghiệp cung cấp những thông tin bổ ích về tình hình tăng trưởng
hiện tại của GDP.
Các nhà đầu tư sử dụng chỉ số này như một chỉ báo lạm phát. Khi chỉ báo này tăng

cao trên 85% tức là nguy cơ lạm phát xuất hiện.
Cơ quan phát hành: Uỷ ban điều hành Hệ thống dự trữ Liên bang
Thời điểm phát hành: vào khoảng 9:15 sáng ngày 15 hàng tháng (9h15 tối giờ Việt
Nam). Dữ liệu thu thập của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng so với 3 tháng trước đó nhằm giúp phản
ánh thông tin hoàn chỉnh hơn. Các nhân tố điều chỉnh theo mùa sẽ được công bố vào


tháng 12. Sự xét duyệt này ảnh hưởng tới dữ liệu của ít nhất 3 năm và tầm quan trọng
là vừa phải.

17. Chỉ số Existing Home Sales – Doanh số bán nhà
sẵn có
Định nghĩa: Báo cáo này tính toán tỉ lệ bán nhà không sở hữu hoàn toàn. Nó được
xem như là chỉ số hoạt động trong lĩnh vực nhà ở.
Ý nghĩa: Nó cung cấp tiêu chuẩn đánh giá không chỉ cho nhu cầu nhà ở mà còn là
bước chuyển kinh tế. Mọi người phải có khả năng tài chính vững vàng khi mua một
ngôi nhà.
Nguồn: Hiệp hội bất động sản quốc gia
Thời điểm phát hành: 10h sáng (10h tối giờ Việt Nam) ngày 25 hàng tháng (hoặc
ngày giao dịch đầu tiên sau đó). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng cho tháng trước đó. Những xét duyệt đó
có thể là đối tượng cho những thay đổi quan trọng. Cũng có kiểm tra hằng năm cho 3
năm trước đó. Mốc chuẩn là 10 năm.

18. Employment Situation – Tình trạng việc làm
Định nghĩa: Báo cáo này liệt kê ra danh sách những công việc không phải là nông
nghiệp và cơ quan chính phủ. Tỉ lệ thất nghiệp, trung bình mỗi giờ và số tiền kiếm

được mỗi tuần và thời gian trung bình tuần làm việc cũng được liệt kê trong báo cáo
này. Số liệu này gần nhất với những phân tích kinh tế vì mốc thời gian, tính chính xác
và tầm quan trọng của nó như là một chỉ số trong hoạt động kinh tế. Vì vậy, nó đóng
một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tài chính
trong suốt tháng.
Ý nghĩa : Đây là chỉ số trùng khớp đánh giá sự phát triển kinh tế, việc làm càng tăng
nhiều thì tăng trưởng kinh tế càng tăng nhanh.
Tỉ lệ thất nghiệp tăng sẽ đi kèm với nền kinh tế đóng và giảm mức lãi suất. Ngược lại,
tỉ lệ thất nghiệp giảm sẽ đi kèm với nền kinh tế mở và mức lãi suất tăng lên mức tiềm
năng. Vấn đề là tiền lương sẽ tăng nếu tỉ lệ thất nghiệp quá thấp và khó tìm được
nguồn nhân công. Nền kinh tế sẽ được xem như là đủ việc làm khi tỉ lệ thất nghiệp
trong mức từ 5,5% – 6,0%
Nếu trung bình tiền lương tăng rõ rệt, nó có thể là một chỉ số lạm phát tiềm ẩn.
Khi trung bình tuần làm việc có xu hướng cao lên, nó dự đoán việc lao động sẽ gia
tăng thêm.
Cơ quan phát hành: Cục điều tra lao động, Bộ lao động Mỹ
Thời điểm phát hành: 8h30 sáng thứ hai của tuần đầu tiên trong tháng (8h30 tối giờ
Việt Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng cho tháng trước đó. Nó rất quan trọng
và có 1 cuôc xét duyệt thường niên vào tháng 6.


19. Chỉ số Employment Cost Index (ECI) – Chỉ số chi
tiêu cho lao động
Định nghĩa: Chỉ số ECI được tạo ra để tính toán sự thay đổi trong chi tiêu cho lao
động bao gồm tiền công, tiền lương cũng như lợi ích đạt được.
Ý nghĩa: Nó rất hữu ích trong việc đánh giá xu hướng tiền lương và rủi ro của lạm
phát tiền lương. Nếu tình trạng lạm phát xảy ra thì lãi suất sẽ tăng và khi đó cố phiếu,
trái phiếu sẽ giảm.

Cơ quan phát hành: Bộ lao động Mỹ, phòng điều tra lao động
Thời điểm phát hành: lúc 8h30 sáng (8h30 tối giờ Việt Nam) ngày giao dịch cuối
cùng của tháng 1, tháng 4, tháng 7 và tháng 10. Dữ liệu lấy từ quý trước.
Mật độ: 3 tháng 1 lần
Xét duyệt: Những nhân tố mới thay đổi theo mùa được giới thiệu hằng năm. Xét
duyệt này có hiệu lực ít nhất 5 năm và rất quan trọng.

20. Chỉ số Durable Goods Orders – Đơn đặt hàng dài
hạn
Định nghĩa: tên đầy đủ là Báo cáo chuyên nghiệp về những đơn đặt hàng và gửi hàng
dài hạn. Đây là một chỉ số của chính phủ để đo lường lượng đồng dollar trong các đơn đặt
hàng, gửi hàng và những đơn hàng trống của những mặt hàng được đặt dài hạn.Đó là
những mặt hàng mới hoặc thường được sử dụng trong cuộc sống đời thường từ 3 năm trở
lên. Những phân tích thường loại trừ những đơn đặt hàng vận chuyển vì tính không ổn
định của chúng.
Ý nghĩa: Báo cáo này cung cấp cho chúng ta thông tin về sức mạnh của những nhu cầu
của thị trường Mỹ để sản xuất những sản phẩm dài hạn, từ nguồn trong nước cũng như
nước ngoài. Khi chỉ số đó tăng, nó làm cho nhu cầu tăng lên, kết quả là tăng sản xuất và
tăng công việc. Khi chỉ số giảm thì điều ngược lại sẽ xảy ra.
Đây cũng là một trong những chỉ số đầu tiên về nhu cầu tiêu dùng và kinh doanh trang
thiết bị. Lượng tiêu dùng tăng sẽ làm góp phần làm giảm nguy cơ lạm phát.
Nguồn: Bộ phận điều tra của Bộ thương mại
Thời điểm phát hành: khoảng ngày 26 hàng tháng, lúc 8h30 (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ
liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được kiểm tra hằng tháng cho 2 tháng trước đó để phản ánh được
nhiều thông tin hơn. Những yếu tố mới thay đổi theo mùa được giới thiệu hàng năm. Xét
duyệt này có hiệu lực ít nhất 3 năm và rất quan trọng.

21. Chỉ số Consumer Price Index (CPI) – Chỉ số giá

tiêu dùng
Định nghĩa: Là một chỉ số dùng để tính toán sự thay đổi giá cả của một số mặt hàng
đại diện của các sản phẩm và dịch vụ như thức ăn, năng lượng, dụng cụ nhà ở, quần
áo, phương tiện giao thông, chăm sóc sức khỏe, giải trí và giáo dục. Nó cũng có thể


được coi là chỉ số chi tiêu cho cuộc sống
Ý nghĩa: Việc theo dõi chỉ số CPI là rất quan trọng bao gồm giá cả của thức ăn và
năng lượng sao cho nó bình ổn trong tháng. Nó được xem như là “chỉ số CPI chủ
yếu” và cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về xu hướng lạm phát trong đó.
Tỉ lệ thay đổi chỉ số CPI nòng cốt này là một trong những thước đo lạm phát chính
trong nền kinh tế Mỹ. Khi chỉ số CPI đó vượt xa mức mong đợi sẽ gây nên tình trạng
lạm phát.
Cơ quan phát hành: Cục nghiên cứu của Bộ Lao động Mỹ
Thời điểm phát hành: khỏang ngày 13 hàng tháng, lúc 8h30 sáng (8h30 tối giờ Việt
Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: Những yếu tố thay đổi theo mùa được cập nhật vào tháng Hai với những
dữ liệu của tháng Một. Dữ liệu được xét duyệt có hiệu lực trong 5 năm. Tầm quan
trọng của việc xét duyệt thấp.

22. Chỉ số Consumer Confidence Index – Chỉ số niềm
tin tiêu dùng
Định nghĩa: Một cuộc khào sát 5000 người tiêu dung về thái độ của họ đối với tình
hình hiện tại và những mong muốn của họ trước tình trạng nền kinh tế đang tuột
giảm.
Ý nghĩa: Báo cáo này đôi khi rất có ích trong việc dự đoán những thay đổi bất ngờ
trong những mẫu khảo sát tiêu dùng. Và khi người tiêu dùng sử dụng 2/3 tài khoản
của mình vào nền kinh tế, nó giúp chúng ta hiểu thấu được hướng đi của nền kinh tế
đó. Tuy nhiên, chỉ khi những chì số đó thay đổi ít nhất 5 điểm thì mới nên được xem

xét cẩn thận.
Cơ quan phát hành: Ban điều hành hội nghị
Thời điểm phát hành: 10h sáng ngày thứ 3 tuần cuối của tháng ( 10h tối giớ Việt
Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: Dữ liệu được kiểm tra hàng tháng trên cơ sở phản hồi điều tra hoàn chỉnh.
Những yếu tố thay đổi theo mùa phải được cập nhật định kỳ. Việc kiểm tra không
quan trọng lắm.

23. Chỉ số Chicago Purchasing Managers’ Index (PMI)
– Chỉ số của các nhà quản lí mua hà
Định nghĩa: Nó dựa trên những cuộc điều tra hơn 200 nhà quản lí đánh giá sức mua
trong nền công nghiệp sản xuất khu vực Chicago nơi phản ánh hoạt động phân phối
của cả quốc gia.
Ý nghĩa: Dựa trên chỉ số của Cục dự trữ Philadenphia, có thể sự đoán được gần chính
xác hơn chỉ số ISM, nó đang giảm hằng ngày theo tình hình kinh doanh. ISM là chỉ


số hướng dẫn hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Cơ quan phát hành: Hiệp hội các nhà quản lý mua hàng Chicago
Thời điểm phát hành: Ngày giao dịch cuối của tháng lúc 10h sáng (10h tối giờ Việt
Nam). Dữ liệu lấy trong tháng hiện tại
Mật độ : hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được kiểm tra mỗi năm một lần. Việc xét duyệt này cũng không
quan trọng lắm

24.

chỉ số . Beige Book


Định nghĩa : Mỗi Ngân hàng của Cục dự trữ Liên bang tập hợp những thông tin liên quan đến
tình trạng của nền kinh tế hiện nay dựa trên những báo cáo của Giám đốc các Ngân hàng và chi
nhánh và giới thiệu chúng với những doanh nhân lớn, những nhà kinh tế, những chuyên gia thị
trường, và những nguồn lực khác. Quyển Beige Book này tóm tắt lại những thông tin theo từng
lĩnh vực.
Ý nghĩa: Cục dự trữ Liên bang sử dụng những báo cáo này, công với những chỉ số khác để quyết
định mức lãi suất tại cuộc họp FOMC (Federal Open Market Committee). Cuộc họp này được tổ
chức 2 tuần sau khi phát hành quyển Beige Book.
Nếu quyển Beige Book cho thấy tình trạng lạm phát tăng cao, thì Cục dự trữ sẽ tăng lãi suất. Và
ngược lại, nếu Beige book cho thấy tình trạng giảm lạm phát, có thể lãi suất sẽ giảm
Cơ quan phát hành : Ban điều hành Dự trữ liên bang
Thời điểm phát hành: 2:00 chiều thứ tư trước cuộc họp FOCM
Mật độ : một năm 8 lần
Xét duyệt: dữ liệu không phải xét duyệt



×