Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện mê linh, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.25 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ BẢO TRANG

.

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH
Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HOÀNG THỊ BẢO TRANG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH
Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60.38.01.02


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS LÊ THỊ HƢƠNG

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan
các thông tin được trình bày trong luận
văn là kết quả thu được từ quá trình nghiên
cứu và tìm hiểu thực tế của bản thân.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Bảo Trang


LỜI CẢM ƠN
Cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân trong việc nghiên cứu tham khảo
tài liệu, để hoàn thành được luận văn một cách tương đối hoàn chỉnh, tác giả luận
văn xin bày tỏ lời tri ân sâu sắc tới Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, các Thầy,
Cô giáo Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo giảng dạy và truyền
đạt kiến thức trong thời gian tác giả học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Thị Hương vì sự tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn UBND huyện Mê Linh, phòng Tư pháp huyện Mê Linh, UBND
xã Liên Mạc đã cung cấp thông tin và số liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu
của tác giả.
Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã
có những chia sẻ thông tin và tài liệu quan trọng, động viên khích lệ tinh thần để
tác giả hoàn thành tốt luận văn này.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giải đã cố gắng tìm hiểu tài liệu, học hỏi
kinh nghiệm, tiếp thu ý kiến của PGS.TS Lê Thị Hương để hoàn thành luận văn.
Tuy nhiên, do hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên luận
văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo
của các Thầy, Cô giáo trong Hội đồng chấm luận văn, sự đóng góp của bạn đọc
để bản thân được tiếp thu, học tập và nghiên cứu tốt hơn trong những công trình
tiếp theo.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Bảo Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 9
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỘ TỊCH.................................................................................................................... 14
1.1. Quan niệm về hộ tịch và pháp luật về hộ tịch ............................................................. 14
1.2. Quan niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch.................................................................... 20
1.3. Yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ..........................32
1.3.1. Yêu cầu thực hiện pháp luật về hộ tịch...................................................................... 32
1.3.2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ............................................. 35
Kết luận chƣơng 1......................................................................................................................... 42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH Ở
HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.................................................................. 43
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Mê Linh......................................... 43
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch ................................................. 46
2.2.1. Tình hình triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh .........46
2.2.2. Những kết quả đã đạt được trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện
Mê Linh.................................................................................................................................................. 50

2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở
huyện Mê Linh.................................................................................................................................... 54
2.3. Bài học kinh nghiệm trong thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội.............................................................................................................................. 70
Kết luận chƣơng 2......................................................................................................................... 72
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH Ở HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI................................................................................................................................................ 73
3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố
Hà Nội.................................................................................................................................................... 73
3.1.1. Đối với Ủy ban nhân dân huyện................................................................................... 73
3.1.2. Đối với phòng Tư pháp huyện........................................................................................ 73
3.1.3. Đối với Ủy ban nhân cấp xã........................................................................................... 74


3.1.4. Đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch........................................................................ 74
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành
phố Hà Nội........................................................................................................................................... 74
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về hộ tịch.................................................................................... 74
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ, công chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch ......................................................... 76
3.2.3. Nâng cao nhận thức thực hiện pháp luật về hộ tịch của các chủ thể, đồng
thời tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân trong việc thực hiện
đăng ký hộ tịch................................................................................................................................... 81
3.2.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong
việc thực hiện pháp luật về hộ tịch........................................................................................... 81
3.2.5. Áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý
hộ tịch..................................................................................................................................................... 87
3.2.6. Cải cách thủ tục hành chính trong việc đăng ký hộ tịch .................................... 89
Kết luận chƣơng 3......................................................................................................................... 91

KẾT LUẬN........................................................................................................................................ 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 95
PHỤ LỤC............................................................................................................................................ 97


1.

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UBND
Uỷ ban nhân dân

2.

THADS

Thi hành án dân sự

3.

TP - HT

Tư pháp – Hộ tịch

4.

TLPL

Tâm lý pháp luật

5.


VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ NUÔI CON NUÔI TẠI UBND CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr.2]
Bảng 2. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ, KẾT HÔN
TRONG NƯỚC TẠI UBND CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr3]
Bảng 3. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ KHAI SINH, KHAI TỬ, KẾT HÔN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN [23, tr4]
Bảng 4. KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ CÁC VIỆC HỘ TỊCH KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN [23, tr5]


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản trong đời sống một con người như: Sinh,
tử, kết hôn, ly hôn, giám định, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch... Một
trong những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý con người là công tác
quản lý hộ tịch. Con người là nhân tố trung tâm của mọi quan hệ xã hội, là chủ
thể quan trọng và quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Chính
vì vậy, vấn đề đầu tiên của xã hội là quản lý con người.
Thực hiện pháp luật về hộ tịch là quyền và nghĩa vụ của mỗi người được
thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định. Những sự kiện
hộ tịch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận bằng văn bản và ghi vào
sổ hộ tịch. Những giấy tờ, hộ tịch đã được xác nhận và được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ghi nhận nhằm để cá biệt hoá một công dân, đây là những chứng

cứ pháp lý trong các trường hợp cần thiết. Mặt khác việc đăng ký hộ tịch giúp
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý dân số, là cơ sở khoa
học để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và trật
tự, an toàn xã hội.
Trong quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một lĩnh vực hoạt
động được chú trọng và là nhiệm vụ của ngành Tư pháp.
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một con
người từ khi sinh ra đến khi chết. Thực hiện pháp luật về hộ tịch không những
liên quan đến nhân thân của con người mà còn liên quan đến chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ
cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.
Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của việc thực hiện pháp luật về
hộ tịch nên trong những năm qua, kể từ khi thực hiện Nghị định 158/2005/NĐCP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch cũng như Luật
Hộ tịch năm 2014 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch cùng với Thông tư số 15/2015/TT-BTP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số

9


123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Hộ tịch... Đây chính là cơ sở pháp lý để công dân thực hiện
các quyền nhân thân và Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với công dân.

Có thể nói, từ khi có các VBQPPL nói trên, công tác đăng ký và quản lý hộ
tịch đã đạt được một số kết quả bước đầu, từng bước ổn định và đi vào nề nếp.
Người dân đã nhận thức tầm quan trọng của giấy tờ hộ tịch nên không tùy tiện
sữa chữa, thêm, bớt, tự giác đi đăng ký các sự kiện hộ tịch theo quy định của
pháp luật. Không còn tình trạng "sinh không khai, tử không báo" như trước đây.

Thực tế cho thấy, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, công tác
thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh vẫn còn một số tồn tại, bất cập
chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải cải cách tư pháp trong
giai đoạn mới. Tình trạng cơ quan, tổ chức, đoàn thể chưa xác định đúng giá trị
pháp lý của giấy tờ hộ tịch, về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hộ tịch, còn
gây nhiều khó khăn cho công dân. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ
nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch của
một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân; sự phối hợp thiếu nhịp nhàng giữa
các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá
nhân; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý về
đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu rộng; năng lực của một số công chức
còn hạn chế...
Nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, vướng mắc trên và góp phần đề xuất
những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, tác
giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà
Nội” làm luận văn Thạc sỹ Luật chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, vấn đề thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật
trên từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội (trong đó có lĩnh vực hộ tịch) đã
được Đảng, Nhà nước và đặc biệt là các nhà khoa học, những người làm công tác
lý luận nghiên cứu trên nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau như:
- Ths. Phạm Trọng Cường: Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, Nxb. Tư
Pháp, Hà Nội, 2007;

10


- Ths. Phạm Trọng Cường: Về quản lý hộ tịch, NXB. Chính trị quốc gia, 2004;
- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Bảo vệ quyền trẻ em


trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000;
- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Chuyên đề thông tin

khoa học pháp lý về hộ tịch, Hà Nội, 1995;
- Nguyễn Thị Hồng Liên: Quản lý hộ tịch ở thành phố Hồ Chí Minh, luận

văn thạc sĩ luật học, 1996;
- Lê Thị Hoàng Yến: Đăng ký hộ tịch thực tiễn và hướng hoàn thiện, Luận

văn thạc sĩ luật học, 2002;
- Tổng cục Thống kê: Một số kết quả về dự án cải tiến đăng ký hộ tịch và

thống kê dân số, NXB. Thống kê, 1989;
- Bài “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tư pháp – hộ tịch trong giai

đoạn hiện nay”, Tác giả Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 9
năm 2006;
- Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch:, phần 2 hộ tịch và

quốc tịch", Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2007;
- Bài “Tư pháp Hà Nội không khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh”, tác

giả Đàm Thị Kim Hạnh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 03 năm 2008;
- “Hôn nhân biên giới và những vướng mắc trong thủ tục đăng ký kết hôn”,

tác giả Phạm Trọng Cường, Tập san Biên giới và lãnh thổ, số 9 (tháng 4-2001)...
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung
của thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực của đời sống xã

hội. Nhưng đến nay chưa có công trình nào dưới góc độ lý luận và thực trạng
thực hiện pháp luật, lý giải các nguyên nhân và đề ra phương hướng bảo đảm
thực hiện pháp luật về Hộ tịch nói chung và ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá đúng tình hình thực hiện pháp
luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội trong những năm qua và hiện

11


nay, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về hộ tịch.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch tịch ở huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật hộ tịch và các văn bản của UBND huyện Mê
Linh trong lĩnh vực hộ tịch.
Thực tiễn hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện
Mê Linh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch và hoạt
động thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội từ năm
2014 (kể từ khi có Luật Hộ tịch) cho đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
về thực hiện pháp luật về hộ tịch, bám sát tình hình thực tế và điều kiện tự nhiên,
xã hội ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn tác giả sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Trong Chương 1, để làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật
về hộ tịch, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ thêm
quan niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về hộ tịch.
- Trong Chương 2, để minh họa về thực tiễn thực hiện pháp luật về hộ tịch ở
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh, sơ đồ hóa… từ những phân tích về thuận lợi và khó khăn tác giả chỉ ra

12


nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện pháp luật về hộ tịch chưa đạt hiệu quả cao từ
đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh nói riêng và cả nước nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về hộ tịch
ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
- Luận văn đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực
hiện pháp luật về hộ tịch.
- Làm tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, cũng như nghiên cứu giảng dạy của các
cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về hộ tịch;
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Mê Linh,
thành phố Hà Nội;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ
tịch ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.

13


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH
1.1. Quan niệm về hộ tịch và pháp luật về hộ tịch
1.1.1. Quan niệm về hộ tịch, đăng ký hộ tịch
- Hộ tịch
Từ trước đến nay, vẫn tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về “Hộ tịch”.
Trong khoa học pháp lý một số nước trên thế giới, có thể nhận thấy khái niệm về
hộ tịch đã được đề cập, cụ thể như theo tiếng Anh, thuật ngữ “Civil registration”
được hiểu là việc đăng ký đúng thời hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính
quyền trong thời hạn quy định. Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự của Cộng hoà
Pháp không đưa ra khái niệm riêng về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm “ Chứng
thư hộ tịch”; nhưng trong tiếng Pháp thì từ “registre d etat civil” cũng được hiểu
là việc đăng ký dân sự của cá nhân. Như vậy, cả hai khái niệm nêu trên đều có
thể hiểu nghĩa đó là việc “đăng ký tình trạng dân sự của cá nhân”.
Các nước có hệ thống pháp luật theo truyền thống là luật thành văn (còn gọi
là hệ thống luật lục địa) với đại diện tiêu biểu nhất là Pháp thì khái niệm này
thường gắn liền với khái niệm “Thân trạng” và được hiểu là “căn cước, tình
trạng dân sự của một cá nhân” (tiếng Pháp là état des personnes).
Còn hiện nay, theo các tài liệu và được Liên hiệp quốc công nhận và chính
thức sử dụng thường xuyên thì khái niệm “Civil registration” có nghĩa là: “Đăng

ký hộ tịch là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tình trạng dân sự của
mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh, luật hoặc điều lệ
phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi quốc gia”.
Có thể nói, khái niệm hộ tịch được thể hiện rất rộng, các nước khu vực
Châu Âu như Cộng hoà Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Áo… hay các
nước ở khu vực Châu Á như Lào, Nhật Bản, Đài Loan… đều có những khái
niệm riêng về hộ tịch.
Có quan niệm cho rằng: Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các
người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh,

14


khai tử. Quan niệm thứ hai lại cho rằng, việc ghi chép vào sổ sách không phải là
hộ tịch mà bản thân các sự kiện liên quan đến tình trạng nhân thân của con người
mới là hộ tịch. Có thể xem cách hiểu thứ hai là cách hiểu khá thấu đáo và toàn
diện, được khoa học công nhận và được quy định khá rõ ràng trong văn bản quy
phạm pháp luật. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày
10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch thì: Hộ tịch là những sự kiện cơ
bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết.
Có thể xem những sự kiện về hộ tịch rất đa dạng. Nếu theo quan niệm cũ
trước đây, hộ tịch chủ yếu bao gồm các sự kiện về sinh, tử, kết hôn thì theo quy
định hiện nay của pháp luật, hộ tịch bao gồm 9 sự kiện cơ bản như: sinh; tử; kết
hôn; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải
chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc. Các sự kiện
hộ tịch được xem là các sự kiện cơ bản, bởi các sự kiện này có thể làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân.
Như vậy, có thể thấy về mặt ngôn ngữ học, từ "hộ tịch" đang được sử dụng
trong pháp luật Việt Nam hiện hành đều có sự tương đồng về ngữ nghĩa với các
khái niệm của pháp luật về hộ tịch của nước ngoài.

Theo điều 1, Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 (Nghị định này
thay thế cho NĐ số 83 ngày 10/10/1998) quy định: “Hộ tịch là những sự kiện cơ
bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.
Theo Điều 2 Luật Hộ tịch năm 2014: Hộ tịch là những sự kiện được quy
định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi
sinh ra đến khi chết.
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và biến động về hộ tịch, trên cơ
sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp
phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số,
kế hoạch hóa gia đình. Công tác quản lý hộ tịch là một tổng thể của nhiều công
việc như tuyên truyền giáo dục pháp luật về hộ tịch, tổ chức đăng ký hộ tịch, báo
cáo thống kê tăng, giảm dân số, kiểm tra, xử lý vi phạm về đăng ký hộ tịch. Các

15


công việc nêu trên phải được tiến hành thường xuyên tại cơ sở nhằm bảo đảm
kịp thời, chính xác đồng thời phải thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân.
Như vậy, hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân
của một con người từ khi sinh ra đến khi chết. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân và quyền nhân thân của con người được Hiến pháp năm 2013 và Bộ
luật Dân sự năm 2015 qui định để xác định sự kiện hộ tịch như: quyền thay đổi
họ tên; quyền xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh; quyền được khai tử;
quyền được kết hôn; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền
đối với quốc tịch…
- Đăng ký hộ tịch
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận, ghi
vào sổ các sự kiện hộ tịch của cá nhân nhằm xác định tình trạng nhân thân của cá

nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân
và thực hiện quản lý về dân cư, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Theo quan niệm truyền thống: Đăng ký hộ tịch là việc ghi chép vào sổ các
sự kiện về việc hộ tịch của các hộ lại nhằm quản lý việc biến động tự nhiên, biến
động xã hội của các sự kiện đó, trên cơ sở đó xác định nghĩa vụ đối với Nhà
nước như đóng thuế, nghĩa vụ nô dịch, quân dịch ...
Theo quan niệm hiện tại: Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi,
thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện
khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Khái niệm này được mở rộng phạm
vi đăng ký tại Điều 1 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Khái niệm đăng ký hộ tịch được định nghĩa như sau: Đăng ký hộ tịch là
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử;
nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều
chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc;
Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào Sổ
hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết
hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.

16


Trước khi có Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 thì trong Nghị
định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 cũng đã đưa ra khái niệm đăng ký hộ tịch
tương đối giống với nội dung như trong Nghị định 158. Quay về thời điểm 1995,
khi Quốc hội ban hành Bộ luật dân sự, thì tại điều 54 của Bộ luật cũng có quy
phạm định nghĩa về khái niệm đăng ký hộ tịch: “Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi
con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định lại dân tộc, cải chính hộ tịch và

các sự kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch”
Như vậy, Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã sử dụng phương pháp mô tả để
phán ánh đầy đủ, toàn diện khái niệm đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, về mặt kỹ
thuật, trong khái niệm đăng ký hộ tịch, chữ “tịch” đã có giá trị biểu đạt tương
đương với “đăng ký”. Chữ “tịch” có nghĩa là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ
thuộc”. Điều này tạo nên sự trùng lặp về ý nghĩa khi giải thích khái niệm (tương
tự như cụm từ: Sông Hồng Hà, sông Trường Giang, đá thiên thạch..). Đây là một
nét đặc trưng của việc sử dụng ngôn ngữ Hán - Việt. Hạn chế có thể được khắc
phục nếu thay thế khái niệm đăng ký hộ tịch bằng khái niệm thuần Việt“đăng ký
tình trạng dân sự”. Tuy nhiên đây là khái niệm xa lạ với người dân, do đó, việc
sử dụng khái niệm thay thế “đăng ký tình trạng dân sự” mặc dù có thể đạt được
sự chặt chẽ về mặt học thuật những lại hoàn toàn không có tính đại chúng, hạn
chế khả năng phổ biến trong đời sống xã hội.
Như vậy, sự kết hợp giữa khái niệm “hộ tịch” (mà đúng hơn là sự kiện “hộ
tịch”) và “đăng ký hộ tịch” mới có thể mang lại cách hiểu đầy đủ về khái niệm “hộ
tịch”, vì khái niệm “hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân
của một người từ khi sinh ra đến khi chết” là một khái niệm “mở”, theo đó, chỉ có
thể hiểu “những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người” là
những sự kiện nào khi viện dẫn tới định nghĩa về “đăng ký hộ tịch”.

Khi định nghĩa hành vi đăng ký hộ tịch, Nghị định 158/2005/NĐ-CP đồng
thời đã phân biệt thành 2 nhóm hành vi với tính chất khác nhau rõ ràng:
- Hành vi xác nhận các sự kiện sinh, kết hôn, tử, nuôi con nuôi, giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ tên, chữ đệm; cải chính họ tên, chữ đệm; ngày
tháng năm sinh; xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc.

17


Đối với các sự kiện hộ tịch trên, cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận bằng cách

đăng ký vào sổ dành riêng cho từng loại việc đồng thời cấp giấy chứng nhận về
việc đó cho đương sự (như Giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn). Hành vi
xác nhận của cơ quan đăng ký hộ tịch đã làm phát sinh hiệu lực pháp lý của các
sự kiện được đăng ký. Chỉ sau khi đăng ký, các sự kiện đó mới làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của cá nhân.
- Hành vi ghi (ghi chú) vào sổ hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha,
mẹ, con; thay đổi quốc tịch; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con
nuôi. Khác với hành vi xác nhận, đối với các loại việc hộ tịch này, cơ quan đăng
ký hộ tịch chỉ đơn thuần căn cứ quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ghi chú việc đó vào sổ hộ tịch. Điểm phân biệt cơ bản giữa hành vi này với nhóm
hành vi thứ nhất là nó không làm phát sinh hiệu lực pháp lý, bởi vì bản thân các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đem lại hiệu lực pháp lý cho
các việc đó.
1.1.2. Pháp luật về hộ tịch
Ở nước ta, pháp luật về hộ tịch có lịch sử lâu đời từ thời phong kiến nhà
Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo. Tuy nhiên, việc quản lý hộ tịch được
thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc.
Điểm nổi bật trong hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch của thời kỳ Pháp thuộc là
có một đội ngũ hương chức chuyên làm công tác hộ tịch, gọi là Hộ lại. Hộ lại là
người nắm giữ sổ sách hộ tịch và trực tiếp đăng ký các việc hộ tịch trong địa bàn
cấp xã do mình phụ trách. Vì việc quản lý hộ tịch đòi hỏi phải nắm rất kỹ từng
người dân, từng gia đình nên chức danh Hộ lại được bổ nhiệm suốt đời (trừ phi
bị truất chức do vi phạm), thậm chí được khuyến khích “cha truyền con nối”.
Điểm nổi bật thứ hai trong quản lý hộ tịch thời Pháp thuộc là có hệ thống sổ sách
hộ tịch (gọi là “sổ bộ”) đầy đủ, khoa học và được bảo quản rất cẩn thận. Hiện
nay, một số sổ sách hộ tịch thời Pháp thuộc vẫn còn được lưu giữ tại các thành
phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ.
Sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
vẫn được Nhà nước ta tiếp tục duy trì và phát triển. Theo tinh thần của Sắc lệnh
số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các thể lệ đăng ký hộ


18


tịch đã được quy định trong Bộ Dân luật giản yếu được áp dụng ở Nam kỳ,
Hoàng Việt hộ luật được áp dụng ở Trung kỳ và Dân luật Bắc Kỳ vẫn được tiếp
tục áp dụng.
Ngày 08/5/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 764/TTg
kèm theo Bản Điều lệ hộ tịch. Ngày 16/01/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành
Nghị định số 04/CP, kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế Bản điều
lệ được ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg. Theo quy định tại hai bản
điều lệ nói trên, thì Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) là cơ quan được Hội đồng
Chính phủ giao nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo, tổ chức quản lý hộ tịch, việc đăng
ký hộ tịch do Uỷ ban hành chính xã, thị trấn, thị xã, khu phố phụ trách.
Từ năm 1987, nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch được chuyển giao từ
Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp trên cơ sở Nghị định số
219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); từ thời
điểm này, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý Nhà nước về hộ
tịch trên phạm vi cả nước.
Đến năm 2005 việc đăng ký quản lý hộ tịch được thực hiện theo Nghị định
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch,
nghị định 06/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về
hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực. Nghị định số 06/2012/NĐ-CP đã
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 158/2005/NĐ-CP theo hướng đơn
giản hoá các thủ tục khi đăng ký hộ tịch, quy định cụ thể các giấy tờ cần thiết đối
với từng sự kiện hộ tịch, bổ sung quy định đối với hồ sơ đăng ký hộ tịch, hồ sơ
xin cấp bản sao từ sổ gốc gửi qua hệ thống bưu chính. Đồng thời Nghị định
06/2012/NĐ-CP, đã rút ngắn thời hạn giải quyết một số thủ tục về hộ tịch.
Ngày 20/11/2014, Quốc Hội ban hành Luật Hộ tịch và bắt đầu từ năm 2016,
Luật hộ tịch chính thức có hiệu lực đã trở thành bước tiến lớn trong công tác

đăng ký hộ tịch.
Như vậy, pháp luật về hộ tịch là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà
nước với công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình trong lĩnh vực hộ tịch.

19


Pháp luật về hộ tịch có các đặc điểm sau đây:
- Pháp luật về hộ tịch là một giá trị nhân thân, gắn chặt với cá nhân con
người, bởi vì mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết. Các dấu
hiệu về cha, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính, là những dấu hiệu giúp người ta phân biệt
từng cá nhân con người.
- Có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rộng, đa dạng, phức tạp, bao gồm các
quan hệ xã hội phát sinh của mỗi một con người từ khi sinh ra cho tới khi chết đi
bao gồm: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ con, cải chính, bổ sung hộ tịch….
- Chứa đựng các loại quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau
như: Luật hiến pháp, Luật Hành chính, Luật dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình….

- Có hình thức thể hiện phong phú, gồm các văn bản luật và các văn bản
dưới luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành: Luật hộ tịch năm 2014, Nghị
định số: 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật hộ tịch, thông tư số: 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch…
1.2. Quan niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền làm chủ của

nhân dân và có vị trí tối cao trong cách ứng xử của cả công dân, các tổ chức và
Nhà nước. Song mục đích đó có đạt được hay không, pháp luật có triển khai thực
hiện trong thực tế cuộc sống hay không phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện pháp
luật của các chủ thể.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con
người phù hợp với những quy định của pháp luật. Dưới góc độ của pháp lý thì
thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Thực hiện pháp luật là một quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Do vậy, có
thể hiểu: Thực hiện pháp luật về hộ tịch là hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật về thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch đi vào

20


cuộc sống nhằm phát huy cao độ quyền của công dân trong việc đăng ký các sự
kiện hộ tịch: khai sinh, khai tử, kết hôn,… nhằm theo dõi thực trạng và sự biến
động về hộ tịch đảm bảo cho các sự kiện hộ tịch được đăng ký kịp thời, đúng quy
định của pháp luật, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Thực hiện pháp luật về hộ tịch có các đặc điểm sau đây:
- Thực hiện pháp luật về hộ tịch là thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân
đối với hoạt động đăng ký hộ tịch và là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước khi
đăng ký quản lý hộ tịch, khác với thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực, các ngành
luật khác ở các chủ thể, phạm vi, nội dung và các hình thức thực hiện. Theo đó:
- Chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch trước hết là các cơ quan: Chính

phủ, Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao, các cơ quan đại diện, Lãnh sự của Việt Nam
ở nước ngoài, UBND cấp tỉnh, Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, phòng Tư pháp,

UBND cấp xã.
- Phạm vi thực hiện pháp luật về hộ tịch diễn ra giữa các chủ thể mà một
bên bao giờ cũng là công dân sống trong một đơn vị hành chính lãnh thổ hoặc
những đơn vị quần cư nhỏ nhất.
- Chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện pháp luật
về hộ tịch vừa mang tính chất quản lý hành chính vừa mang tính chất tự quản.
- Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch rất rộng lớn, có liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú.
1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Các
quy phạm pháp luật rất phong phú nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong
phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, có thể
xác định thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Trong đó, thi hành pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật, các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng hành động tích cực. Sử dụng pháp luật là hình thức trong đó

21


các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành
vi mà pháp luật cho phép), ở hình thức này các chủ thể pháp luật có thể thực hiện
hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình. Thực
hiện pháp luật về hộ tịch được thực hiện chủ yếu ở hình thức sử dụng pháp luật
(đối với chủ thể là công dân) và áp dụng pháp luật (đối với chủ thể là chính
quyền và các tổ chức chính trị cơ sở). Nếu xem xét thực hiện pháp luật về hộ tịch
cơ sở chính là thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch.
Tuân thủ pháp luật về hộ tịch: Là hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch,
trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện các quy định cấm của

pháp luật hộ tịch.
Để đảm bảo công tác đăng ký và quản lý hộ tịch được thực hiện kịp thời,
đầy đủ theo các quy định của pháp luật về hộ tịch, những yêu cầu chủ thể pháp
luật phải luôn luôn tự kiềm chế mình một cách chủ động và tự giác trong mọi
điều kiện, hoàn cảnh tình huống luật định mà bản thân mình đang gặp phải để
không thực hiện những hành vi pháp luật ngăn cấm trong lĩnh vực hộ tịch.
Ví dụ: Điều 12 Luật Hộ tịch năm 2014 có quy định Các hành vi bị nghiêm
cấm: Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy
tờ của người khác để đăng ký hộ tịch; Đe dọa, cưỡng ép, cản trở việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch; Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký
hộ tịch; Cam đoan, làm chứng sai sự thật để đăng ký hộ tịch; Làm giả, sửa chữa,
làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch;
Đưa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi ích vật chất, tinh thần để được đăng ký hộ
tịch; Lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc trốn tránh nghĩa vụ đăng ký hộ tịch
nhằm động cơ vụ lợi, hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước hoặc trục lợi dưới
bất kỳ hình thức nào…
Điều 74 Luật Hộ tịch năm 2014 cũng quy định những việc công chức làm
công tác hộ tịch không được làm gồm: Cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì
hoãn, gây khó khăn, phiền hà, nhận hối lộ khi đăng ký, quản lý hộ tịch. Thu lệ
phí hộ tịch cao hơn mức quy định hoặc đặt ra các khoản thu khi đăng ký hộ tịch.
Đặt ra thủ tục, giấy tờ, cố ý kéo dài thời hạn giải quyết đăng ký hộ tịch trái quy

22


định của Luật này. Tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung thông tin trong Cơ
sở dữ liệu hộ tịch…
Với các quy định này đòi hỏi cả từ phía người dân và chủ thể thực hiện
đăng ký hộ tịch không được thực hiện các hành vi nêu trên. Việc các chủ thể đó
kiềm chế không thực hiện những hành vi trên là biểu hiện của việc thực hiện

pháp luật về Hộ tịch. Nếu trong trường hợp có những cơ quan, tổ chức, cá nhân,
công dân hoặc cán bộ, công chức vi phạm thì có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
Thi hành (chấp hành pháp luật về hộ tịch): Là một hình thức thực hiện pháp
luật về Hộ tịch, trong đó các chủ thể pháp luật tự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của
mình bằng hành động tích cực. Bên cạnh việc đề ra các quy định mang tính ngăn
cấm nhằm hạn chế những hành vi gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc đăng ký, quản lý
hộ tịch, pháp luật còn có những quy định mang tính bắt buộc thể hiện ở những nghĩa
vụ của các chủ thể trong quá trình đăng ký, quản lý hộ tịch.

Ví dụ: Điều 15 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về Trách nhiệm đăng ký
khai sinh:
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm
đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho
con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi
dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký
khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần thiết
thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.
Điều 33 quy định Thời hạn và trách nhiệm đăng ký khai tử:
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc con,
cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi đăng ký
khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện của cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử.
Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc khai tử
cho người chết; trường hợp không xác định được người có trách nhiệm đi khai tử

23



thì công chức tư pháp - hộ tịch thực hiện đăng ký khai tử.
Với các quy định đã nêu trên các chủ thể ở trong các trường hợp đó,
nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời nộp phí theo quy định của
pháp luật. Như vậy, bằng hành động tích cực trong khi thực hiện các nghĩa vụ
của mình các chủ thể đã tích cực thực hiện các quy phạm pháp luật về Hộ tịch.
Sử dụng pháp luật về hộ tịch: là hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch,
trong đó các chủ thể sử dụng các quyền về đăng ký, quản lý hộ tịch để bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Hình thức này khác với hình thức tuân thủ
pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí. Ví dụ: Tổ chức, cá nhân có quyền
khiếu nại, tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về hộ tịch, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy pháp luật cho phép các chủ thể pháp
luật có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành
vi vi phạm pháp luật về hộ tịch nhưng họ có thể không thực hiện các quyền này
của mình nếu họ cảm thấy không cần thiết.
Áp dụng pháp luật về hộ tịch: là một hình thức thực hiện pháp luật, đặc
biệt trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc các
tổ chức xã hội và các cá nhân được nhà nước trao quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật để ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ về hộ tịch. Trong trường hợp này các chủ thể tham
gia thực hiện pháp luật, thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của
Nhà nước.
1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch
Các quy phạm pháp luật về hộ tịch của nước ta hiện nay được ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp luật (Hiến pháp 2013, Luật Hộ tịch 2014, Bộ luật Dân
sự 2015, Luật Hôn nhân và gia đình.... cùng các Nghị định, Chỉ thị, Quyết định,
Thông tư…) của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nội dung rộng, liên
quan đến tất cả các lĩnh vực hộ tịch. Tuy vậy, có thể khái quát nội dung thực hiện
pháp luật hộ tịch bao gồm 2 vấn đề chủ yếu: đăng ký hộ tịch và quản lý hộ tịch.

1.2.3.1. Thực hiện pháp luật về đăng ký hộ tịch
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc

24


ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà
nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư.
Nội dung đăng ký hộ tịch bao gồm:
- Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: Khai sinh; Kết hôn; Giám
hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung
thông tin hộ tịch; Khai tử.
- Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha,
mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly
hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám
hộ; Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
- Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ
tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài.
- Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của
pháp luật.
Việc đăng ký hộ tịch cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân.
- Mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung
thực, khách quan và chính xác; trường hợp không đủ điều kiện đăng ký hộ tịch
theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu cơ quan đăng ký hộ tịch từ chối
bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Đối với những việc hộ tịch mà Luật này không quy định thời hạn giải
quyết thì được giải quyết ngay trong ngày; trường hợp nhận hồ sơ sau 15 giờ mà
không giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo.
- Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có
thẩm quyền theo quy định của Luật này.
Cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường
trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Trường hợp cá nhân không đăng

25


×