HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN TUYÊN
PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN TUYÊN
PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. HOÀNG ANH
2. TS. VĂN THỊ THANH MAI
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã
được trích dẫn đầy đủ đúng quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Tuyên
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN........................................................................ 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giá trị con người,
phát triển giá trị của con người Việt Nam.................................................6
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển giá trị của con người Việt Nam.......................................... 17
1.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu...............................................................................................26
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HỆ GIÁ TRỊ CỦA
CON NGƯỜI VIỆT NAM....................................................................30
2.1. Một số khái niệm......................................................................................30
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người
Việt Mam.................................................................................................35
2.3. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người
Việt Nam.................................................................................................54
Chương 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ CỦA CON
NGƯỜI VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH...............89
3.1. Nhân tố tác động đến sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
89
3.2. Sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam....................................103
3.3. Những vấn đề đặt ra từ sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
121
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ GIÁ TRỊ
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH....................................................................................129
4.1. Quan điểm.............................................................................................. 129
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh....................................135
KẾT LUẬN.................................................................................................. 160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN..................................................... 162
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 163
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người nói chung, giá trị của
con người Việt Nam nói riêng là một nội dung quan trọng, vừa là mục tiêu,
động lực của sự nghiệp cách mạng, vừa là mục đích của tư tưởng; sức mạnh
của văn hóa và con người Việt Nam là nhân tố làm nên thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặc dù trong di sản tinh thần của Hồ
Chí Minh để lại, không có những tác phẩm chuyên khảo bàn về hệ giá trị của
con người Việt Nam, nhưng được thể hiện ở trong nhiều bài viết, bài nói dưới
những hình thức, mức độ khác nhau; đặc biệt được thể hiện rõ trong quá trình
thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng,
phát triển giá trị của con người Việt Nam, trong Di chúc, Người căn dặn sau
khi chiến tranh kết thúc "đầu tiên là công việc đối với con người" [99, tr.616].
Việt Nam đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp
4.0). Nhờ có đường lối đúng đắn, chúng ta đã tiếp thu nhiều giá trị tiến bộ của
nhân loại để không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa tinh thần cho người dân... Tuy nhiên, mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, kinh tế thị trường và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động
tiêu cực đến hệ giá trị truyền thống của người Việt Nam; làm cho thang giá trị có
sự xung đột, chuyển đổi, thậm chí khủng hoảng trong việc lựa chọn giá trị định
hướng, nhất là ở thế hệ trẻ. Nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc
như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, nghĩa tình, hiếu học, cần cù… dù vẫn được
phần lớn người dân Việt Nam trân trọng, gìn giữ và phát huy, nhưng cũng đang
có biểu hiện mai một, suy thoái, nhất là giá trị đạo đức. Thực tế đó đòi hỏi yêu
cầu bức thiết cần tìm ra những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực,
2
hạn chế mặt tiêu cực, hướng tới xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, cùng với phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng phát triển văn hóa, con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển văn hóa. Điều đó được thể hiện thông qua các Văn kiện
Đại hội Đảng, từ Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1998) đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016); các Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Hội
nghị Trung ương 10 khóa IX, Hội nghị Trung ương 7 khóa X… Trong nghị
quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta
xác định nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng con người có
nhân cách, đạo đức tốt đẹp và tinh thần đó được thể hiện xuyên suốt trong
Nghị quyết, từ tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ cũng như những
giải pháp. Đây là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu, đúc kết và
xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với những lý do trên, tôi chọn “Phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận
án tiến sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về
hệ giá trị con người Việt Nam; từ đó vận dụng vào việc phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ một số khái niệm cơ bản về: Giá trị, hệ giá trị; tư
tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam; phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam.
3
- Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của
con người Việt Nam.
- Nghiên cứu quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về hệ giá trị tiêu
biểu, cốt lõi và phương pháp phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam.
- Phân tích sự phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trước tác
động tích cực, tiêu cực của nhân tố khách quan và chủ quan.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ
giá trị của con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Trong di sản tinh thần để lại, Hồ Chí Minh đã đề cập
trực tiếp, gián tiếp đến nhiều giá trị của con người Việt Nam. Có những giá trị
chung của dân tộc như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, cần cù, hiếu học…; có
giá trị riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, ngành nghề: công nhân, nông
dân, bộ đội, công an, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng…; có giá trị cá
nhân: sức khỏe, các quyền con người… Có những giá trị chính trị: độc lập, tự
do, hạnh phúc, dân chủ…; có những giá trị đạo đức: trung thực, dũng cảm,
liêm khiết, chính trực… Song, trong khuôn khổ của luận án, tác giả chỉ tập
trung đi sâu nghiên cứu các giá trị: Yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn
kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đây là những giá trị
tiêu biểu, cốt lõi nhất, tạo nên bản sắc văn hóa, con người Việt Nam. Từ
những giá trị tiêu biểu, cốt lõi mang tính nguyên tắc này đã sản sinh ra nhiều
giá trị quý báu khác của con người Việt Nam.
- Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2018, là giai đoạn nước ta bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
4
quốc tế; là giai đoạn Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng xây dựng, phát
triển văn hóa, con người, đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII.
- Về không gian: Trong quốc gia Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích
và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, tổng hợp và khái quát hóa, đối chiếu và so sánh,
thống kê,...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam; hệ thống hóa các quan điểm
lý luận của Người về hệ giá trị của con người Việt Nam.
- Góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, về hệ giá trị của con người Việt Nam nói riêng; khẳng định
những đóng góp quan trọng của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
5.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
- Từ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt
Nam, có thể vận dụng vào việc phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh tại các cơ quan nghiên
cứu, các học viện và nhà trường về văn hóa, con người Việt Nam đương đại.
5
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ giá trị của con người Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp phát triển hệ giá trị của con người
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ GIÁ
TRỊ CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Bàn về vấn đề giá trị và giá trị con người Việt Nam đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước dưới những góc độ khác nhau.
Tiêu biểu có Nguyễn Hồng Phong, trong cuốn Tìm hiểu tính cách dân tộc [122]
đã nêu và phân tích khá sâu sắc về đặc điểm, tính cách con người Việt Nam
truyền thống như: tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình,
nhân đạo; tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần cù, giản dị, thực tiễn; lạc
quan. Nghiên cứu từ góc độ lịch sử, ông khẳng định rằng dân tộc Việt Nam là
một dân tộc anh hùng, một dân tộc được rèn giũa trong một môi trường đặc biệt,
vừa mới ra đời hãy còn chập chững đã phải chiến đấu chống kẻ thù xâm lược; là
một dân tộc có tinh thần tương trợ, hào hiệp, nghĩa tình, trung hậu, vị tha, coi
trọng đạo đức và những giá trị tinh thần, là một dân tộc cần cù, giản dị, lạc
quan… Chính “nhờ có những đức tính ấy mà đã vượt bao nhiêu trở ngại vô cùng
lớn lao trên con đường tiến hóa của mình” [122, tr.200].
Cũng với cách tiếp cận trên, trong cuốn Những giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam [149], Ngô Đức Thịnh đã phân tích khá sâu sắc một số vấn đề
lý luận trong nghiên cứu giá trị văn hóa và chuyển đổi hệ giá trị trong đổi mới
và hội nhập ở Việt Nam, trong đó nêu lên định nghĩa về “giá trị”, cách phân
loại “giá trị”; nêu và phân tích hệ giá trị văn hóa tổng quát truyền thống Việt
Nam, trong đó có những giá trị tiêu biểu như: Chủ nghĩa yêu nước; tinh thần
cộng đồng; tinh thần lạc quan, nhân nghĩa; tinh thần cần cù, chịu đựng gian
khổ… Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó và khảo sát riêng ở
cả ba miền Bắc, Trung, Nam, tác giả đã chọn ra 5 giá trị tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam đó là: Chủ nghĩa yêu nước; tính cộng đồng (làng xóm, vùng, miền,
7
dân tộc); cần cù, chịu khó; hiếu học, khát vọng học; gắn bó huyết thống (gia
đình) và làng bản. Bên cạnh những giá trị tổng quát đó, tác giả nêu và phân
tích các giá trị bộ phận, thể hiện trong một số lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
hội như: Thích ứng môi trường và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, trong lĩnh vực văn hóa đảm bảo đời sống như ăn, mặc, ở, đi lại,…
trong các cách tổ chức và quản lý xã hội truyền thống, trong giáo dục và đào
tạo con người,...
Trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam [44],
Trần Văn Giàu đã đưa ra các khái niệm: “giá trị”, “giá trị tinh thần”, “truyền
thống”. Theo tác giả, các giá trị truyền thống Việt Nam được hình thành từ tác
động tổng hòa của năm yếu tố cơ bản đó là: Hoàn cảnh địa lý; vị trí ngã tư
đường giao lưu văn hóa và kinh tế Bắc Nam - Đông Tây; có nền văn minh bản
địa đặc sắc; hoàn cảnh lịch sử; chủ nghĩa Mác - Lênin. Tác giả đã nêu và phân
tích những điều kiện lịch sử và những nhân tố tác động đến sự hình thành,
phát triển của giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Ông đưa ra bảng giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng
tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Theo tác giả, những giá trị đó vừa mang
tính phổ biến, vừa mang dấu ấn riêng và cái làm nên dấu ấn riêng, đặc sắc
riêng đó chính là tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó hoàn cảnh lịch sử đặc
thù của dân tộc đóng vai trò quyết định. Những giá trị tinh thần truyền thống
ấy, theo tác giả "vừa đủ để cho dân tộc ta sinh tồn tự do và vinh dự… các đức
tính ấy hoàn toàn phù hợp, hài hòa với các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần mà
cả loài người đều quý trọng" [44, tr.164].
Tác giả Phạm Minh Hạc, trong cuốn Giá trị học, Cơ sở lý luận góp phần
đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay [55] đã phân tích
làm rõ các khái niệm cơ bản về “giá trị”, “hệ giá trị”, “thang giá trị”, “thước đo
giá trị”. Ông nêu lên hệ thống giá trị của con người bao gồm: Giá trị chung của
loài người (tính người, tình người, các giá trị chân, thiện, mỹ); các giá trị toàn
8
cầu (hòa bình, an ninh, hữu nghị, hợp tác, không xâm phạm chủ quyền, độc
lập dân tộc); các giá trị dân tộc (tinh thần dân tộc, lấy các giá trị bản sắc dân
tộc làm chuẩn mực (yêu nước, trách nhiệm cộng đồng); các giá trị gia đình
(hòa thuận, hiếu thảo, coi trọng giáo dục gia đình); giá trị bản thân (giá trị
nhân cách, giá trị cá nhân). Theo ông, các giá trị chân, thiện, mỹ; giá trị sống
còn; giá trị lao động; giá trị gia đình là những giá trị chung của nhân loại.
Trong bài mục thứ sáu với tiêu đề Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - Tư
tưởng chỉ đạo nghiên cứu giá trị, tác giả đã đề xuất nội dung cơ bản chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh, bao gồm: Yêu thương vô hạn con người, nhất là
người bị áp bức, nghèo khổ; tôn trọng con người; giải phóng con người khỏi
áp bức, nô lệ, nghèo khổ, lầm than; khoan dung; sử dụng đúng từng người…
từ đó tác giả khẳng định: "Chủ nghĩa nhân văn và nhân cách Hồ Chí Minh là
một xuất phát điểm đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của chúng ta" [55,
tr.71]. Trong bài mục thứ hai mươi ba và thứ hai mươi tư, tác giả đã chỉ ra
những biến động phức tạp một số giá trị ở Việt Nam; đồng thời đề xuất một số
nguyên tắc và phương án nhằm đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong cuốn Về giá trị và giá trị châu Á [128], Hồ Sĩ Quý đã phân tích
những quan niệm cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống, cắt nghĩa tại sao giá
trị lại có vai trò đặc biệt đối với đời sống con người? Ông cho rằng, thế giới
các giá trị, về thực chất chính là toàn bộ thế giới bên trong và bên ngoài con
người được định hình trong tư duy và tình cảm của con người. Do tồn tại với
tư cách là khuôn thước của sự đánh giá, là một biểu hiện đặc trưng cho quan
hệ giữa chủ thể với khách thể trong đời sống xã hội. Theo ông, truyền thống,
ngoài những giá trị cơ bản, còn có những giá trị gián tiếp và phái sinh khác,
bởi vậy, “hầu hết mọi hiện tượng truyền thống trong xã hội thường là có giá
trị không giống nhau, thậm chí nước đôi (tính hai mặt) đối với từng cộng đồng
người” [128, tr.56]. Theo ông, hệ giá trị ưu trội của người Đông Á nói chung,
9
người Việt Nam nói riêng “có thể gồm nhiều giá trị cụ thể khác nhau, song
đứng hàng đầu trong hầu hết các bảng phân loại bao giờ cũng là bốn giá trị
hiếu học, cộng đồng, cần cù và huyết tộc” [128, tr.210]. Trong chương VI của
cuốn sách này, tác giả tập trung phân tích những tác động tích cực và tiêu cực
của toàn cầu hóa đến sự biến động giá trị ở Việt Nam. Thông qua kết quả
khảo sát và lấy từ các nguồn tư liệu khác nhau, tác giả khẳng định trong toàn
cầu hóa, một số giá trị có sự biến động, trong đó có các giá trị: "hiếu học",
“cần cù”, "cộng đồng, gia đình".
Cuốn Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường
tới tương lai [146] do Trần Ngọc Thêm chủ biên là sản phẩm của đề tài khoa
học cấp Nhà nước KX.04.15/11-15 "Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" thuộc Chương trình KX.04/1115 "Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-2015". Trong đó, đã
xây dựng khung lý luận về giá trị và hệ giá trị (bao gồm các khái niệm công
cụ; các quy luật, đặc tính; phương pháp luận và các phương pháp cụ thể…)
làm cơ sở cho việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ mới. Xác lập
một hệ giá trị Việt Nam truyền thống với 23 giá trị, được tập hợp theo 05 đặc
trưng cơ bản; giải thích nguồn gốc hình thành của các đặc trưng và các giá trị
mà mỗi đặc trưng chi phối. Các học giả đã tập trung nghiên cứu sự biến động
của hệ giá trị Việt Nam truyền thống trong giai đoạn hiện đại, trong đó chỉ ra
những giá trị được bảo tồn, những giá trị đang mất đi, những thói hư tật xấu
(phi giá trị) đang phát sinh và những giá trị cần phát triển. Trên cơ sở đó, đề
xuất mô hình hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm gồm 10 giá trị: 2 giá trị
xã hội phổ biến (dân chủ và pháp quyền); 2 giá trị con người truyền thống
điển hình (yêu nước và nhân ái); 2 giá trị con người thời kỳ hội nhập (trung
thực và bản lĩnh); 2 giá trị con người trong quan hệ với đồng loại (trách nhiệm
và hợp tác); 2 giá trị con người thời kỳ công nghiệp và kinh tế tri thức (tính
khoa học và sáng tạo). Để hiện thực hóa được hệ giá trị định hướng cốt lõi
10
trọng điểm này, tác giả đã phác thảo 5 nhóm giải pháp cơ bản: nhóm giải pháp
về thể chế; nhóm giải pháp về tổ chức; nhóm giải pháp giáo dục - tuyên
truyền; nhóm giải pháp hành động; nhóm giải pháp phát triển.
Trong cuốn Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện
tại [145], do Trần Ngọc Thêm chủ biên đã tập hợp khá nhiều bài viết của các
nhà khoa học. Trong đó đáng lưu ý là bài viết của tác giả Lương Đình Hải với
tiêu đề “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế: góp thêm vài ý kiến nhỏ”. Theo tác giả, hệ giá trị của
một dân tộc hay một cộng đồng được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài,
được sàng lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau. Hệ giá trị được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ
khác sẽ trở thành tài sản, là thước đo, “khuôn mẫu” để mỗi cá nhân và cả xã
hội định hướng cho các hành vi hoạt động của mình. Trên cơ sở nghiên cứu,
khảo sát riêng, tác giả nêu lên bảng giá trị Việt Nam cần xây dựng trong giai
đoạn hiện nay đó là: 1) Tinh thần yêu nước; 2) Tinh thần nhân ái; 3) Anh
hùng, dũng cảm; 4) Biết chấp nhận (nhẫn), tiếp thu; 5) Hiếu học; 6) Sáng tạo;
7) Cần cù; 8) Lạc quan; 9) Trọng đạo lý; 10) Ưa ổn định. Tác giả khẳng định
“Dù đang có những biến động nhưng các giá trị này không thể biến mất mà
đang được tiếp tục củng cố, có những hình thức biểu hiện mới với những mức
độ khác nhau” [145, tr.244]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả Nguyễn Hữu
Nguyên với bài viết với tiêu đề “Phác thảo hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại” đã phác thảo những giá trị Việt Nam hiện đại bao gồm: 1) Ý chí
bền bỉ, chịu khó và vượt khó; 2) Ý chí bất khuất, tự cường dân tộc; 3) Tài
năng quân sự, dũng cảm; 4) Lạc quan và hài hước; 5) Dung hợp các giá trị
văn hóa; 6) Khéo léo, năng động, sáng tạo; 7) Đoàn kết và tính thực tế.
Bàn về vấn đề phát triển giá trị cho con người Việt Nam, trong cuốn
Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập [56],
đồng tác giả Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên, ngoài việc nêu lên một số
11
khái niệm cơ bản về “giá trị”, “thang giá trị”, “thước đo giá trị”, “định hướng
giá trị” đã nêu lên những cơ sở lý luận xây dựng bộ công cụ điều tra; nêu lên
một số yêu cầu về hệ giá trị trong thời kinh tế thị trường; dự báo xu hướng
biến đổi định hướng giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tác giả cho rằng, con người Việt Nam hiện nay đang hình
thành định hướng giá trị mới. Vì vậy, phải “tổ chức, điều khiển sao cho việc
điều chỉnh hệ thống định hướng giá trị cũ có thể thay bằng một hệ thống định
hướng giá trị mới, diễn ra một cách thận trọng, tuần tự, bảo đảm sự an tâm, ổn
định trong từng con người, từng gia đình và toàn xã hội” [56, tr.59]. Cũng ở
cách tiếp cận này, đồng tác giả Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Thạc - Mạc Văn
Thăng, trong cuốn Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị
[166] đã phân tích một số vấn đề lý luận về giá trị, định hướng giá trị và quá
trình hình thành giá trị. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả nêu lên một số giá trị
như: tự do, hòa bình, sức khỏe, việc làm… và định hướng giá trị nhân cách
như: sống có tình nghĩa; sáng tạo trong học tập, lao động, công tác; có ý thức
và hành vi sẵn sàng bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.
Ngoài các sách đã nêu ở trên, còn có một số bài báo khoa học đăng trên
tạp chí Triết học, Xã hội học, Khoa học xã hội Việt Nam… đã tập trung phân tích
những tác động của toàn cầu hóa đến sự biến đổi của văn hóa, con người Việt
Nam. Trong đó, đáng lưu ý có bài viết của Hồ Sĩ Quý, Động thái của một số giá
trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa [127], trong đó, tác giả khẳng định
toàn cầu hóa với bộ mặt phức tạp của nó đang làm cho hệ thống các giá trị thay
đổi đáng mừng và cũng đang lo; đồng thời, tác giả chỉ ra những biến động của
một số giá trị truyền thống ở Việt Nam như: giá trị “Hiếu học, đề cao giáo dục”,
“cần cù, yêu lao động”, giá trị “cộng đồng, gia đình”. Ở góc nhìn khác, Nguyễn
Đình Tường, trong bài Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt
Nam dưới tác động của toàn cầu hóa [162] cũng cho rằng, toàn cầu hóa không
chỉ mang lại thời cơ lớn, mà còn tạo ra những thách
12
thức không nhỏ đối với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát
triển. Đối với Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa đang tác động tích cực lẫn tiêu
cực đến giá trị truyền thống của con người; đặt ra vấn đề làm thế nào để vừa
có thể tiếp thu các giá trị của thời đại, vừa có thể giữ được bản sắc dân tộc
vốn có, để không bị nhấn chìm vào các nền văn hóa khác. Trên cơ sở đó, tác
giả nêu lên một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống dân
tộc Việt Nam bao gồm: Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền
thống cách mạng của dân tộc cho thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống phải luôn gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật; xác lập
bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, trong bài viết Toàn cầu hóa và nguy
cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay [68] cho rằng,
toàn cầu hóa bên cạnh mặt tích cực là đã góp phần làm biến đổi con người
Việt Nam, từ lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn có sang lối
sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế
thời đại; mặt khác, làm xuất hiện lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ,
thực dụng, đua đòi, ăn chơi, lãng phí, trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực…
làm suy thoái nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Về vấn
đề này, Mai Thị Quý, trong bài viết Tác động của toàn cầu hóa đến truyền
thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam [129] cho rằng, toàn cầu hóa
kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo chiều
hướng vừa tích cực, vừa tiêu cực: một mặt, toàn cầu hóa tạo điều kiện phát
huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân; mặt khác, toàn cầu
hóa cũng đem đến nguy cơ xem nhẹ, hay chí ít là chưa phát huy đúng mức
truyền thống cần cù của dân tộc. Tác giả Võ Văn Thắng trong bài viết Nhân ái
- một giá trị văn hóa truyền thống cần kế thừa và phát huy trong việc xây
dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay [140] cho rằng, lòng nhân ái là một giá trị
của dân tộc ta, góp phần tạo nên một nét độc đáo trong chủ nghĩa nhân văn
13
truyền thống Việt Nam… Hiện nay, tinh thần nhân ái vẫn được nhân dân ta kế
thừa, phát huy và nâng lên một tầm cao mới; lòng nhân ái không chỉ bó hẹp
trong phạm vi quốc gia mà đã vượt ra ngoài biên giới, đến với các nước trong
khu vực và quốc tế. Tác giả Trương Hoài Phương, trong bài Giữ gìn và phát
huy giá trị truyền thống của con người Việt Nam - Một yêu cầu tất yếu khách
quan trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [123] nêu ra những biện
pháp để giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống của con người Việt Nam đó là:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhân thức về các giá trị truyền
thống của con người Việt Nam; quan tâm, tạo lập môi trường xã hội lành
mạnh, đấu tranh chống nguy cơ xói mòn các giá trị truyền thống của con
người Việt Nam; tích cực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhằm đổi mới
và nâng cao các giá trị truyền thống của con người Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dưới góc độ triết học, tác giả Trần Sĩ Phán, trong bài viết Xung đột hệ
giá trị tinh thần và xây dựng giá trị của con người Việt Nam [118], đã phân
tích sự xung đột hệ giá trị tinh thần, đó là những tình huống hoặc quá trình xã
hội trong đó tồn tại các mâu thuẫn, những khác biệt giữa hai bên (cá nhân với
cá nhân, cá nhân với xã hội hay giữa các nhóm xã hội với xã hội nói chung)
trong nhận thức, trong quan niệm về sự sắp xếp thứ bậc, lựa chọn các giá trị
tinh thần. Theo tác giả, “nguyên nhân của xung đột chủ yếu do những khác
biệt, thiếu thống nhất trong nhận thức về các giá trị; thiếu tương ứng, tương
dung, sự cách biệt giữa sự mong đợi, kỳ vọng của cá nhân, của nhóm người
với giới hạn bởi những yếu tố và khả năng đáp ứng sự kỳ vọng đó của xã hội”
[118, tr.21-22]. Để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam hiện nay, tác
giả đề xuất một số giải pháp: Coi trọng tổng kết thực tiễn, xây dựng lý luận
giá trị con người Việt Nam, nhằm góp phần nâng tầm tư duy của chúng ta
trong việc giải quyết các vấn đề xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững; tạo sự thống nhất, đồng thuận
14
trong nhận thức, trong việc lựa chọn các giá trị… truyền bá hệ giá trị đó vào
trong xã hội thông qua nhiều con đường, nhiều phương thức khác nhau, trong
đó các phương tiện truyền thông đại chúng giữ một vai trò hết sức quan trọng;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người Việt Nam; khắc phục
tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ, truyền thống lạc hậu.
Trước những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
kinh tế thị trường đến giá trị của con người Việt Nam, một số học giả đã
nghiên cứu, đề xuất những định hướng và giải pháp xây dựng, phát triển giá
trị của con người Việt Nam. Trong đó, đáng lưu ý là bài viết của Đỗ Huy và
Nguyễn Thu Nghĩa, với tiêu đề Bảng giá trị của văn hóa Việt Nam trong hành
trình chuyển từ truyền thống sang hiện đại [66] đã nêu lên một số giá trị
truyền thống tiêu biểu của người Việt Nam như: yêu nước; đoàn kết; nhân ái;
tiết kiệm; ham học; biết ơn tổ tiên và những người có công với nước. Theo tác
giả, để phát huy những giá trị đó cần thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa cá
nhân và cộng đồng, giữa dân tộc và quốc tế; kiến tạo những năng lượng dân
chủ mới, ý thức pháp luật mới; huy động đông đảo nhân dân tham gia các quá
trình xã hội hóa, hoạt động văn hóa lành mạnh thống nhất và đa dạng; điều
hòa quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế…; làm cho các quá trình hiện đại
hóa khắc phục được sự tha hóa thái quá trên con người.
Tác giả Lê Vân Anh, trong bài viết Vấn đề giáo dục định hướng giá trị
trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO [4] cho rằng, định hướng giá trị là một
trong những biến đổi rõ nét của đặc trưng, xu hướng nhân cách và có ý nghĩa
hướng dẫn hoạt động của con người. Định hướng giá trị mang đậm tính lịch sử xã hội chung của cả cộng đồng, nét riêng của từng dân tộc, nét đặc thù của các
nhóm xã hội, “giá trị, thước đo giá trị hay định hướng giá trị, có ý nghĩa khác
nhau với từng người, nhóm người, giai cấp, dân tộc. Đối với người này nó có ý
nghĩa tích cực, nhưng đối với chủ thể khác nó có ý nghĩa ngược lại” [4, tr.8].
Cùng với cách tiếp cận đó, đồng tác giả Thái Duy Tuyên và Phan
15
Minh Tiến, trong bài viết Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho rằng các giá trị cốt lõi đã được hình thành qua
quá trình lịch sử, cho đến nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong bảng giá
trị của người Việt Nam đó là: yêu nước; nhân ái; hiếu học; cần kiệm; năng
động, sáng tạo; dũng cảm; tự chủ, tự cường; mềm dẻo; cởi mở, lạc quan…
Những giá trị tiêu biểu đó là những thế mạnh của Việt Nam trong điều kiện
hiện tại. Theo các tác giả, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở
đầu cho công cuộc đổi mới với việc xác nhận các giá trị như: Chuyển nền
kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; thi hành chính sách mở cửa. Từ
ba giá trị cơ bản này đã tạo ra nhiều giá trị dẫn xuất, làm thay đổi hệ giá trị xã
hội cũng như định hướng giá trị cho con người Việt Nam. Tác giả cho rằng
“để chuyển từ một hệ giá trị này sang một hệ giá trị khác của một cộng đồng
thường là một quá trình không giản đơn và diễn ra trong một thời gian dài. Vì
vậy, cần hình thành hệ giá trị quá độ, nhằm đảm bảo sự phát triển cân bằng,
ổn định và bền vững của xã hội” [164, tr.23].
Bàn về giáo dục, định hướng giá trị cho con người Việt Nam có khá
nhiều bài viết. Đáng lưu ý là bài viết của tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến, Giáo
dục nhân cách con người Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa [154] đã chỉ rõ
nhân cách con người hình thành phụ thuộc vào ba môi trường văn hóa quan
trọng: văn hóa học đường, văn hóa gia đình và văn hóa xã hội. Theo tác giả,
nếu các chuẩn mực giá trị tạo nên văn hóa nhà trường không được xây dựng
và phát triển một cách có ý thức thì mặt tiêu cực sẽ có chiều hướng lấn át mặt
tích cực, mà kết quả cuối cùng là chất lượng dạy và học không đảm bảo; văn
hóa gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách đứa trẻ. Thiếu văn hóa gia đình, đứa trẻ sẽ rơi vào trạng thái mất đi
16
những liên kết tình cảm với gia đình và cộng đồng. Văn hóa xã hội tích cực
hay tiêu cực sẽ tác động trở lại với văn hóa gia đình và văn hóa nhà trường.
Hướng vào đối tượng cụ thể trong xã hội là thế hệ trẻ, tác giả Trần Viết
Lưu trong bài viết Giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ [82] cho rằng, giá
trị truyền thống có vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của quốc gia. Tác giả chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt giá trị truyền
thống trong thế hệ trẻ là do: Ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường đã
khiến cho đời sống xã hội ngày càng nảy sinh nhiều hiện tượng phi đạo đức; sự
lạc hậu về chương trình và phương pháp giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức
công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân; một số bộ phận thế hệ trẻ không
chịu tu dưỡng rèn luyện, sa ngã trước những cám dỗ vật chất và thị hiếu tầm
thường. Tác giả nêu lên định hướng giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ,
trong đó nêu lên những yêu cầu cần đạt được và một số giải pháp chủ yếu trong
giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ. Tác giả Nguyễn Văn Công và Lê Phạm Phương
Lan, trong bài viết Định hướng giá trị đạo đức cách mạng
- giữ vững nền tảng nhân cách của thanh niên trong giai đoạn hiện nay [22]
cho rằng, xu hướng chung của thanh niên Việt Nam hiện nay là không ngừng
tu dưỡng đạo đức, lối sống, nỗ lực vươn lên trong học tập và rèn luyện… Bên
cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ có biểu hiện phẩm chất đạo đức, lý
tưởng cách mạng và niềm tin đang bị suy giảm; sống thiếu trách nhiệm với
bản thân, gia đình và xã hội; sự lệch lạc trong nhận thức về giá trị và định
hướng giá trị.
Những công trình nghiên cứu, bài viết trên đây đã cung cấp cho tác giả cơ
sở lý thuyết về giá trị học, giúp tác giả hiểu rõ hơn các khái niệm công cụ có liên
quan như: “giá trị”, “hệ giá trị”, “thang giá trị” “thước đo giá trị” “định hướng
giá trị”; về cách tiếp cận vấn đề giá trị của con người nói chung, người Việt Nam
nói riêng; về những giá trị phổ quát và giá trị đặc thù của mỗi quốc gia dân tộc,
trong đó có giá trị tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Việt Nam như: yêu nước, đoàn
kết, nhân ái, cần cù, sáng tạo... Các công trình trên đây
17
đã giúp tác giả có cái nhìn tổng quát về sự tác động của toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và kinh tế thị trường đến sự vận động, biến đổi những giá trị
truyền thống của con người Việt Nam theo cả hai xu hướng tích cực lẫn tiêu
cực; nêu lên định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển hệ giá trị
của con người Việt Nam trong bối cảnh mới hiện nay. Đây là nguồn tư liệu
quý báu để tác giả có thể vận dụng vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra ở
trong luận án này.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
Vấn đề con người, xây dựng, phát triển hệ giá trị của con người Việt
Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các
đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học ở trong và ngoài
nước. Tiêu biểu có Thủ tướng Phạm Văn Đồng với cuốn Hồ Chí Minh và con
người Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 1994 [41]. Trong cuốn sách, tác giả phân tích, luận giải
con người Việt Nam trong lịch sử Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp như:
kiên cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, coi trọng đạo đức làm người, cần
cù nhẫn nại trong lao động, tương trợ nhân ái trong đời sống, khoan dung độ
lượng trong quan hệ xã hội, linh hoạt trong phong cách ứng xử, quý trọng ý
thức cộng đồng. Từ đó, tác giả đề cập vấn đề Hồ Chí Minh và con người Việt
Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, trong đó khẳng định người làm
chủ sự nghiệp dân giàu, nước mạnh là quần chúng nhân dân. Con người phải
được thực hiện các quyền con người, quyền công dân trên các phương diện:
dân sinh, dân trí và dân chủ. Khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Đồng tác giả Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm trong cuốn Về phát
triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
[50] đã phân tích những nội dung cơ bản về: Đường lối giáo dục, phát triển
toàn diện con người; mô hình nhân cách con người Việt Nam có khả
18
năng thích ứng với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là: Con người có
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có khả năng tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao…; có lòng nhân ái, có
ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân; có tư duy sáng tạo và
óc khoa học; có kỹ năng thực hành giỏi, tay nghề cao; có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao; tôn trọng và hợp
tác được với người khác; có sức khỏe, có khả năng tự hoàn thiện không
ngừng, năng động và thích ứng; ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp [50,
tr.203].
Các tác giả nêu lên những định hướng chiến lược xây dựng đạo đức con
người Việt Nam; định hướng chiến lược phát triển trí tuệ con người Việt Nam;
định hướng chiến lược phát triển thể chất con người Việt Nam; định hướng
chiến lược phát triển thẩm mỹ đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Phân tích vấn đề
xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và
các giải pháp về thể chế, xã hội, giáo dục, đầu tư để xây dựng lối sống, đạo
đức và chuẩn giá trị xã hội mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các tác giả tập trung phân tích thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
của thanh niên hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất 6 giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lý tưởng chính trị, lối sống cho thế hệ trẻ, đó
là: Tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng
chính trị, lối sống cho thế hệ trẻ; thống nhất mục tiêu, nội dung giáo dục đạo
đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh viên; đổi mới
nội dung, phương pháp dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn, đổi mới
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; xây dựng môi trường lành mạnh để giáo
dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh viên;
19
đổi mới đầu tư và những điều kiện cho các hoạt động giáo dục đạo đức, tư
tưởng chính trị, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Cũng với cách tiếp cận trên, trong cuốn Về phát triển văn hóa và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [42], Nguyễn Khoa
Điềm và Phan Hữu Dật nêu lên những định hướng xây dựng, phát triển con
người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những
phương pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống nhằm phát triển văn
hóa, con người Việt Nam phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; đồng thời, đề xuất 5 kiến nghị đó là: 1) Mục tiêu đưa tư tưởng
Hồ Chí Minh vào cuộc sống là xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, phải gắn kết nội dung của tư tưởng Hồ
Chí Minh với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng
dưới sự lãnh đạo của Đảng; 2) Đẩy mạnh và mở rộng phạm vi nghiên cứu
(cuộc đời của Người cùng tư tưởng chính trị, triết học, tư tưởng kinh tế, tư
tưởng về con người…), đồng thời đổi mới phương pháp nghiên cứu (cách tiếp
cận đa chiều, đặt vĩ nhân trong điều kiện lịch sử cụ thể, trong mối quan hệ với
bối cảnh thời đại, quốc gia, quốc tế…); 3) Đẩy nhanh hơn nữa việc giáo dục,
giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh một cách căn bản, chính quy trong các nhà
trường, đối với thanh niên; 4) Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền để đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống; chú trọng địa bàn đồng bào dân tộc và đồng bào vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo; 5) Đảng lãnh đạo tuyệt đối hệ thống chính trị và toàn xã
hội trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống. Phải coi việc
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin là
nhiệm vụ chính trị hàng đầu, có tính nguyên tắc đối với toàn Đảng và chính
quyền các cấp.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện [28] của Thành Duy, tuy chưa phải là một công
20
trình phản ánh thật đầy đủ và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
thể hiện trên nhiều mặt, song tác giả đã phân tích khá sâu sắc về mối quan hệ
giữa văn hóa với việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, phù
hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về quá
trình hình thành con người Việt Nam phát triển toàn diện; bản chất con người
Việt Nam phát triển toàn diện, trong đó luận giải làm sáng tỏ nội hàm khái
niệm "con người mới xã hội chủ nghĩa" với đầy đủ phẩm chất "đức" và "tài";
nêu lên những giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện,
trong đó nhấn mạnh quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược "trồng người"
gắn với vai trò của giáo dục đào tạo; xác định rõ đối tượng và nội dung xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; nêu lên phương pháp xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh đến phương
pháp nêu gương.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người [5], Phạm Ngọc
Anh đã phân tích bối cảnh lịch sử, quá trình hình thành, phát triển và những
đặc điểm nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người; nội dung cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Trong đó, có quyền dân sự chính trị; quyền kinh tế, văn hóa, xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền của phụ nữ; quyền của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam; quyền của trẻ em, vấn đề bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và các
điều kiện bảo đảm thực hiện quyền con người. Trên cơ sở đó, tác giả vận
dụng vào thực tiễn, bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người ở
nước ta hiện nay.
Cuốn Phát triển văn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của đồng tác giả: Hoàng Anh, Nguyễn Huy Bắc, Phạm Văn Thủy [2] đã
tập hợp bài viết của các nhà khoa học về phát triển văn hóa và con người Việt
Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh của
Người. Trong đó, các nhà khoa học cho rằng, con người là vấn đề