Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Khai thác chi tiết nghệ thuật trong dạy học truyện ngắn 1945 1954 (chương trình ngữ văn lớp 12)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ KIM LUYÊN

KHAI THÁC CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
TRONG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN 1945-1954
(CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ KIM LUYÊN

KHAI THÁC CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
TRONG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN 1945-1954
(CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 8140111

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Hải Anh

HÀ NỘI 2017




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của
các Thầy Cô giáo, bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các
Thầy giáo, Cô giáo Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt
tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS. Lê Hải
Anh – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thiện luận
văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới BGH, các thầy cô giáo trường THPT Nguyễn Bỉnh –
TP Hải Dương đã nhiệt tình giúp đỡ và đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn
thành đúng tiến độ.
Mặc dù đã rất cố gắng, nỗ lực nhưng do điều kiện thời gian, khả năng nghiên
cứu khoa học còn hạn chế, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót.
Xin kính mong nhận được những ý kiến đóng góp, chia sẻ của quý Thầy Cô và bạn
bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả

Bùi Thị Kim Luyên

i


MỤC LỤC
Lời cảm ơn.........................................................................................................

i


Danh mục các chữ viết tắt..................................................................................

v

Danh mục các bảng, biểu đồ..............................................................................

vi

MỞ ĐẦU...........................................................................................................

1

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.......................................

9

1.1. Truyện ngắn và chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn...............................

9

1.1.1. Truyện ngắn ............................................................................................

9

1.1.2. Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954..........................................

14

1.1.3. Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn......................................................


16

1.2. Dạy học đọc hiểu truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ
thông theo định hướng phát triển năng lực........................................................

22

1.2.1. Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng
lực học sinh........................................................................................................

23

1.2.2. Dạy học đọc hiểu truyện ngắn theo định hướng phát triển năng
lực.......................................................................................................................

25

1.3. Thực trạng dạy học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954 trong
nhà trường THPT hiện nay................................................................................

26

1.3.1. Vị trí của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954 trong chương
trình Ngữ văn lớp 12 THPT...............................................................................

26

1.3.2. Yêu cầu cần đạt khi dạy học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 19451954 trong nhà trường THPT hiện hành............................................................


28

1.3.3. Phương pháp dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài,
“Vợ nhặt” của Kim Lân trong nhà trường THPT hiện hành.............................

30

1.3.4. Nhận xét về thực trạng dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài, “Vợ nhặt” của Kim Lân trong nhà trường THPT hiện hành...................

37

Kết luận Chương 1.............................................................................................

38

CHƢƠNG 2. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC HIỂU

ii


TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945-1954 THEO HƢỚNG
KHAI THÁC CHI TIẾT NGHỆ THUẬT.....................................................

40

2.1. Xác định mục tiêu dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn
1945-1954 theo theo định hướng phát triển năng lực........................................

40


2.1.1. Mục tiêu chung của dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn
1945-1954................................................................................................,.........

40

2.1.2. Mục tiêu dạy học đọc hiểu truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài....................................................................................................................

40

2.1.3. Mục tiêu dạy học đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân...........

41

2.2. Hướng dẫn HS sử dụng các chiến thuật đọc hiểu trong khai thác chi tiết
nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954.............................

42

2.2.1. Các chiến thuật đọc khai thác chi tiết nghệ thuật để tìm hiểu cốt
truyện.................................................................................................................

42

2.2.2.Các chiến thuật đọc khai thác chi tiết nghệ thuật để tìm hiểu tình huống
truyện...................................................................................................................

44


2.2.3. Các chiến thuật đọc khai thác chi tiết nghệ thuật để tìm hiểu hình
tượng nhân vật....................................................................................................

48

2.3. Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực để tổ chức các hoạt động
hướng dẫn HS khai thác chi tiết nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn 1945-1954..................................................................................................

58

2.3.1. Kĩ thuật đặt câu hỏi..................................................................................

58

2.3.2. Kĩ thuật khăn trải bàn...............................................................................

61

2.3.3. Kĩ thuật động não.....................................................................................

64

2.3.4. Kĩ thuật tia chớp.......................................................................................

66

2.3.5. Kĩ thuật trình bày 1 phút..........................................................................

66


2.4. Xây dựng câu hỏi, bài tập đánh giá khả năng khai thác chi tiết nghệ thuật
trong đọc hiểu truyện ngắn 1945 – 1954 của HS...............................................

68

2.4.1. Mục đích, mức độ và các loại câu hỏi, bài tập.........................................

68

2.4.2. Một số câu hỏi, bài tập đánh giá khả năng khai thác chi tiết nghệ thuật
trong đọc hiểu truyện ngắn 1945-1954..............................................................

68

Kết luận Chương 2.............................................................................................

73

iii


CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN 1945 - 1954
(CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12) THEO HƢỚNG KHAI THÁC
CHI TIẾT NGHỆ THUẬT..............................................................................

74

3.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm ...........................................................


74

3.2. Thời gian, đối tượng, địa bàn thực nghiệm ................................................

74

3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm.....................................................................

74

3.3.1. Thiết kế giáo án dạy học đọc hiểu truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của
Tô Hoài..............................................................................................................

74

3.3.2. Thuyết minh giáo án thực nghiệm...........................................................

104

3.5. Thực nghiệm sư phạm................................................................................

105

3.5.1. Tổ chức thực nghiệm...............................................................................

105

3.5.2. Kết quả thực nghiệm................................................................................. 106
3.5.3. Đánh giá thực nghiệm.............................................................................


108

Kết luận Chương 3.............................................................................................

110

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................................

111

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................

113

PHỤ LỤC................................................................................................

117

iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1


ĐC

Đối chứng

2

ĐHGD

Đại học Giáo dục

3

ĐHSP

Đại học sư phạm

4

GS. TS

Giáo sư-Tiến sĩ

5

GV

Giáo viên

6


GDPT

Giáo dục phổ thông

7

HS

Học sinh

8

LATS

Luận án Tiến sĩ

9

LVThS

Luận văn Thạc sĩ

10

Nxb

Nhà xuất bản

11


PGS

Phó giáo sư

12

SGV

Sách giáo khoa

13

SGK

Sách giáo viên

14

THPT

Trung học phổ thông

15

TN

Thực nghiệm

v



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH

Bảng 3.1. Bảng thống kê chi tiết kết quả Bài kiểm tra lần 1: 15 phút.......

108

Bảng 3.2.Bảng thống kê kết quả kiểm tra lần 1 theo các phổ điểm..........

109

Bảng 3.3. Bảng thống kê chi tiết kết quả Bài kiểm tra lần 2: Kiểm tra
định kì 90 phút..............................................................................................

109

Bảng 3.4: Bảng thống kê kết quả kiểm tra lần 2 theo các phổ điểm..........

109

Bảng 3.5: Bảng đối chiếu giá trị điểm trung bình hai lần kiểm tra giữa lớp
ĐC và lớp TN...............................................................................................

111

Hình 3.1: Biểu đồ so sánh giá trị điểm trung bình hai lần kiểm tra sau
thực nghiệm đối với lớp ĐC và lớp TN........................................................

vi


112


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 (khóa XI), ngành
Giáo dục và Đào tạo nước ta đang tiếp tục thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và
toàn diện từ nội dung chương trình, đến phương pháp dạy học, kiểm tra đánh
giá.Mục tiêu của quá trình dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh; tổ chức có hiệu quả các hoạt động dạy học, qua đó hình thành và phát
triển tốt những phẩm chất, năng lực cốt yếu cho người học. Đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng đối với ngành
giáo dục nói chung và việc dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông
nói riêng.
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay, tính công cụ của bộ môn
Ngữ văn đang được đề cao. Dạy học Ngữ văn không chỉ nhằm bồi dưỡng thế giới
tâm hồn, tình cảm, phát triển phẩm chất, nhân cách cho người học; mà dạy học Ngữ
văn còn trang bị cho người học những năng lực cơ bản, giúp học sinh có kĩ năng
thực hành tốt những kiến thức cơ bản trong học tập và trong cuộc sống. Để đáp ứng
được mục tiêu này đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo định
hướng phát triển năng lực học sinh; thông qua môn học giáo viên hình thành và phát
triển cho học sinh những năng lực chung như: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân. Dạy học bộ môn Ngữ
văngiúp HS phát triển các năng lực chuyên biệt như: Năng lực giao tiếp tiếng Việt,
năng lực đọc hiểu, năng lực cảm thụ thẩm mĩ; nhằm tăng cường khả năng giao tiếp,
khả năng hợp tác, khả năng đọc hiểu của học sinh qua các hoạt động thực hành,
luyện tập, trao đổi, thảo luận... để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
1.2. Trong đổi mới dạy học môn Ngữ văn thì việc đổi mới phương pháp dạy
học đọc hiểu văn bản, trong đó có dạy học đọc hiểu truyện ngắn theo định hướng
phát triển năng lực HS đang rất được chú trọng. Dạy học đọc hiểu văn bản không

đơn giản là quá trình GV cho học sinh đọc văn bản, GV bình giảng, phân tích để
học sinh hiểu văn bản theo kiểu giảng văn truyền thống. Dạy học đọc hiểu văn bản
là quá trình trang bị cho HS kĩ năng đọc, tiếp cận, khám phá những giá trị nội dung,
ý nghĩa và nghệ thuật của văn bản; từ đó hình thành cho HS năng lực tự đọc hiểu.

1


Dạy học đọc hiểu cho HS là quá trình hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi
gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy sáng tạo trong học văn nói riêng và trong học
tập, trong cuộc sống nói chung.
Dạy học đọc hiểu văn bản tự sự nói chung, dạy học truyện ngắn nói riêng
nhất thiết phải chú ý hướng dẫn HS khai thác chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật
được coi là tín hiệu thẩm mĩ, được ví như “nhãn tự” trong mỗi tác phẩm. Chi tiết
nghệ thuật có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng cốt truyện, tình huống truyện
và xây dựng hình tượng nhân vật; từ đó thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm,
phong cách nghệ thuật của nhà văn. Khi dạy học đọc hiểu truyện ngắn, GV cần thiết
kế, tổ chức các hoạt động để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong
việc tìm hiểu, khai thác các chi tiết nghệ thuật; từ đó HS tiếp nhận được giá trị, ý
nghĩa, tư tưởng, chủ đề truyện. Hoạt động đọc hiểu cần được thực hiện theotrình
tựtừ dễ đến khó, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Hình thành cho HS năng lực đọc
hiểutruyện ngắn sẽ giúp các em có khả năng đọc hiểu một truyện ngắn bất kì trong
hoặc ngoài chương trình học tập.
1.3. Qua khảo sát thực trạng dạy học đọc hiểu truyện ngắn 1945-1954; căn
cứ vào yêu cầu đọc hiểu truyện ngắn 1945-1954 trong chương trình môn Ngữ văn
THPT, trong SGV, SGK...; chúng tôi có thể khẳng định rằng hiện nay việc dạy học
đọc hiểu văn bản tự sự nói chung và dạy học đọc hiểu truyện ngắn 1945-1954 nói
riêng vẫn chưa chú trọng việc khai thác chi tiết nghệ thuật; thiết kế bài dạy mới
dừng lại ở việc tìm hiểu truyện theo diễn biến sự việc, hệ thống chi tiết truyện
nhưng chưa khai thác được hết ý nghĩa, giá trị của các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu

trong truyện, chưa làm nổi bật đặc trưng văn bản tự sự và phong cách nghệ thuật
của nhà văn.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Khai thác chi tiết nghệ thuật
trong dạy học truyện ngắn 1945-1954” (Chương trình Ngữ văn lớp 12); với mong
muốn khắc phục thực trạng, đưa ra quan điểm, biện pháp khai thác chi tiết nghệ
thuật, đánh giá đúng giá trị, ý nghĩa của các chi tiết nghệ thuật trong quá trình tổ
chức dạy học truyện ngắn nói chung và dạy học hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc

2


hiểu văn bản; phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn và góp phần đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực HS.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu về truyện ngắn 1945-1954
Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954 thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học. Đến nay đã có nhiều tác giả thành công khi nghiên cứu về
mảng truyện này, như Nguyễn Văn Long với giáo trình “Văn học Việt Nam hiện
đại”[34]; Mã Giang Lân với“Văn học Việt Nam 1945-1954”[28]; Nguyễn Thị Bích
Thu với “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975: Nhìn từ góc độ thi pháp thể
loại” [46]... Các tác giả đều khẳng định văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp
1945-1954 “đã bám sát các sự kiện và diễn biến của cuộc kháng chiến, dựng lại
bức tranh nhiều vẻ về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ở mọi miền đất nước”
[34. tr.155]. Truyện ngắn 1945-1954 “mang nhiều chất kí, chất chủ quan, ghi chép,
miêu tả tỉ mỉ; hiện thực kháng chiến được miêu tả ở cả bề rộng và cả những tính
chất phong phú, phức tạp của nó”[28.tr.91]. Riêng Nguyễn Thị Bích Thu đã phác
họa mô hình thi pháp truyện ngắn 1945-1975, tìm hiểu sự vận động và tiếp nối của
thể loại truyện ngắn qua các giai đoạn; góp phần vào việc nhìn lại một số vấn đề nội
dung và nghệ thuật của thể loại truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Nghiên cứu về truyện ngắn của Tô Hoài và Kim Lân, những tác giả tiêu biểu
của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954 được chọn học trong chương trình Ngữ
văn 12 THPT đã có nhiều công trình được công bố như: tác giả Vũ Thị Huyến với
luận văn“Đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài”[24] đã trình bày được một số đặc điểm
cơ bản của truyện ngắn Tô Hoài, trước cách mạng nhà văn chủ yếu viết về loài vật
và đặc biệt thành công với tác phẩm viết cho thiếu nhi như “Dế Mèn phiêu lưu kí”;
sau cách mạng truyện ngắn Tô Hoài gắn bó với đề tài miền núi, về phong tục, về
ngoại thành Hà Nội...với biệt tài miêu tả thiên nhiên, xây dựng nhân vật với những
chi tiết ngoại hình và những nét tâm trạng chân thực, tinh tế.
Vũ Thị Đỗ Quyên trong“Văn hóa làng trong truyện ngắn Kim Lân”[40] tập
trung nghiên cứu hình ảnh làng quê Việt trong truyện ngắn Kim Lân. Đó là không
gian làng Việt cổ truyền với những cảnh vui chơi, những thú chơi truyền thống của
người dân. Là cảnh thiên tai, lũ lụt; là những kiểu nhân vật truyền thống như nhân

3


vật thượng võ, nhân vật nghệ sĩ làng quê... Tất cả những hình ảnh đó đã làm nên nét
đẹp văn hóa cổ truyền của người dân Việt một thời và được ghi dấu trong truyện
ngắn của Kim Lân.
2.2. Nghiên cứu về dạy học đọc hiểu truyện ngắn theo đặc trưng thể loại
Có nhiều công trình nghiên cứu thành công về dạy học đọc hiểu truyện ngắn
theo đặc trưng thể loại. Nghiên cứu về dạy học truyện ngắn giai đoạn 1930-1945
cómột số công trình đã công bố như “Dạy học truyện ngắn “Chí Phèo” từ thi pháp
truyện ngắn Nam Cao” của Hoàng Thị Huế [23]; “Dạy học Hai đứa trẻ lớp 11 theo
đặc trưng thi pháp thể loại truyện ngắn của Thạch Lam” của Nguyễn Anh Dinh
[11]; “Dạy học truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam theo đặc trưng
thể loại” của Vũ Thị Hiền [19]... Các tác giả đều nghiên cứu đặc trưng thi pháp
truyện ngắn của Nam Cao, Thạch Lam và đề xuất giải pháp dạy học truyện “Chí
Phèo” (Nam Cao) và “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) theo đặc trưng thể loại.

Nghiên cứu về dạy học truyện ngắn giai đoạn 1945-1954 theo đặc trưng thể
loại có luận văn “Dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân ở trường THPT theo
đặc trưng thể loại” của Kiều Thị Hà[15]; “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh
tiếp nhận truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài ở trường phổ thông theo đặc
trưng thể loại”của Bùi Thị Lan Hương [26]... Các tác giả nghiên cứu đặc trưng thể
loại truyện ngắn thể hiện qua nội dung cốt truyện, nhân vật, kết cấu; từ đó đề xuất
biện pháp tổ chức dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân) và “Vợ chồng A Phủ”
(Tô Hoài) theo đúng đặc trưng thể loại.
2.3. Những nghiên cứu về dạy học đọc hiểu truyện ngắn 1945-1954 trong
nhà trường THPT
“Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) và “Vợ nhặt” (Kim Lân) là hai truyện ngắn tiêu
biểu của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954 được chọn học trong chương trình
môn Ngữ văn lớp 12. Có thể khẳng định rằng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về việc dạy học hai truyện ngắn này, mỗi công trình nghiên cứu là sự hội tụ của
những tài năng, là kết quả của một quá trình làm việc miệt mài, nghiêm túc của các
tác giả để có những cống hiến khoa học giá trị.
Nghiên cứu về dạy học truyện “Vợ chồng A Phủ” có một số công trình tiêu
biểu như:“Những biện pháp phối hợp giữa kết quả đọc truyện “Vợ chồng A Phủ”

4


của học sinh với tiến trình dạy học đoạn trích” của Nguyễn Thị Loan [33]; “Tích
hợp ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh lớp 12, địa bàn miền núi
qua dạy học tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài” của Quách Đình Lợi [37];
“Vận dụng thi pháp văn xuôi kháng chiến chống Pháp vào dạy học “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài” của Dương Thanh Dương [10]; “Biện pháp tổ chức đối thoại
trong dạy học “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài ở lớp 12” của Bùi Thị Hải Yến
[50]... Trong đó tác giả Nguyễn Thị Loan đã đưa ra biện pháp để phát huy việc đọc
toàn truyện “Vợ chồng A Phủ” với việc dạy học đoạn trích trong sách giáo khoa, để

giúp HS đọc hiểu đoạn trích trong cả mạch nội dung của truyện ngắn. Các tác giả
khác chỉ ra đặc trưng của văn xuôi chống Pháp trong truyện “Vợ chồng A Phủ”, đề
xuất biện pháp tích hợp với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, áp dụng một số
phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực như thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đề,
giải quyết vấn đề...để hướng dẫn học sinh đọc hiểu truyện.
Nghiên cứu về việc dạy học truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng có nhiều
công trình đã công bố như: Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Hà trong “Vận dụng chiến
thuật đọc suy luận trong dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân” [16] đã
thành công trong việc đề xuất biện pháp đọc hiểu truyện bằng việc áp dụng chiến
thuật đọc suy luận của PGS.TS Phạm Thị Thu Hương vào việc dạy học truyện “Vợ
nhặt”. Trần Thị Quỳnh Hoa trong “Xây dựng hệ thống tình huống có vấn đề để phát
huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học tác phẩm “Vợ
nhặt” của Kim Lân” [20] nghiên cứu lý thuyết về tình huống có vấn đề trong dạy
học; đưa ra những khả năng nảy sinh tình huống như trong phân tích, trong cắt
nghĩa, trong bình giá; đề xuất việc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học
truyện “Vợ nhặt” để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Trong phạm vi khảo sát của chúng tôi, còn nhiều công trình nghiên cứu khác
đã công bố như: “Dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân cho học sinh THPT
từ cái nhìn văn hóa” của Nguyễn Thị Thu Thảo [43]; “Xây dựng câu hỏi đối thoại
trong dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân” của Bùi Thị Hòa[21];“Dạy học
đọc hiểu tác phẩm “Vợ nhặt”của Kim Lân từ góc độ trường nghĩa” của Nguyễn
Thị Kim Cúc [9]; “Hướng dẫn học sinh phân tích chất thơ đời sống trong truyện
“Vợ nhặt” của Kim Lân” của Nguyễn Thị Khiêm [27]...các tác giả đã thành công

5


trong việc ứng dụng cách tiếp cận mới, lí thuyết mới như dạy học theo hướng tiếp
cận văn hóa, dạy học theo lý thuyết trường nghĩa; kết hợp với các phương pháp và
kĩ thuật dạy học mới như thảo luận nhóm, dạy học theo dự án... để phát huy tính

tích cực, sáng tạo của học sinh, nhằm đáp ứng mục tiêu đổi mới phương pháp dạy
học môn Ngữ văn.
Tuy nhiên, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tôi khẳng
định chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc khai thác các chi tiết nghệ
thuật trong dạy học đọc hiểu hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) và “Vợ
nhặt” (Kim Lân). Trong những công trình nghiên cứu về dạy học hai truyện ngắn
này chưa có công trình nào đi theo hướng khai thác chi tiết nghệ thuật truyện để tìm
hiểu cốt truyện, tình huống, nhân vật... từ đó làm nổi bật giá trị, ý nghĩa, đặc trưng
nghệ thuật truyện và phong cách của nhà văn; chưa rèn cho HS kĩ năng tự đọc hiểu
truyện ngắn trong và ngoài chương trình SGK.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp dạy học đọc hiểu truyện ngắn 19451954 (Chương trình Ngữ văn 12) theo hướng khai thác chi tiết nghệ thuật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài để xây
dựng cơ sở khoa học của đề tài; tìm hiểu những lý thuyết về thể loại truyện ngắn; lý
thuyết về chi tiết nghệ thuật, ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự,
cách khai thác chi nghệ thuật trong tác phẩm tự sự.
3.2.2. Khảo sát thực tiễn: Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học truyện ngắn
1945-1954 trong nhà trường THPT hiện nay.
3.2.3. Đề xuất các biện pháp dạy học đọc hiểu truyện ngắn 1945-1954
(Chương trình Ngữ văn lớp 12) theo hướng khai thác chi tiết nghệ thuật.
3.2.4. Thiết kế giáo án thực nghiệm và tiến hành thực nghiệm sư phạm để
kiểm chứng tính khả thi của các biện pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Truyện ngắn 1945-1954 (Chương trình Ngữ văn 12)

6



4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ
nhặt” của Kim Lân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khái quát, tổng hợp:
Tìm hiểu và khái quát các tài liệu nghiên cứu về Văn học Việt Nam 19451954; tư liệu về hai tác giả Tô Hoài và Kim Lân; các công trình nghiên cứu về dạy
học hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và“Vợ nhặt” của Kim Lân.
5.2. Phương pháp khảo sát, điều tra
Khảo sát yêu cầu đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954 trong
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, SGK, SGV. Khảo sát thực trạng
dạy học thông qua dự giờ, nghiên cứu giáo án hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân của một số GV.
Thiết kế một số câu hỏi khảo sát đối với HS và GV Ngữ văn về thực trạng
dạy học hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân
trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Thiết kế đề kiểm tra, lấy kết quả học tập, phân tích để rút ra kết luận về việc
khai thác chi tiết nghệ thuật trong dạy học hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của
Tô Hoài và “Vợ nhặt”của Kim Lân sau khi áp dụng đề tài.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các phép tính toán, thống kê để tìm hiểu và phân tích kết quả thu
được từ các phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, phương pháp thực nghiệm, từ đó
có kết luận về việc ứng dụng đề tài nghiên cứu.
5.4. Phương pháp phân tích, đánh giá
Phân tích kết quả khảo sát, điều tra, kết quả thực nghiệm; từ đó đánh giá tính
khả thi của đề tài.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục; nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài


7


Chương 2: Đề xuất các biện pháp dạy học đọc hiểu truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1945-1954 theo hướng khai thác chi tiết nghệ thuật.
Chương 3: Thực nghiệm dạy học truyện ngắn Việt Nam 1945-1954 (Chương
trình Ngữ văn 12) theo hướng khai thác chi tiết nghệ thuật.

8


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Truyện ngắn và chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn
1.1.1. Truyện ngắn
1.1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Từ Truyện ngắn có nguồn gốc từ tiếng Italia, ý nghĩa của từ này không căn
cứ vào tính chất ngắn, nghĩa là không căn cứ vào dung lượng mà căn cứ vào nội
dung câu chuyện được kể. [44. tr.9]
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm
hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo
của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi
không nghỉ..”[17. tr.370]
Giáo sư Trần Đình Sử khẳng định: “Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự
sự. Khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho truyện ngắn gần gũi với hình thức truyện
dân gian như truyện cổ, giai thoại, truyện cười...Nhưng thực ra không phải. Nó gần
gũi với tiểu thuyết hơn cả bởi hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời”.
[41.tr.80]
“Truyện ngắn điểm huyệt hiện thực bằng cách nắm bắt trúng những tình

huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong khuôn mặt cuộc
sống hàng ngày”[53. tr.28]
Truyện ngắn là thể loại tự sự ngắn, có kết cấu chặt chẽ, tái hiện cuộc sống
qua các biến cố, sự kiện và các sự kiện, biến cố đó xảy ra trong thời điểm nhất định
và được liên kết trong hệ thống chặt chẽ. Nhân vật không nhiều và cuộc đời của
nhân vật cũng thường chỉ được miêu tả như một khoảnh khắc, mảnh nhỏ, nhưng lại
có ý nghĩa trong cả cuộc đời. Truyện ngắn có thể “kể về cả một cuộc đời hay một
đoạn đời, một sự kiện hay một chốc lát trong cuộc sống nhân vật; cái chính của
truyện ngắn là ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Tác giả truyện ngắn thường hướng
tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh
hay đời sống tâm hồn con người”. [41. tr.160]. Yếu tố quan trọng của truyện ngắn
là những chi tiết cô đúc, hành văn nhiều ẩn ý tạo nên chiều sâu cho tác phẩm.

9


1.1.1.2. Đặc điểm cơ bản của truyện ngắn
a. Cốt truyện
Cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và
nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức
động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [17. tr.99]
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian
nhất định, chức năng của nó là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời. Cốt
truyện có dung lượng nhỏ “hệ thống sự kiện được kể gọn gàng và thường đơn giản
về số lượng, tập trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của nhân vật chính”
[17. tr.100]
Cốt truyện phản ánh những sự kiện, mâu thuẫn trong đời sống xuất phát từ
kinh nghiệm thực tế của tác giả hoặc qua tưởng tượng, được nhào nặn qua hư cấu
nghệ thuật của nhà văn. Theo Hà Minh Đức “cốt truyện là hệ thống các sự kiện
phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách

nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ
qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [12. tr.137]
Hầu hết truyện ngắn đều có cốt truyện, nhưng trong thực tế vẫn có truyện
không có cốt truyện, người ta gọi đó là loại “cốt truyện tâm tình”, chủ yếu triển
khai sự việc theo diễn biến tâm lí nhân vật trong một khoảng thời gian nhất định.
Các tác giả Thạch Lam, Đỗ Chu... là những nhà văn thành công với loại truyện
không có cốt truyện này. Ví như truyện “Hai đứa trẻ”, nhà văn Thạch Lam kể
chuyện về hai chị em Liên và An với cuộc sống ở phố huyện nghèo cùng những
người bạn lao động nghèo khác là mẹ con chị Tý, bác phở Siêu... họ sống quanh
quẩn, tù túng, nghèo khó và luôn ấp ủ khát vọng đổi đời. Thời gian trong truyện bắt
đầu từ buổi chiều muộn và kết thúc vào lúc nửa đêm; dung lượng truyện ngắn gọn,
hấp dẫn nhưng bạn đọc khó có thể tóm tắt cốt truyện bởi vì đây là kiểu truyện tâm lí
không có cốt truyện.
b. Tình huống truyện
Tình huống truyện là cái tình thế xảy ra truyện, làm nảy sinh sự việc và các
mối quan hệ của nhân vật. Trong truyện ngắn tình huống là nhân tố tổ chức truyện,
chi phối các thành tố khác như nhân vật, kết cấu, không gian, thời gian trong truyện.

10


Với người viết truyện ngắn thì việc xây dựng được một tình huống đặc sắc là tiền đề
cho sự thành công của truyện.
Truyện ngắn có thể có một hoặc nhiều tình huống, tùy vào diễn biến sự việc
và ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Người ta phân thành ba loại tình huống: Tình huống
hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Ở tình huống hành động
nhân vật bị đẩy vào tình thế mà chỉ có hành động mới thoát khỏi. Tình huống này
tạo nên kiểu nhân vật hành động và tính kịch cho truyện. Ví dụ trong truyện “Vợ
chồng A Phủ” (Tô Hoài) có tình huống Mị cắt dây trói cứu A Phủ, rồi hai người
chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra là tình huống hành động. Tình huống tâm trạng

thể hiện sự kiện mà ở đó nhân vật có biến động về tình cảm. Tình huống này tạo
nên kiểu nhân vật tình cảm và kiểu truyện ngắn trữ tình, như truyện “Dưới bóng
Hoàng Lan”, “Gió lạnh đầu mùa” của nhà văn Thạch Lam. Ở tình huống nhận thức
nhân vật phải đối mặt với vấn đề nhận thức, khám phá ra vấn đề nhân sinh nào đó.
Loại tình huống này tạo nên kiểu nhân vật tư tưởng và kiểu truyện ngắn giàu chất
triết lí, giống như truyện “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu.
c. Nhân vật
“Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, là tiêu điểm để bộc
lộ chủ đề, giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Nhân vật mang tính ước lệ,
không phải là sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể
hiện con người qua những đặc điểm điển hình” [12. tr.126]. Trong truyện ngắn số
lượng nhân vật ít và tính cách nhân vật không quá phức tạp. Mỗi nhân vật thường
có một “chùm dấu hiệu khu biệt để người đọc có thể nhận biết rõ ràng, gồm tên gọi,
diện mạo, tiểu sử, tính cách, lời nói, hành động, số phận”. Truyện ngắn không
nhằm tới khắc họa những tính cách điển hình có cá tính đầy đặn và nhiều mặt trong
mối tương quan với hoàn cảnh. “Nhân vật truyện ngắn thường là hiện thân cho một
trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người”[41.
tr.160].
Ngoại hình, nội tâm của mỗi nhân vật thường có nét riêng thể hiện tâm hồn,
phẩm chất, lí tưởng của nhân vật. Ngôn ngữ của từng nhân vật trong truyện cũng
mang vẻ riêng để phân biệt nhân vật này với nhân vật khác và làm nên sự phong
phú trong thế giới nhân vật và vốn hiểu biết, kinh nghiệm, tài năng của mỗi nhà văn.

11


d. Thời gian và không gian nghệ thuật
“Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được đo bằng sự lặp lại đều
đặn của các hiện tượng đời sống tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm...” [17.tr.322]
“Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học mang tính địa điểm, tính

phân giới dùng để mô hình hóa các phạm trù thời gian” [17.tr.160]
Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện ngắn không được mở rộng
nhiều chiều. Truyện ngắn không phản ánh cả quá trình đời sống diễn ra trong một
thời gian dài, mà khám phá đời sống ở những thời điểm tiêu biểu: một tình huống,
một lát cắt đời sống gắn liền với địa điểm, thời gian cụ thể.
Truyện ngắn hiện đại thường ít khi bắt đầu trần thuật từ sự việc khởi đầu, mà
có thể từ một thời điểm sau sự khởi đầu, hoặc thời điểm kết thúc mới quay lại kể
các sự việc diễn ra trước đó. Cách đảo lộn trình tự thời gian nhằm làm người đọc
chú ý vào một khoảng thời gian nhất định của câu chuyện, với những sự việc, biến
cố quan trọng được làm nổi bật.
Không gian trong truyện bao gồm không gian thiên nhiên, cảnh vật, không
gian xã hội; ngoài ra còn có không gian tâm lí, không gian hiện lên trong nội tâm
nhân vật bằng hồi tưởng và tưởng tượng.
e.Kết cấu và nghệ thuật trần thuật
Truyện ngắn thường có kết cấu theo trình tự thời gian hoặc theo sự kiện. Kết
cấu truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhà văn thường chú ý xây dựng phần
mở đầu và phần kết truyện. Mở truyện để tìm ra cách dẫn dắt truyện tự nhiên, mang
dấu ấn riêng, kết truyện phải độc đáo và ấn tượng. Truyện ngắn hiện đại thường
chọn lối kết thúc mở, gợi ra cho bạn đọc những vấn đề, những suy tư, đối thoại về
cuộc sống. Kết cấu truyện là tổ chức bố cục của cốt truyện thành các phần, các
chương, mục, sắp xếp các chi tiết, các sự kiện đảm bảo tiêu chí “là một vòng khép
kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa
một chi tiết nào” [44.tr.87]
Trần thuật “là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân
vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định.
...Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân
vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả” [17. tr.364]

12



Trần thuật trong truyện ngắn thường được dẫn dắt bằng một chủ thể nhất
định là “người trần thuật”. Người trần thuật có thể ẩn hoặc hiện tùy theo dụng ý
nghệ thuật của nhà văn. Trạng thái ẩn người trần thuật không lộ diện mà lại xuất
hiện ở khắp nơi trong truyện; ở trạng thái hiện người trần thuật thường trong vai
nhân vật cụ thể và thường xưng “tôi”.
Ngoài xác định ngôi trần thuật còn cần chú ý đến điểm nhìn trần thuật. Điểm
nhìn thể hiện khoảng cách xa, gần của người trần thuật với đối tượng được trần
thuật. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn thường là điểm nhìn của tác giả, điểm
nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn của nhân vật. Điểm nhìn của tác giả có khi
hòa nhập với điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn nhân vật.
g. Ngôn ngữ, giọng điệu
“Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị
và sáng tạo tác phẩm; nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của
người đọc đối với tác phẩm” [41. tr.14]. Ngôn ngữ truyện ngắn cô đọng, chính xác,
súc tích, mang phong cách riêng của mỗi nhà văn. Mỗi tác giả đều phải tốn nhiều
công sức để gọt giũa, chọn lọc ngôn từ nghệ thuật để tạo một phong cách riêng. Đỗ
Chu cho rằng “cái thú của người viết truyện ngắn là phải chăm sóc từng chữ. Câu
chữ phải trở nên có nhung tuyết. Kể cả khi làm ra vẻ trần trụi, thì đó cũng là sự
trần trụi có chọn lọc...” [53. tr.73].
Ngôn ngữ truyện có hai thành phần: ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân
vật. Lời nhân vật trong truyện bao gồm lời đối thoại và lời độc thoại, có khi xen kẽ
đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ và quan điểm, cảm xúc của nhà văn tạo giọng điệu
riêng cho tác phẩm. Giọng điệu được hiểu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư
tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân xơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [41. tr.91]. Giọng điệu
trong truyện ngắn mang tính đa thanh: giọng ân tình tha thiết, giọng ngậm ngùi, xót
xa, giọng suy ngẫm, triết lí, giọng mỉa mai... Giọng điệu gắn với việc xây dựng bối
cảnh, hình tượng nên nó thể hiện cách nhìn nhận riêng của cá nhân nhà văn đối với

đời sống.

13


1.1.2. Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1954
Giai đoạn 1945-1954 là giai đoạn 9 năm kháng chiến chống Pháp đầy gian
nan, thử thách của dân tộc ta. Văn học Việt Nam giai đoạn này gắn liền với cách
mạng, lối văn với những chi tiết sát thực, giàu chất ký; các nhà văn luôn theo sát
diễn biến của đời sống chính trị xã hội để ghi chép, miêu tả; giúp bạn đọc hình dung
cụ thể không khí lịch sử và đời sống xã hội sôi động. Theo nhà văn Bùi Hiển thì
“Ngần ấy thiên truyện ngắn ngần ấy lời chứng nóng hổi ghi nhanh trong ánh lửa
đạn bom, là bấy nhiêu áng văn đáng trân trọng lưu giữ lại không khí của một giai
đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc” [44. tr.170]
Truyện ngắn 1945-1954 mang nhiều chất kí. Cốt truyện không có vai trò
quan trọng bằng đối thoại, ghi chép về hoàn cảnh, bình luận của tác giả. Cốt truyện
chủ yếu là sự việc. “Các tác giả lấy việc ghi lại tỉ mỉ diễn biến của sự việc làm mục
đích chính, sự việc đóng vai trò chủ thể, dẫn dắt liên kết mạch truyện. Mỗi truyện
có một đường dây sự kiện khép kín xoay quanh một sự việc, một tình huống cụ
thể”[48. tr.98]. Trong truyện “Làng” nhà văn Kim Lân xây dựng tình huống về tình
yêu làng của ông Hai Thu, toàn bộ diễn biến, sự việc trong truyện đều xoay quanh
tình huống này. Yêu làng Chợ Dầu của mình nhưng vì chiến tranh ông Hai Thu phải
theo gia đình đi tản cư. Đến nơi tản cư lúc nào ông cũng nhớ về làng, ông say sưa
kể chuyện làng mình giàu, làng mình tích cực chiến đấu, làng mình nhiều giao
thông hào... với giọng điệu tự hào. Nghe tin làng theo giặc, ông Hai Thu xấu hổ,
buồn rầu, chán nản “cứ cúi gằm mặt mà đi”; đến khi nhận được tin cải chính làng
ông không theo giặc mà hăng hái kháng chiến thì ông Hai Thu lại vui mừng, phấn
khởi đi khoe với mọi người cái tin vui ấy, gặp ai cũng hồ hởi khoe làng, khoe“Tây
nó đốt nhà tôi rồi!”
Nhân vật truyện ngắn giai đoạn này chủ yếu được xây dựng trên cơ sở

nguyên mẫu và gần với nhân vật ký, là nhân vật đám đông mang tính đại diện cho
thời đại. “Nhân vật được miêu tả bằng rất ít chi tiết ngoại hình mà chủ yếu được
miêu tả trong hành động. Đó là những con người của hành động, bộc lộ tính cách,
phẩm chất qua hành động. Tác giả không nhằm vào việc miêu tả quá trình hình
thành tính cách của cá nhân trong mối tương quan với hoàn cảnh mà chủ yếu dựng
lại sự thật đời sống sinh động, chân thực”[48. tr.99]. Trong “Thư nhà”, tác giả Hồ

14


Phương kể chuyện về những người chiến sĩ thời chống Pháp, sống chiến đấu xa quê
hương họ yêu thương, đoàn kết như anh em ruột thịt, họ chia sẻ với nhau những tình
cảm riêng tư, những bức thư nhà. Toàn bộ truyện liên tiếp những sự kiện, hành
động, ngôn ngữ của các nhân vật, gần như nhà văn không chú ý miêu tả ngoại hình
nhân vật. Duy chỉ có đoạn Lượng gặp lại hai người đồng hương, hai nữ thanh niên
xung phong ở chiến trường, Hồ Phương mới sử dụng một chi tiết tả ngoại hình:
“Lâu lắm tôi mới gặp Thu, Viên. Ngày trước họ là hai thanh nữ đẹp có tiếng trong
vùng. Bây giờ họ đã có vẻ điềm đạm, một nét nhăn mờ trên má”.
Truyện ngắn 1945-1954 mở rộng về không gian nghệ thuật. Trong truyện
ngắn trước năm 1945, nhân vật thường hoạt động trong hoàn cảnh hẹp như gia đình,
làng quê.... Truyện ngắn sau 1945 nhân vật được đưa vào hoàn cảnh rộng được xác
định bởi mối liên hệ với nhân dân, thời đại [44. tr.171]. Trong truyện “Làng” (Kim
Lân) không gian sống, không gian kháng chiến mở rộng từ làng này tràn sang làng
khác. Trong “Thư nhà” (Hồ Phương) nhà văn cũng kể chuyện các anh bộ đội cụ Hồ
cũng tham gia chiến dịch từ vùng đất này đến vùng đất khác, không gian mở rộng từ
làng quê đến chiến trường xa xôi.
Thời gian trần thuật thường ngắn gọn. Truyện thiên về kể việc, nhân vật chỉ
bộc lộ một đặc điểm nào đó của tính cách. Thời gian trần thuật thường trùng với
thời gian sự kiện tạo tính sự kiện và xác thực cho truyện [48. tr.99]. “Thư nhà” của
Hồ Phương chỉ xoay quanh một cuộc trò chuyện giữa Lượng và Phượng ở chiến

trường; Lượng chia sẻ với Phượng bức thư của em trai, rồi kể lại cho Phượng nghe
chuyến công tác trước đó bốn tháng anh được tạt qua nhà. Thời gian trong truyện
“Vợ nhặt” của Kim Lân cũng chỉ bắt đầu từ buổi chiều Tràng dẫn người vợ nhặt về
nhà cho đến buổi sáng hôm sau. Trong truyện “Làng”, Kim Lân cũng chỉ kể ngắn
gọn câu chuyện ông Hai Thu trong thời gian đi tản cư, lúc nào cũng nhớ, cũng kể và
khoe về làng Chợ Dầu của mình.
Ngôn ngữ truyện ngắn 1945-1954 đậm chất báo chí, đầy ắp ngôn ngữ chính
trị như: đại biểu, hội nghị, tiến bộ, ủy ban, tuyên truyền. Cách xưng hô của nhân vật
cũng được chính trị hóa, họ gọi nhau bằng chức vụ, địa vị xã hội như: anh chính trị
viên, đồng chí, chị cán bộ, đồng bào...khiến cho truyện mang đầy khẩu khí thời sự.
[48. tr.99-100]

15


Truyện ngắn 1945-1954 có kết thúc theo lối mở. Nếu như trước cách mạng
tháng Tám, các nhà văn còn chưa tìm ra được lối thoát cho hoàn cảnh đang bị bóp
nghẹt của nhân vật thì truyện ngắn sau năm 1945 hầu hết đã tìm ra hướng đi cho
tương lai sáng sủa hơn của nhân vật. Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam
Cao phải chọn cách ăn bả chó để kết thúc cuộc sống của mình. Chí Phèo dẫu đã
được đánh thức phần người lương thiện nhưng cuối cùng phải tự đâm chết mình vì
không còn lối thoát nào khác. Vẫn là Nam Cao nhưng sau cách mạng thì khác hẳn,
trong truyện ngắn “Đôi mắt” thì từ giới trí thức như nhà văn Độ đến những người
nông dân chất phác thất học đều hăm hở tham gia kháng chiến, tin tưởng vào con
đường cách mạng của Đảng. “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng kết thúc bằng hình ảnh
“lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới” xuất hiện trong suy nghĩ của Tràng với niềm tin
vào sự đổi đời của những con người đang chấp chới bên bờ vực của cái chết.
1.1.3. Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn
1.1.3.1. Khái niệm chi tiết
Chi tiết là một từ quen thuộc dùng trong giao tiếp hàng ngày. Chi tiết là phần

rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng
chi tiết). Là thành phần riêng rẽ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo
lắp được (Ví dụ: Chi tiết máy). [39. tr.147]
Trong đời sống hàng ngày từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành
tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành
phần thuộc về cấu tạo.
Trong văn học, chi tiết hình thành từ quá trình nhà văn tích lũy kiến thức về
hiện thực đời sống. Chi tiết có thể là một hình ảnh thiên nhiên, một cử chỉ, hành
động, một lời nói, một nét tâm trạng của nhân vật... Qua quan sát hiện thực tỉ mỉ,
nhà văn tích lũy hình ảnh, ngôn ngữ, ghi chép cẩn thận để khi có nguồn cảm hứng
sáng tác thì hình thành chi tiết trong tác phẩm. Chi tiết là vật liệu để nhà văn xây
dựng hình tượng nhân vật, đồng thời góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của truyện.
1.1.3.2. Khái niệm chi tiết nghệ thuật
Không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều có vai trò, vị trí và giá trị như
nhau. Có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát
triển hợp lý, nhưng có chi tiết tập trung thể hiện quan niệm nghệ thuật và quan niệm

16


nhân sinh của nhà văn, đó là chi tiết nghệ thuật. “Chi tiết nghệ thuật là các tiểu tiết
mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng.... Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết
nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà
văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết
nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống
văn hoá nghệ thuật nhất định. [17. tr.59]
Chi tiết nghệ thuật là linh hồn của tác phẩm, thể hiện tài năng sáng tạo của
người nghệ sĩ. Chi tiết nghệ thuật hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị, còn được
gọi là tín hiệu nghệ thuật. Trong đọc hiểu truyện ngắn chúng ta phải lựa chọn được
những chi tiết nghệ thuật, phân tích làm sáng tỏ ý nghĩa của nó trong việc thể hiện

hình tượng, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm có
quan hệ máu thịt với nhau, cho nên khi tìm hiểu, khai thác chi tiết nghệ thuật, chúng
ta phải đặt chi tiết đang tìm hiểu trong mối liên hệ với các chi tiết khác, trong chỉnh
thể nghệ thuật toàn vẹn của tác phẩm.
1.1.3.3. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn
a. Chi tiết nghệ thuật tạo cách mở truyện hấp dẫn
Mở đầu truyện có vai trò quan trọng, tạo sự chú ý, tập trung của người đọc
ngay từ những dòng đầu tiên của truyện. Vì vậy mà mỗi nhà văn đều dụng công để
tạo nên một cách mở đầu thật ấn tượng. Nhưng cách mở truyện ấn tượng lại có vai
trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật.
Ví dụ: Mở đầu truyện “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài kể rất tự nhiên, khách
quan, giới thiệu nhân vật Mị rất nhẹ nhàng mà độc đáo. Bạn đọc chắc chắn ai cũng
chú ý đến chi tiết “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đây là
một chi tiết nghệ thuật độc đáo, khái quát được hình ảnh cô Mị đang sống trong nhà
thống lí Pá Tra, Mị đang bị lẫn vào những vật vô tri vô giác như tảng đá, tàu ngựa;
lúc nào cũng lầm lũi làm việc như một cỗ máy làm hết việc nọ đến việc kia; lúc nào
cũng buồn rười rượi. Chỉ một chi tiết ấy đã đủ để bạn đọc hình dung về cuộc đời
đầy uẩn ức, buồn khổ trăm bề của cô gái, để rồi gợi sự tò mò, sức hấp dẫn cho câu
chuyện.

17


×