Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.9 KB, 15 trang )

Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ
tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo
hướng tự học có hướng dẫn


Nguyễn Thu Đông


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Khánh Thành
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến dạy học phần đọc thêm
các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có
hướng dẫn. Khảo sát về việc dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
trong chương trình ngữ văn lớp 12. Đề xuất những phương pháp dạy học phần đọc
thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học
có hướng dẫn. Hiện thực hóa các phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm
thơ trữ tình trong chương trình ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn bằng
các giáo án thể nghiệm.

Keywords. Phương pháp giảng dạy; Ngữ văn; Lớp 12


Content
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của xã hội hiện đại ngày nay đã đặt ra nhiều


nhu cầu mới về nguồn nhân lực của đất nước. Tại Hội nghị lần thứ II BCH TW Đảng Cộng
Sản Việt Nam khoá VIII đã thông qua Nghị quyết số 02 - NQ/HNTW về chiến lược phát
triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000 nêu rõ: "Đổi mới
phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người HS, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp
hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là trong thanh niên" [35]. Đáp ứng yêu cầu đó, hoạt
động đổi mới giáo dục đã, đang diễn ra một cách sôi nổi, rộng khắp ở các trường phổ thông
hiện nay trong đó trọng tâm là đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi lối học truyền thụ một
chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy được tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS. Làm thế nào để người học tự chiếm lĩnh tri thức,
phát huy vai trò của chủ thể trong việc phân tích tác phẩm là một yêu cầu đã, đang được đặt
ra đối với mỗi GV nói chung và GV dạy môn Ngữ văn nói riêng. Dạy HS tự học có hướng
dẫn được đánh giá là một trong những hình thức tối ưu trong hệ thống các hình thức dạy học
tích cực hiện nay.
Với chương trình Ngữ văn lớp 12, bên cạnh 5 tác phẩm thơ được đưa vào giảng dạy
chính khóa còn có 5 tác phẩm được trích đọc trong phần đọc thêm không chỉ góp phần làm
giàu kiến thức văn học cho HS mà còn có một vị trí quan trọng trong việc rèn kĩ năng,
phương pháp tự đọc - hiểu một văn bản văn học, hình thành nên một "văn hóa đọc" cho các
em. Tuy nhiên, dung lượng thời gian giảng dạy trên lớp dành cho các tác phẩm này rất hạn
chế, chỉ là một phần đan xen thêm trong quá trình giảng dạy chính khóa tạo ra nhiều khó
khăn cho hoạt động dạy học. Làm thế nào để phát huy được khả năng tự học, tự đọc- hiểu các
văn bản thơ trữ tình trong phần đọc thêm theo đúng yêu cầu đặc trưng loại thể là vấn đề rất
nhiều GV trăn trở.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài Phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác
phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
2. Lịch sử vấn đề.
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và dạy tác phẩm thơ trữ tình nói riêng
đã được nghiên cứu từ lâu, có thể kể tới những công trình như: Cuốn sách Phương pháp
giảng dạy văn học ở trường phổ thông của V.Anhikonski khẳng định "HS là độc giả tác

phẩm văn học" và "quá trình đọc các tác phẩm văn học là một quá trình sáng tạo". Tác giả
cuốn giáo trình Phương pháp luận dạy văn học do Zla-Rezzia chủ biên, đã đặt phương pháp
tập đọc sáng tạo ở vị trí hàng đầu như là phương pháp đặc biệt nhất đối với văn học nhằm
phát triển cảm thụ nghệ thuật, hình thành những thể nghiệm nghệ thuật, những khuynh hướng
và năng khiếu nghệ thuật cho học sinh bằng phương diện nghệ thuật. Cuốn Phương pháp dạy
học văn của các tác giả Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế
Phiệt đã trang bị cho GV những kiến thức vững chắc có hệ thống về phương pháp luận bộ
môn. Cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể của các tác giả Trần Thanh
Đạm, Huỳnh Lí, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn và Đàm Gia Cẩn - Nxb Giáo dục, 1971, đã
giúp GV thuận tiện hơn khi tiếp cận tác phẩm văn học từ đặc trưng loại thể. Tác giả Nguyễn
Viết Chữ trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) - Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, 2001, đưa ra phương pháp dạy học tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình,
tác phẩm văn học nước ngoài, tuy nhiên các phương pháp phù hợp với việc giảng dạy các bài
đọc thêm trong chương trình với dung lượng thời gian rất hạn hẹp thì chưa được đề cập đến một
cách cụ thể, chi tiết.
Riêng về vấn đề dạy HS tự học trong bộ môn Ngữ văn, ngay từ năm 1973 Thủ tướng
Phạm Văn Đồng từng nói "Tôi nghĩ rằng mục đích của việc dạy văn là rèn luyện cho HS có ý
thức, từ đó có cố gắng rồi có khả năng tự mình suy nghĩ, suy nghĩ nhiều, suy nghĩ sâu về
những điều mình muốn viết và lúc nói phải diễn tả ý của mình sao cho trung thành, sáng sủa,
chặt chẽ, chính xác, hay" [7]. Tại Hà Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề
“Nghiên cứu tự học – tự đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều GS đầu ngành nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành
phải chăm lo xây dựng phong trào tự học toàn dân. Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số 2 năm
1998 đã đặc biệt quan tâm đăng tải một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo: “Tự học – chìa
khoá vàng của giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, “Vì năng lực tự học sáng tạo của HS”
của Nguyễn Nghĩa Dân…Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự
học” – Nguyễn Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” – Nguyễn Hiến Lê, “Luận
bàn và kinh nghiệm tự học” – GS. Nguyễn Cảnh Toàn Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và
phát triển tự học còn cho ra mắt bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tuy vậy, các cuốn sách và bài viết
hầu như mới chỉ dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các

biện pháp cụ thể đối với môn Ngữ văn.
Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của những người đi trước, tôi muốn tìm hiểu và đề
xuất vấn đề cụ thể hơn: Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương
trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích.
Từ việc tìm hiểu đặc trưng thể loại cùng các phương pháp dạy học tích cực, trên cơ sở
thực tế giảng dạy phần đọc thêm, luận văn đề xuất một số phương pháp dạy học phần đọc
thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có
hướng dẫn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy các bài đọc thêm nói riêng và rèn
năng lực tự học, tự nghiên cứu trong bộ môn Ngữ văn nói chung.
3.2. Nhiệm vụ.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát việc dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn
lớp 12.
- Đề xuất những phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương
trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
- Hiện thực hóa các phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong
chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn bằng các giáo án thể nghiệm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng.
Đối tượng mà đề tài hướng tới là những phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác
phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
4.2. Phạm vi.
- Văn bản thơ Bên kia sông Đuống (trích) của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi,
Dọn về làng của Nông Quốc Chấn, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, Đò lèn của Nguyễn
Duy, Bác ơi! của Tố Hữu - SGK Ngữ văn lớp 12.
- GV và HS trường THPT Ngô Quyền - quận Lê Chân, Hải Phòng; GV và HS trường THPT
Thái Phiên - quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

- Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
- Sử dụng các phương pháp điều tra, thực nghiệm sư phạm
6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình
Ngữ văn lớp 12.
- Chương 3: Đề xuất một số phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
theo hướng tự học có hướng dẫn.

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các hình thức tổ chức dạy học.
1.1.1. Học trên lớp.
GV tiến hành dạy cho một số lượng HS nhất định có cùng trình độ, ở một địa điểm,
một không gian và trong một khoảng thời gian nhất định, thực hiện một đơn vị bài học nhất
định nhằm thực hiện một số mục tiêu dạy học cụ thể.
1.1.2. Thảo luận tập thể.
Thảo luận tập thể là một hình thức tổ chức dạy học trong đó GV tổ chức cho HS thảo
luận, trao đổi với nhau về một chủ đề có liên quan đến nội dung học tập nào đó. Thông qua
sự trao đổi, tranh luận tập thể, có sự cọ sát ý kiến của nhiều người mà HS rút ra kết luận cần
thiết.
1.1.3. Học tập ở nhà hay tự học.
Học tập ở nhà hay tự học là một hình thức tổ chức dạy học trong đó HS tiến hành hoạt
động học tập ngoài giờ học trên lớp bằng sự tự giác và nỗ lực học tập của cá nhân, theo một
kế hoạch đặt ra mà không có GV dạy trực tiếp.
1.2. Hoạt động tự học và hình thức dạy tự học có hƣớng dẫn.
1.2.1. Hoạt động tự học.
1.2.1.1. Khái niệm.

Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức
ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống, bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục
đích nhất định.
1.2.1.2. Vai trò của tự học.
Tự học có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi con người, là
con đường tự khẳng định của mỗi người.
Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người. Có phương pháp tự học
tốt sẽ đem lại kết quả học tập cao.
Tự học của HS THPT còn có một vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới giáo dục
đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo ở trường phổ thông.
1.2.1.3. Các năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho HS.
* Năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề.
* Năng lực giải quyết vấn đề.
* Năng lực xác định những kết luận đúng.
* Năng lực vận dụng kiến thức (hoặc tự thu nhận thức kiến thức mới).
* Năng lực đánh giá và tự đánh giá.
Năm năng lực trên vừa đan xen nhưng vừa tiếp nối nhau, tạo nên năng lực tự học ở
HS.
1.2.1.4. Hệ thống kỹ năng tự học.
Tuỳ theo môn học mà HS có những kĩ năng tự học phù hợp. Một cách chung nhất, HS
cần phải được rèn luyện các kĩ năng tự học cơ bản sau:
- Biết đọc, nghiên cứu giáo trình và tài liệu học tập, chọn ra những tri thức cơ bản chủ yếu,
sắp xếp hệ thống hoá theo trình tự hợp lí, khoa học.
- Biết và phát huy được những thuận lợi, hạn chế những mặt non yếu của bản thân trong quá
trình học ở lớp, ở nhà, ở thư viện, ở phòng thí nghiệm,
- Biết vận dụng các lợi thế và khắc phục các khó khăn, thích nghi với điều kiện học tập (cơ sở
vật chất, phương tiện học tập, thời gian học tập ).
- Biết sử dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp học tập cho phép để đạt hiệu quả học
tập cao.
- Biết xây dựng kế hoạch học tập trong tuần, tháng, học kì, cả năm

- Biết và sử dụng có hiệu quả các kĩ thuật đọc sách, nghe giảng, trao đổi, thảo luận, tranh
luận, xây dựng đề cương, viết báo cáo, thu thập và xử lí thông tin.
- Biết sử dụng các phương tiện học tập, đặc biệt là công nghệ thông tin.
- Biết phân tích, đánh giá và sử dụng các thông tin.
- Biết kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của bản thân và bạn học.
- Biết vận dụng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.
1.2.1.5. Chu trình tự học của HS.
Chu trình tự học của HS là một chu trình 3 thời:
Thời (1): Tự nghiên cứu.
Thời (2): Tự thể hiện.
Thời (3): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
1.2.1.6. Các hình thức tự học.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
- Tự học hoàn toàn (Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có sách và
sự hướng dẫn của GV).
- Tự học có sách nhưng không có GV bên cạnh. Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai
mức:
+ Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy.
+ Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn.
- Tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của GV.
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc tác
thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của quá trình
nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng dưới sự
hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tự sắp
xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn những yêu cầu do GV đề
ra.
1.2.2. Dạy tự học có hướng dẫn.
1.2.2.1. Một số quan niệm về dạy cách học.
- Dạy là truyền đạt thông tin

- Dạy là truyền đạt kiến thức và thái độ đối với kiến thức đó.
- Dạy là giúp cho người học được học tập dễ dàng.
- Dạy là hỗ trợ cho việc học của HS.
Dạy học nói chung và bộ môn Ngữ văn nói riêng cần phải áp dụng những phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học để đảm bảo ở mức độ cao nhất tính tích cực, tự giác của
HS, tạo nên hứng thú học tập, năng lực sáng tạo, góp phần cải tiến phương pháp, thiết bị
giảng dạy phù hợp với nội dung mới, phương pháp mới. Việc dạy và học là hai mặt của một
quá trình thống nhất. Việc dạy của GV phải có tác dụng điều khiển (tổ chức, chỉ đạo, đánh
giá) sự học của HS. Dạy tốt là làm cho HS biết học, biết hỏi do đó sẽ hiểu và biết hành, biết
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Sự học của HS sẽ dựa vào việc dạy của GV
nhưng nó cũng là quá trình tự giác, tích cực và tự lực của HS.
1.2.2.2. Dạy tự học có hướng dẫn.
Dựa trên những nghiên cứu lí thuyết và thực tiễn, một số tác giả đề xuất tổ chức quá
trình dạy tự học cho HS như sau:
- Tạo ra tình huống để tạo động cơ, nhu cầu, hứng thú nhằm huy động cao độ sức lực, trí tuệ
của HS vào hoạt động sáng tạo.
- GV phân chia nhiệm vụ nhận thức thành hệ thống những nhiệm vụ nhỏ liên tiếp thuộc vùng
phát triển gần của HS.
- HS tự lực hoạt động, áp dụng những phương pháp nhận thức đã biết để thích nghi với môi
trường, vượt qua khó khăn, giải quyết những vấn đề nêu ra.
Thực tiễn ở trường phổ thông hiện nay, để việc học tập của HS hứng thú và hiệu quả
thì hệ thống câu hỏi giữ vai trò rất quan trọng - Trả lời câu hỏi vừa là mục đích vừa là nội
dung lại vừa là phương pháp dạy học hiệu nghiệm. Các câu hỏi này cung cấp cho HS cả kiến
thức, con đường giành lấy kiến thức và cả niềm vui sướng của sự phát hiện - tìm ra đáp số -
một trạng thái hưng phấn - hứng thú nhận thức - một yếu tố tâm lý góp phần rất quan trọng
trong việc nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người.
1.3. Thể loại thơ trữ tình và hoạt động đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình trong chƣơng
trình Ngữ văn bậc THPT.
1.3.1. Quan niệm về loại thể và việc phân chia loại thể.
1.3.1.1. Quan niệm về loại thể.

Loại thể văn học (người phương Tây gọi là “genre”, người Trung Quốc gọi là “thể
tài”) là một hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học nào cũng có một
hình thể, có một “thể” cấu tạo, thể thức ngôn từ nhất định.
1.3.1.2. Sự phân chia loại thể.
Loại thể văn học là phạm trù phân loại các tác phẩm văn học vốn đa dạng, đồng thời
có sự giống nhau, từng nhóm một, theo một số dấu hiệu nhất định.
Các loại thể văn học đã nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi, pha trộn vào
nhau. Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba và cách chia bốn. Cách chia ba có từ thời
cổ đại, từ thời Aristote, văn học được chia làm ba loại: Tự sự, trữ tình, kịch. Cách chia bốn
xuất hiện muộn hơn, chia văn học làm bốn loại: Thơ ca, tiểu thuyết, kịch, kí.
Ở Việt Nam sử dụng cả cách chia ba và cách chia bốn. Cách chia bốn gồm thơ ca (chỉ
chủ yếu là thơ trữ tình), truyện (gồm cả tiểu thuyết và truyện thơ), kịch và kí. Khái niệm kí
nghiêng về các tác phẩm viết về người thật, việc thật, cốt truyện không được quan tâm như
truyện. Loại này cũng bao hàm các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật như tản văn, tùy bút…
Việc phân chia các tác phẩm văn học ra làm ba loại hình cơ bản, như trên đã nói, là
căn cứ vào thiên hướng chủ đạo của phương thức phản ánh và biểu hiện của tác phẩm. Khi
xác định một tác phẩm thuộc loại này hay loại kia là chúng ta căn cứ vào đặc trưng loại thể
chủ đạo của nó mà thôi đồng thời phải thừa nhận khả năng các yếu tố thuộc loại thể khác vẫn
song song tồn tại trong tác phẩm.
1.3.2. Thể loại thơ trữ tình.
1.3.2.1. Định nghĩa về thơ trữ tình.
Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn súc
tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm của
người nghệ sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật.
1.3.2.2. Những đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình.
a. Tính trữ tình và chủ thể trữ tình.
* Tính trữ tình:
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả
những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Những rung động ấy xét
đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà

thơ.
* Chủ thể trữ tình:
Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm, đang rung
động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể trữ tình. Trong tác phẩm thơ,
chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình của tác phẩm.
b. Đặc điểm ngôn ngữ thơ.
+ Ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình.
+ Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu hiện.
1.3.3. Hoạt động đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn bậc THPT.
1.3.3.1. Hoạt động đọc - hiểu văn bản văn học trong môn Ngữ văn bậc THPT.
Tiếp tục phương châm lấy HS làm trung tâm, phương pháp dạy - học Ngữ văn đòi hỏi
phải biến môn Ngữ văn thành môn dạy kĩ năng đọc - hiểu cho HS đối với các loại văn bản.
Đọc - hiểu văn bản gồm có các cấp độ: đọc thầm, đọc âm vang và đọc có mục đích.
1.3.3.2. Dạy đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình theo đặc trưng loại thể.
Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm văn chương. Đối
với thể loại thơ trữ tình, để đảm bảo đặc trưng thể loại, cũng như để nắm bắt được ý nghĩa tác
giả muốn biểu đạt, thể hiện sự đồng cảm và hưởng thụ thẩm mĩ, trong quá trình đọc hiểu cần
chú ý một số điểm sau:
1. Do được tổ chức đặc biệt, ngôn từ hàm súc, giàu nhạc điệu, văn bản thơ cần đọc
được ra thành tiếng, chậm rãi, có khi ngâm nga để hình ảnh, nhịp điệu của văn bản mở ra và
đọng lại thành ấn tượng trong tâm trí.
2. Do ý nghĩa của văn bản thơ thường không được thông báo trực tiếp qua lời thơ cho
nên người đọc thơ phải biết cảm nhận, suy đoán, phân tích để tìm đến cái ý ngoài lời. Cùng
với việc cảm nhận đầy dủ sự biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng tưởng tượng, cảm giác, thể
nghiệm, người đọc phải cảm nhận được cái ý mà lời thơ không trực tiếp nói đến.
3. Trong đọc hiểu văn bản, người đọc phải biết vận dụng ngữ cảnh để hiểu bài thơ.
Biết khai thác sự kiện trong bài thơ để biết bài thơ nói về điều gì, lời thơ nảy sinh trong tình
huống nào. Ngữ cảnh lịch sử, xã hội của bài thơ cũng góp phần giải thích ý thơ.
4. Do ý nghĩa của bài thơ trữ tình thường phong phú, nhiều bình diện, mỗi lần đọc
thường chỉ cảm nhận được một phần. Vì vậy, thơ hay cần được đọc đi, đọc lại nhiều lần mới

cảm nhận được cái hay nhiều mặt.

CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG DẠY- HỌC PHẦN ĐỌC THÊM TÁC PHẨM THƠ
TRỮ TÌNH TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12
2.1. Vị trí của phần đọc thêm trong chƣơng trình Ngữ văn bậc THPT.
Về mặt số lượng các văn bản đọc thêm chiếm một tỷ lệ đáng kể: Trong chương trình
Ngữ văn lớp 10, tỷ lệ là 14/38 văn bản. Trong chương trình Ngữ văn lớp 11, tỷ lệ là 14/40
văn bản. Trong trương trình Ngữ văn lớp 12, tỷ lệ là 12/32 văn bản.
Bên cạnh hệ thống các văn bản học chính thức, loại văn bản hướng dẫn đọc thêm góp
phần làm giàu kiến thức văn học của HS. Đặc biệt, nó có một vị trí quan trọng trong việc rèn
luyện kỹ năng - phương pháp tự học, tự nghiên cứu văn bản, góp phần hình thành cho các em
văn hóa đọc, đáp ứng các yêu cầu đổi mới dạy học, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của HS.
2.2. Những thuận lợi, khó khăn khi dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12 .
2.2.1. Khảo sát văn bản thơ trữ tình phần đọc thêm trong chương trình Ngữ văn lớp 12.
2.2.1.1. Tính trữ tình và chủ thể trữ tình.
2 .2.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ.
2.2.2. Khảo sát tư liệu dạy - học.
*Khảo sát SGK Ngữ văn lớp 12 chương trình chuẩn, Phan Trọng Luận tổng chủ biên - Nxb
Giáo dục, 2007
Thời gian dành cho việc hướng dẫn đọc thêm: Thời gian dành cho việc dạy - học văn
bản đọc thêm không nhiều. Trong khoảng thời gian đó, GV phải đảm bảo đủ các hoạt động
lên lớp, phải khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học, đặc trưng thể loại. Vậy nên, GV dù cố
gắng đến thế nào cũng rất khó để lưu lại trong tâm trí HS những hiểu biết cơ bản về các tác
phẩm này.
Bài học được biên soạn trong SGK gồm các nội dung sau:
- Tiểu dẫn: Giới thiệu những nét chính về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác.
- Ở phần văn bản đoạn trích, các câu hỏi hướng dẫn đọc thêm trong SGK đã đưa ra các câu

hỏi về bố cục, cảm xúc, hình tượng thơ.
Điều đáng chú ý hơn nữa là trong SGK đối với các văn bản đọc thêm, mục kiến thức
cần đạt và ghi nhớ không có nên các em HS khó khái quát được về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm, chưa có thước đo các chuẩn kiến thức cần thiết để có định hường điều chỉnh
quá trình nhận thức phù hợp.
* Khảo sát SGV Ngữ văn chương trình chuẩn, Phan Trọng Luận tổng chủ biên - Nxb Giáo
dục, 2007.
Bài học được biên soạn gồm 3 mục:
- Mục 1: Sách hướng dẫn đưa ra những điều cần lưu ý về tác giả và tác phẩm liên qua tới quá
trình tiếp nhận văn bản.
- Mục 2: Sách hướng dẫn học thêm bằng các gợi ý đáp án của các câu hỏi trong SGK.
- Mục 3: Sách chỉ cho GV những tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho bài giảng.
* Khảo sát SGV Ngữ văn chương trình nâng cao, Trần Đình Sử tổng chủ biên - Nxb Giáo
dục, 2007.
Bài học được biên soạn gồm 4 mục:
- Mục 1: Sách hướng dẫn đưa ra mục tiêu cần đạt của bài học. Yêu cầu cần đạt về giá trị nghệ
thuật và nội dung.
- Mục 2: Sách chỉ ra những điểm cần lưu ý:
+ Về nội dung: Tác giả, tác phẩm, đoạn trích cần chú ý khai thác phần tiểu dẫn trong SGK,
bám sát đoạn trích khi giảng và bổ sung thêm mạch cảm xúc, kết cấu cơ bản của tác phẩm.

+ Về phương pháp: Hướng dẫn GV tổ chức hoạt động của HS theo quy trình theo quy trình
HS chuẩn bị kĩ đề cương trả lời các câu hỏi, đến lớp trao đổi dưới sự hướng dẫn của GV.
- Mục 3: Sách gợi ý đọc thêm bằng việc trả lời các câu hỏi trong SGK.
- Mục 4: Chỉ cho GV những tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho bài giảng.
2.2.3. Khảo sát về đối tượng dạy và học.
Để thấy được thực tế dạy và học phần đọc thêm ở trường THPT, tôi chủ yếu là phát
phiếu điều tra đến GV và HS ở 2 trường:
- THPT Ngô Quyền - quận Lê Chân, Hải Phòng.
- THPT Thái Phiên - quận Ngô Quyền , Hải Phòng.

Tổng số phiếu phát ra gửi đến GV là 45 phiếu, HS là 115 phiếu ở cả 2 trường. Nội
dung phiếu điều tra dành cho GV và HS ở phụ lục 4 và 5. Sau đây là kết quả khảo sát.
*Về phía GV.
Qua khảo sát thực trạng dạy học ta thấy có một bộ phận không nhỏ GV còn vướng
mắc, lúng túng trong cách thức dạy học ngữ văn nói chung và những bài đọc thêm nói riêng.
Đó là hiện tượng chỉ chú trọng các văn bản chính thức mà bỏ qua hoặc xem nhẹ các phần đọc
thêm. Thực tế hiện nay đang tồn tại hai khuynh hướng hai cách dạy các bài đọc thêm như
sau:
Cách 1: Để HS tự hoạt động thông qua hình thức GV nêu một số câu hỏi trong SGK -
học trò trả lời.
Cách 2: Thầy - trò cùng hoạt động, tìm vài nét sơ lược về nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm.
Kết quả: Yếu tố hướng dẫn của thầy và kỹ năng tự học của trò không thực hiện được
hoặc nếu có thì cũng mờ nhạt. Điều đáng buồn hơn là các em không nắm được những nét đặc
sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, kiến thức của các em nghèo đi.
* Về phía HS:
Trong điều kiện xã hội hiện nay có không nhiều HS thích học văn học nhất là các tác
phẩm chỉ đọc thêm. Việc chuẩn bị bài của HS trước khi lên lớp cũng rất kém, đa phần HS
chuẩn bị bài là đối phó, soạn qua quýt cho xong để đối phó với sự kiểm tra của GV. Nếu GV
có dạy tốt mà HS không chuẩn bị tốt thì không thể nói đến hiệu quả của giờ học.
Tuy nhiên, ở lứa tuổi 14 - 18 các em HS có sự phát triển mạnh mẽ về thể lực và trí
tuệ, tình cảm. HS ở lứa tuổi này có nhu cầu tự khẳng định khá cao, có sự nhạy bén khi đứng
trước cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương, một sự vật hoặc một hiện tượng. Các
em có khả năng tự đọc, tự học, hiểu thấu đáo vấn đề và khả năng sáng tạo. Tuy nhiên, khả
năng đó của các em chỉ phát huy cao độ đưa đến một kết quả học tập tốt khi có sự định
hướng, tổ chức, điều khiển của GV.

CHƢƠNG III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
PHẦN ĐỌC THÊM CÁC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH

THEO HƢỚNG TỰ HỌC CÓ HƢỚNG DẪN

3.1. Về nguyên tắc.
3.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Giờ dạy học Ngữ văn phải là một quá trình được thiết kế bằng một hệ thống các thao
tác, việc làm để trí thông minh, sức tưởng tượng, trực giác và suy luận tỉnh táo của người học
tham gia vào bài học một cách hiệu quả. Từ đó cơ chế dạy và học cũng thay đổi, HS là trung
tâm của quá trình dạy học. Dưới sự định hướng của GV, HS sẽ học cách để tự học, chủ động
tích cực nắm bắt kiến thức, rèn luyện kĩ năng năng động, sáng tạo. Coi trọng yếu tố hướng
dẫn - tự học của loại bài hướng dẫn đọc thêm và có ý nghĩa của nó trong việc rèn luyện kỹ
năng, tiến đến hình thành, xây dựng một phương pháp tự học - một văn hóa đọc, làm cơ sở
cho quá trình học văn trong nhà trường và sau này vào đời cho HS.
3.1.2. Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình theo quan điểm tích hợp.
Tích hợp (intergration), hiểu một cách chung nhất là phương hướng phối hợp
(intergrate) một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ của nhiều bộ môn cũng như phân
môn trong cùng một môn học, do đó các tri thức kĩ năng, và các phương pháp của các thành
tố đó sẽ được sử dụng tối đa phát huy hiệu quả cao nhất, tạo bước vọt về chất lượng nhận
thức và trí tuệ. Quan điểm tích hợp chi phối cách xây dựng chương trình, chỉ đạo nội dung và
lựa chọn phương pháp dạy học của chương trình và SGK Ngữ văn hiện nay.
3.1.3. Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình theo đặc trưng loại thể.
Con đường hiệu quả nhất để đi khám phá, thâm nhập chiếm lĩnh các tác phẩm thơ trữ
tình là con đường đi từ đặc trưng thể loại. Vì thế, người GV trên cơ sở những hiểu biết của
mình về thể loại hướng dẫn HS khám phá tiếp nhận giá trị tư tưởng của tác phẩm từ góc độ
này. Có như vậy, dạy học phần đọc thêm mới đảm bảo sự toàn diện khi chiếm lĩnh tác phẩm
là chiếm lĩnh cả nội dung và hình thức, không thiên về nội dung cũng không thiên về hình
thức nghệ thuật.
3.1.4. Rèn năng lực quy chiếu ngữ cảnh cho HS.
- Quy chiếu với ngữ cảnh văn bản: Đây là quá trình đặt các đơn vị cần được xem xét của văn
bản trong những mối liên hệ với các đơn vị cùng cấp độ và ở cấp độ lớn hơn để hiểu trọn vẹn
chỉnh thể văn bản. Trong thơ, các đơn vị này thường xuất phát từ cấp độ từ, ngữ, dòng thơ,

khổ thơ
- Quy chiếu với ngữ cảnh thời đại: Mỗi một tác phẩm là một lời nói của một tác giả, một con
người cụ thể sống trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Do đó không thể hiểu thấu
đáo nghĩa của một tác phẩm nếu không đặt nó trong ngữ cảnh thời đại đã sản sinh ra nó, xem
tác phẩm ấy đối thoại gì với những chủ ngôn trước đó, từ đó rút ra những đóng góp của tác
giả về mặt tư tưởng nghệ thuật.
3.1.5. Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xã hội cho HS.
Học tác phẩm văn chương là HS học cách ứng xử giao tiếp trong cuộc sống, trong xã
hội, học cách giao tiếp thẩm mĩ. Từ việc học, đọc một tác phẩm cụ thể, các em sẽ dần dần
đưa tác phẩm vào một văn cảnh mới, quan hệ mới, từ đó phát hiện ra ý nghĩa mới, nội dung
mới của tác phẩm đó. Bởi việc tiếp nhận của mỗi HS đều mang đậm sắc thái chủ quan, các
em có thể tái tạo, bổ sung, phát triển hình tượng nghệ thuật trong tâm trí của mình, biến vốn
văn hóa của nhân loại thành phẩm chất trí tuệ, năng lực hoạt động của bản thân.
Để phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ, giao tiếp xã hội cho HS, môn Văn có vị trí
hết sức quan trọng. Từng bước ở trên lớp, từ việc đọc tác phẩm, hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở
nhà, từ việc đặt câu hỏi đến việc giảng bình, cắt nghĩa người GV dạy văn phải khai thác
triệt để khả năng tác động giáo dục thẩm mĩ của mỗi tác phẩm văn chương cho HS và dẫn dắt
các em học theo những hành vi cao thượng, cách ứng xử đẹp, cách sống, cách nói năng đẹp
của các nhân vật trong tác phẩm.
3.2. Vận dụng một số phƣơng pháp thích hợp vào dạy học phần đọc thêm các tác phẩm
thơ trữ tình.
3.2.1. Phương pháp đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm là một phương pháp truyền thống trong các nhà trường phương Đông
và phương Tây, ngày xưa cũng như ngày nay. Các GV giàu kinh nghiệm đều khẳng định vai
trò của đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm bắt đầu đòi hỏi sự cảm thụ chứ không dừng lại ở việc thể
hiện cảm xúc mà có cả sự hiểu biết của người đọc, sự tri âm của tác giả Người đọc phải thể
hiện tác phẩm, cá tính sáng tạo của mình có thể rất khác nhau, thậm chí cả giai điệu, nhịp
điệu, ngữ điệu
Với thể loại thơ trữ tình, sinh mệnh của nó chính là âm điệu. Bởi thế cho nên trong
quá trình dạy đọc - hiểu văn bản, GV cần quan tâm hàng đầu tới việc đọc, đọc cho "vang

nhạc, sáng hình". Phương pháp đọc diễn cảm có một vị trí đặc biệt quan trọng, gần như chủ
công, thiếu nó hoặc chưa đúng liều lượng thì xem như giờ học văn bản thơ trữ tình chỉ có xác
mà không có hồn. Tác phẩm trữ tình "xao động", "phập phồng" sau mỗi câu chữ chỉ nhờ âm
điệu thì nhà thơ, người dạy, người học mới cộng hưởng được với nhau "và nó trở thành"
tiếng nói đồng ý đồng tình" (Tố Hữu).
Do thời gian trên lớp rất hạn chế, trong quá trình giảng dạy phần đọc hiểu các tác
phẩm trữ tình ở phần đọc thêm, GV cần phải phát huy tối đa ý nghĩa của hoạt động đọc diễn
cảm để tạo được những ấn tượng ban đầu, những rung cảm xúc động thẩm mĩ đầu tiên trong
một bầu không khí văn chương để thu hút lôi cuốn HS. Đọc không chỉ dừng lại trên bề mặt
câu chữ mà phải thâm nhập vào văn bản, nắm bắt và hình dung trong đầu một cách tổng quát
về văn bản, bố cục, lôgic bài học cũng như đề tài, chủ đề của văn bản. Không chỉ vậy, GV
còn cần chú ý hướng dẫn cách đọc cho HS để tiếp tục thực hành tự đọc diễn cảm ở nhà. HS
phải thuộc, phải nhớ được và thể hiện tác phẩm bằng giọng điệu riêng của mình.
Mỗi yếu tố từ thể thơ, bố cục, nhịp điệu, giọng điệu đến thanh điệu và các biện pháp
nghệ thuật đều là những tác nhân kích thích mạnh vào tâm hồn của người thưởng thức tạo
nên một ấn tượng riêng trong chất thơ. Việc đọc diễn cảm bài thơ là con đường ngắn nhất để
đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
3.2.2. Phương pháp đặt câu hỏi.
Hướng dẫn HS đọc - hiểu qua việc xây dựng một hệ thống những câu hỏi để kiểm tra,
phát hiện mức độ nhận thức năng lực tư duy của HS về tác phẩm cũng là một phương pháp
quan trọng cần được ứng dụng triệt để và sáng tạo trong quá trình hướng dẫn HS tiếp nhận
các văn bản trong chương trình Ngữ văn .
Trong quá trình xây dựng hệ thống các câu hỏi, GV phải chú ý quán triệt những
nguyên tắc sau:
- Hệ thống câu hỏi phải bám sát vào văn bản, tập trung vào giá trị độc đáo của tác phẩm và có
cách diễn đạt trong sáng.
- Hệ thống câu hỏi phải tập trung kích thích được trí thông minh, tư duy sáng tạo của HS, tức
là phải tập trung chú ý vào loại câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi tìm tòi phát hiện.
- Hệ thống câu hỏi vừa phải vạch ra được quá trình phân tích, cắt nghĩa, bình giá tác phẩm,
vừa phải nêu ra được những nhận thức về tri thức cũng như tác dụng của tác phẩm đối với

HS.
- Hệ thống câu hỏi phải giúp HS hình thành được những phương pháp và kĩ năng tự đọc, tự
khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. Câu hỏi phải đảm bảo tính khoa học, tính hệ
thống, tính nghệ thuật, tính sư phạm và phải phù hợp với quy luật tiếp nhận tác phẩm văn
chương.
Đối với việc đọc - hiểu các tác phẩm thơ trữ tình thuộc phần đọc thêm trong chương
trình Ngữ văn lớp 12, GV nên khai thác triệt để hệ thống câu hỏi trong phần hướng dẫn đọc
thêm. Các câu hỏi này bám sát những vấn đề trong bài học từ dễ đến khó. Hệ thống câu hỏi
này sẽ có tác dụng dẫn dắt các em từng bước khám phá các giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó
GV có thể bổ sung thêm các câu hỏi cảm xúc, hình dung tưởng tượng. Đặc biệt cần khai thác
vốn kiến thức sẵn có của các em để đưa ra những câu hỏi mang tính so sánh tổng hợp.
3.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là một phương pháp có hiệu quả trong việc phát huy tính chủ động,
sáng tạo của HS trong giờ tiếp nhận tác phẩm văn chương. Người dạy với vai trò tổ chức và
điều khiển các thành viên trong lớp trao đổi ý kiến và tư tưởng của mình về một vấn đề được
đặt ra trong bài học, qua đó đạt được mục đích dạy học. Phương pháp thảo luận nhóm được
tổ chức bằng nhiều hình thức, có thể theo nhóm, theo tổ, theo lớp. GV có thể tổ chức thảo
luận về những vấn đề xoay quanh tác phẩm đang học bằng cách đưa ra câu hỏi trước giao cho
các nhóm, các tổ để chuẩn bị trước ở nhà đồng thời GV có những hướng dẫn về các nguồn tài
liệu mà HS phải tìm hiểu để phục vụ cho việc trả lời các câu hỏi đó. Như thế, HS sẽ phát huy
được tính chủ động, tích cực và tính tự học của mình - một yêu cầu rất cần thiết đối với HS
hiện nay.
3.2.5. Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
Mục tiêu của việc kiểm tra, đánh giá là để: Đánh giá đúng thực chất trình độ, năng
lực người học, kết quả kiểm tra, thi đủ độ tin cậy để xét lên lớp; tạo động lực đổi mới PPDH
góp phần nâng cao chất lượng dạy học; giảm áp lực thi cử, tạo thuận lợi và đảm bảo tốt hơn
lợi ích của người học. Công cụ, phương tiện chủ yếu của đánh giá là kiểm tra và hình thức
thông dụng là trắc nghiệm. Trắc nghiệm có hai hình thức cơ bản là trắc nghiệm tự luận (tự
luận) và trắc nghiệm khách quan (trắc nghiệm).
Trong dạy học phần đọc thêm, GV có thể linh hoạt đưa những câu hỏi trắc nghiệm

đầu giờ học để kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS, hoặc lúc cuối giờ nhằm củng cố giá trị nội
dung, nghệ thuật của bài học
3.3. Hoạt động tổ chức dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chƣơng
trình Ngữ văn lớp 12.
3.3.1. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà.
Để phát huy được tính tích cực của HS, khâu chuẩn bị vô cùng quan trọng, các em HS
phải rất tự giác trong việc chuẩn bị. Nhưng muốn làm được tốt thì các tiết học trước phải có
sự hướng dẫn các em chu đáo, GV cần hướng dẫn HS tự đọc - hiểu trước ở nhà như sau:
3.3.1.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với SGK.
* Quan niệm về SGK.
Một công cụ không thể thiếu trong quá trình tự học của HS là SGK. Việc sử dụng
SGK có hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc nắm vững kiến thức nói chung và phát
huy tính tích cực tự giác của HS.
* Hướng dẫn HS sử dụng SGK trong phần đọc thêm.
Để sử dụng SGK học tập đạt kết quả tốt, người GV cần đề ra những nhiệm vụ học tập
cụ thể cho HS đối với việc đọc hiểu văn bản đọc thêm.
- Hướng dẫn HS tự đọc văn bản và trả lời các câu hỏi.
+ Đọc văn bản: Đọc là một lao động sáng tạo mang tính nghệ thuật. Hoạt động đọc có tác
dụng đánh thức hệ thống kí hiệu trong văn bản, làm cho các kí hiệu trở nên sinh động với
những ý nghĩa, giá trị mới. Đọc là một phương pháp tiếp nhận nghệ thuật một cách sáng tạo.
Khi tiếp xúc với văn bản một cách nghiêm túc và có mục đích thì sẽ đánh thức được ở HS
những tiềm năng có sẵn ở liên tưởng, tưởng tượng
+ Trả lời các câu hỏi trong SGK: Ngoài văn bản được trích đọc, trong SGK còn có hệ thống
các câu hỏi hướng dẫn đọc thêm. Vì vậy bên cạnh việc nắm vững nội dung, bố cục văn bản,
HS cần nghiên cứu để giải quyết hết số câu hỏi trong SGK. Quá trình tự trả lời câu hỏi chính
là quá trình HS bước đầu tự mình khám phá, phân tích, cắt nghĩa cả nội dung lẫn hình thức
của văn bản thơ.
3.3.1.2. Hướng dẫn HS thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu có liên quan tới các văn bản đọc
thêm.
Bên cạnh việc đọc hiểu SGK, trong quá trình dạy học các bài đọc thêm, GV còn cần

hướng dẫn HS sưu tầm các tài liệu liên quan tới văn bản. Việc sưu tầm này giúp các em có
một vốn kiến thức sâu rộng và cũng để các em nắm được vấn đề bài học bền vững, chắc chắn
nhất, góp phần nâng cao tầm văn hóa của các em. Việc sưu tầm tài liệu diễn ra ngoài giờ vì
vậy đòi hỏi HS phải có tính tự giác cao, một lòng ham mê học hỏi và quan trọng hơn là phải
biết cách đọc, biết cách lựa chọn tài liệu phục vụ bài học.
Để giúp các em HS tự tìm kiếm tài liệu, đọc tích lũy kiến thức có hiệu quả, giáo viên
có thể hướng dẫn các em phương pháp đọc như sau:
- Không đọc tràn lan, gặp gì đọc nấy mà cần phải lựa chọn những cuốn sách, bài báo hay
thuộc phạm vi mình quan tâm, đọc các tài liệu tham khảo mà các thầy cô giáo giới thiệu. Đối
với tài liệu có giá trị phỉa đọc kĩ, nắm bắt tư tưởng chủ chốt, phát hiện được vấn đề, biết ghi
nhớ và chịu khó suy nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng bởi đọc không chỉ tích lũy tư liệu mà còn
tích lũy tư tưởng, ý kiến cho chính mình.
- Sách báo có nhiều loại, muốn đọc có hiệu quả cần chú ý phương pháp đọc. Đầu tiên là phải
đọc lướt. Chỗ nào cần quan tâm mới đọc kĩ, đọc sâu, nắm bắt tư tưởng, vấn đề được đặt ra
trong tài liệu đó. Cách này phải đọc đi đọc lại nhiểu lần, tiến hành phân tích, suy nghĩ. Bên
cạnh đó còn có lối đọc trắc nghiệm, đọc đoạn đầu một cuốn sách, bài văn thử dự đoán kết
luận rồi so sánh với cách kết thúc, kết luận của cuốn sách, bài văn xem dự đoán của mình có
đúng không.
- Kết quả đọc có thể đem lại cho HS những vấn đề buộc phải tiếp tục suy nghĩ. HS cần ghi
vào sổ tay những trích đoạn hoặc từ ngữ quan trọng để vận dụng, phát huy. Các em cũng cần
tích lũy những ý văn, ý thơ sâu sắc có thể làm châm ngôn sống hoặc những câu danh ngôn,
ngạn ngữ trong kho tàng trí tuệ nhân loại và từ những tư liệu ấy mà suy ra những ý mới của
mình hay có thể mài sắc thêm ý kiến của mình trên ý kiến của người đi trước. Có như vậy,
việc đọc tích lũy kiến thức mới có ý nghĩa với các em HS.
3.3.2. Hoạt động tạo tâm thế.
Tạo tâm thế cho HS là vấn đề quan trọng trong dạy học, đặc biệt trong dạy học văn.
Đối với giờ hướng dẫn đọc thêm, hoạt động tạo tâm thế không chỉ tạo hứng thú mà còn có tác
dụng nối kết với văn bản trước trong một hệ thống đề tài hoặc thể loại.
Tạo tâm thế cho HS khi tiếp nhận tác phẩm văn chương còn thể hiện ở lời dẫn dắt vào
bài của GV. Làm thế nào gây được sự kích thích, sự hứng khởi để HS cuốn vào bài học mà

phải thỏa mãn "đủ", "đúng", "trúng", "hay"? Điều này quả không dễ.
3.3.3. Hoạt động đọc - hiểu.
3.3.3.1. Đọc - hiểu phần tiểu dẫn và chú thích.
Trong đọc - hiểu phần tiểu dẫn và chú thích, cần lưu ý hai loại kiến thức:
*Loại 1: Những kiến thức về tác giả, tác phẩm.
Phần này GV chỉ hướng dẫn HS tìm được yếu tố nào trong cuộc đời của tác giả đã
ảnh hưởng và chi phối sâu sắc đến quá trình thai nghén tác phẩm. Đây là yếu tố quan trọng để
giúp các em hiểu sâu nội dung tác phẩm.
*Loại 2: Loại chú thích về từ ngữ và các điển tích.
Phần này chỉ hướng dẫn các em tìm hiểu và nắm từ ngữ khó, điển tích khó với mục
đích giúp các em khai thông - giải mã văn bản bước đầu.
3.3.3.2. Đọc - hiểu văn bản.
Bước 1: Tri giác hình tượng ngôn ngữ
Đọc diễn cảm để nắm vững giọng điệu của tác phẩm, làm sống dậy tâm tư, tình cảm
mà tác giả gửi gắm, giãi bày trong đó đồng thời xác định được thể loại, bố cục và hình tượng
thơ.
Bước 2: Đọc với sức mạnh của hồi ức, liên tưởng, tưởng tượng để cẩm nhận ý nghĩa của hình
tượng nghệ thuật. Một hình tượng nghệ thuật thường có nhiều lớp nghĩa, người đọc phải hình
dung cụ thể và chính xác các tình cảnh để hiểu điều ngôn ngữ biểu đạt, khám phá lôgic bên
trong của hình tượng thì mới hiểu được điều tác giả muốn viết và cái hay của lời văn. Đối với
thể loại thơ trữ tình thường có hai hình tượng: hình tượng khách thể là bức tranh cuộc sống
được tái tạo lại bằng cảm xúc của nhà thơ với các chặng đường phát triển của nó, hình tượng
chủ thể trữ tình là mạch cảm xúc và suy tư của nhà thơ được bộc lộ trực tiếp qua ngôn từ,
hình ảnh, kết cấu và các chặng đường phát triển của nó. Cần đọc - hiểu để thấy rõ hai hình
tượng đó nương tựa vào nhau, đan xen nhau trong mỗi bài thơ.
Bước 3: Đọc - hiểu tư tưởng, tình cảm tác giả trong văn bản.
Nhà văn sáng tác văn học bao giờ cũng nhằm thể hiện tư tưởng tình cảm, đó là linh
hồn của tác phẩm. Vì vậy, nội dung kiến thức cần nắm được phải là tư tưởng, tình cảm của
nhà văn ẩn chứa trong văn bản. Tuy nhiên, tư tưởng, tình cảm của tác giả không được thể
hiện trực tiếp bằng lời, do đó người học cần bằng thao tác so sánh, khái quát, tổng hợp để xác

định từng bước tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Xác định được chủ đề, người đọc trở lại soi sáng cho việc lựa chọn bình giá những
hình ảnh sự việc, những thủ pháp nghệ thuật đắt nhất được nội dung hóa cao nhất. Dưới ánh
sáng của chủ đề, ta thấy nổi bật hơn trong nghệ thuật kết cấu đối lập của bài thơ điều tác giả
định nói. Thông qua hệ thống câu hỏi (hai hoặc ba câu) GV định hướng để HS tự tổng kết rút
ra đặc sắc giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm và giúp các em chắt lọc, tự ghi lại nội
dung cơ bản nhất của phần tổng kết.
Như vậy, vai trò của GV trong phần hướng dẫn đọc - hiểu văn bản là vừa hướng dẫn,
vừa tổ chức cho HS hoạt động tìm hiểu, và còn là thư kí chắt lọc - ghi lại kết quả tự tìm hiểu
của từng cá nhân - tập thể lớp, giúp đỡ HS với tinh thần góp thêm một cách hiểu để định
hướng và làm phong phú thêm kết quả cảm thụ cho các em.
3.3.4. Hướng dẫn HS tiếp tục học ở nhà.
Đối với loại bài hướng dẫn học thêm có ý nghĩa quan trọng, phần này giúp các em
nắm chắc hơn những điều đã được hướng dẫn ở lớp, trên cơ sở đó đi sâu tìm hiểu thêm những
vấn đề chưa được thầy giáo và bạn học đề cập đến, vì vậy nên GV cần hướng dẫn các em tiếp
tục tự mình đọc thêm tác phẩm ở nhà một cách cụ thể và với mục đích rõ ràng, tránh hình
thức qua loa, chiếu lệ.
3.4. Thiết kế giáo án thể nghiệm.
3.4.1. Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên (Lớp 12 - chương trình chuẩn).
3.4.2. Đò Lèn - Nguyễn Duy (Lớp 12 - chương trình chuẩn).
3.5. Thực nghiệm sƣ phạm.
3.5.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sư phạm.
3.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm.
* Đối tượng thực nghiệm: Văn bản Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) và Đò Lèn (Nguyễn
Duy) nằm trong chương trình Ngữ văn 12.
* Địa bàn thực nghiệm.
- THPT Ngô Quyền - quận Lê Chân, Hải Phòng.
- THPT Thái Phiên - quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
3.5.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm.
3.5.4. Nội dung thực nghiệm.

Tôi thiết kế hai giáo án thử nghiệm trong chương trình Ngữ văn 12:
- Giáo án 1: Văn bản Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên - 01 tiết (SGK Ngữ văn 12, chương
trình chuẩn).
- Giáo án 2: Văn bản Đò Lèn của Nguyễn Duy - 01 tiết (SGK Ngữ văn 12, chương trình
chuẩn).
3.5.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Đối với HS: Kết quả làm bài trắc nghiệm của HS sau giờ học áp dụng phương pháp dạy học
tác phẩm trữ tình phần đọc thêm theo hướng tự học có hướng dẫn cho thấy phương pháp này
bước đầu đã đem lại hiệu quả tốt, nâng cao khả năng tiếp nhận của HS.
- Đối với GV: Thời gian thực hiện mỗi giáo án là gần 45 phút. Hoạt động của GV và hoạt
động của HS đều được chủ động, mỗi bài học đã được vận dụng phương pháp dạy học mới,
thầy giáo có vai trò là người hướng dẫn, điều khiển để HS tự khám phá giá trị văn bản, hình
thành phương pháp kĩ năng.
Kết quả thực nghiệm như vậy cho thấy tính khả thi của việc ứng dụng đề tài: Dạy học
phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng
tự học có hướng dẫn. Tuy nhiên, để phương án dạy học này đem lại hiệu quả như mong
muốn, đòi hỏi mỗi GV phải nỗ lực, tâm huyết với nghề, không chỉ có kiến thức mà còn có tài
năng sư phạm để giúp HS có phương hướng đúng trong việc tiếp cận, chiếm lĩnh tác phẩm
văn chương trong chương trình THPT.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Luận văn của tôi được thực hiện trên cơ sở nhận thức đúng đắn về việc phát huy tính độc
lập tự chủ, tự giác của HS vào dạy học tác phẩm văn chương nói chung, dạy học văn bản đọc
thêm nói riêng, đáp ứng đòi hỏi của việc đổi mới phương pháp dạy học văn. Đồng thời luận
văn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm văn chương, nhằm phát huy được tiềm
năng sáng tạo để HS tự làm việc, tự tiếp nhận và chiếm lĩnh chiều sâu tác phẩm văn học.
2. Để phát huy hơn nữa hiệu quả của việc dạy học phần đọc thêm tác phẩm thơ trữ tình trong
chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn, tôi đưa ra một số khuyến nghị
sau:
- Đối với GV: Mỗi GV cần phải tu dưỡng, rèn luyện năng lực nghiên cứu, năng lực xây dựng,

thiết kế, năng lực tổ chức các hoạt động học tập và giảng dạy, năng lực giao tiếp.
- Đối với HS: Cần trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về thể loại thơ trữ tình, có ý
thức chủ động tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm theo những phương pháp mới.
- Đối với nhà quản lý: Xây dựng những bài giảng mẫu, áp dụng các PPDH tích cực, tạo điều
kiện cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường. Khuyến
khích, động viên kịp thời các GV tích cực đầu tư đổi mới PPDH, sử dụng các phương tiện
dạy học hiện đại vào dạy học.
Tuy vậy, luận văn vẫn có những hạn chế mà tôi chưa khắc phục được vì chương trình
và SGK mới được đưa vào thực thi, việc tìm hiểu tình hình dạy học hai văn bản này chưa thật
đầy đủ như tôi mong muốn, việc khảo sát việc dạy học của thầy và trò còn hạn chế. Tôi hi
vọng từ những kết quả đạt được của đề tài sẽ giúp cho GV có kinh nghiệm khoa học bổ ích
trong việc tiếp cận tác phẩm văn chương trong nhà trường.



References
1. Aristote. Nghệ thuật thơ ca. Nxb Văn hoá Nghệ thuật Hà Nội, 1964.
2. Aistote. Nghệ thuật thơ ca. Nxb Văn học, 1999.
3. Đỗ Hữu Châu. Đại cương ngôn ngữ học, tập II: Ngữ dụng học. Nxb Quốc gia, 2001.
4. Nguyễn Viết Chữ. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể). Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, 2001.
5. Nguyễn Viết Chữ. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường. Nxb
Giáo dục, 2009.
6. Trần Thanh Đạm (chủ biên). Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Nxb
Giáo dục, 1971.
7. Phạm Văn Đồng. "Dạy văn là một quá trình toàn diện", Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số
28, 1973.
8. Phạm Văn Đồng. Phương pháp tự học và lòng ham học đó là cái quý nhất, Tạp chí Tự
học, số 9, 1973.
9. Hà Minh Đức (chủ biên). Lí luận văn học. Nxb Giáo dục, 2002.

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2000.
11. Đỗ Đức Hiểu. Thi pháp hiện đại. Nxb Hội Nhà văn, 2000.
12. Nguyễn Trọng Hoàn. Rèn tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương. Nxb
Giáo dục, 2002.
13. Nguyễn Thanh Hùng. Hiểu văn dạy văn. Nxb Giáo dục, 2005.
14. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng. Dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001.
15. M. Gorki. Bàn về văn học. Nxb Văn học Hà Nội, 1965.
16. Phan Trọng Luận (chủ biên). Phương pháp dạy học văn. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
1996.
17. Phan Trọng Luận. Tự học - Chìa khóa vàng. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 2/1989.
18. Phan Trọng Luận. Văn học nhà trường nhận diện - tiếp cận - đổi mới. Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2009.
19. Phƣơng Lựu (chủ biên). Lí luận văn học, tập II. Nxb Giáo dục, 1986.
20. Đỗ Mƣời. Thư gửi hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày
6/01/1998.
21. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội. Một số vấn đề về phương pháp dạy - học văn trong
nhà trường. Nxb Giáo dục, 2001.
22. Rubakin. Tự học như thế nào (Bản dịch của Nguyễn Đình Côi). Nxb Giáo dục, 1992.
23. Trần Đình Sử (chủ biên). Lí luận văn học, tập II. Nxb Đại học Sư phạm, 2009.
24. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên). Hệ thống đề mở Ngữ văn 12. Nxb Giáo dục, 2009.
25. Nguyễn Cảnh Toàn. Nghiên cứu và phát triển tự học. Đề tài Nghiên cứu khoa học in nội
bộ năm 2001.
26. Nguyễn Cảnh Toàn. Tuyển tập các tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu tập I.
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
27. Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nxb Chính trị Quốc gia.
28. SGK Văn học 10, 11,12 (chỉnh lí hợp nhất). Nxb Giáo dục, 2000.
29. SGV Văn học 10, 11,12 (chỉnh lí hợp nhất). Nxb Giáo dục, 2000.
30. SGK Ngữ văn 10, 11, 12 chương trình chuẩn, trọn bộ 2 tập. Nxb Giáo dục, 2007.

31. SGV Ngữ văn 10, 11, 12 chương trình chuẩn, trọn bộ 2 tập. Nxb Giáo dục, 2007.
32. SGK Ngữ văn 10, 11, 12 chương trình nâng cao, trọn bộ 2 tập. Nxb Giáo dục, 2007.
33. SGV Ngữ văn 10, 11, 12 chương trình nâng cao, trọn bộ 2 tập. Nxb Giáo dục, 2007.
34. Zla-Rezzia (Phan Thiều). Phương pháp luận dạy văn học. Nxb Giáo dục, 1985.






×