Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫN TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.07 KB, 29 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





NGUYỄN THU ĐÔNG




DẠY HỌC PHẦN ĐỌC THÊM CÁC TÁC PHẨM
THƠ TRỮ TÌNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12
THEO HƯỚNG TỰ HỌC CÓ HƯỚNG DẪN




LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN


Ngành: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Mã số: 60 14 10






HÀ NỘI - 2012

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






NGUYỄN THU ĐÔNG




DẠY HỌC PHẦN ĐỌC THÊM CÁC TÁC PHẨM
THƠ TRỮ TÌNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12
THEO HƯỚNG TỰ HỌC CÓ HƯỚNG DẪN



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Mã số: 60 14 10





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Khánh Thành





HÀ NỘI - 2012

6
Môc lôc

Lời cảm ơn
i
Danh mục các chữ viết tắt
ii
Danh mục các bảng
iii
3.1. Mục đích
3
3.2. Nhiệm vụ
3
5. Phương pháp nghiên cứu
4
6. Cấu trúc luận văn
4
1.1.1. Học trên lớp
5
1.1.2. Thảo luận tập thể
6

1.1.3. Học tập ở nhà hay tự học
6
1.2.1. Hoạt động tự học
6
1.2.1.1. Khái niệm tự học
6
1.2.1.2. Vai trò của tự học
8
1.2.1.3. Các năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho học sinh
10
1.2.1.4. Hệ thống kỹ năng tự học
13
1.2.1.5. Chu trình tự học của học sinh
13
1.2.1.6. Các hình thức tự học
14
1.2.2. Dạy tự học có hướng dẫn
15
1.2.2.1. Một số quan niệm về dạy cách học
15
1.2.2.2. Dạy tự học có hướng dẫn
16
1.3.1. Quan niệm về loại thể và việc phân chia loại thể
20
1.3.1.1. Quan niệm về loại thể
20
Phần mở đầu trang
1
1. Lí do chọn đề tài
1

2. Lịch sử vấn đề
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
4.1. Đối tượng
3
4.2. Phạm vi khảo sát
3
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
5
1.1. Các hình thức tổ chức dạy học
5
1.2. Hoạt động tự học và hình thức dạy tự học có hướng dẫn
6
1.3. Thể loại thơ trữ tình và hoạt động đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình
trong chương trình Ngữ văn bậc THPT
20

7
1.3.1.2. Sự phân chia loại thể
21
1.3.2. Thể loại thơ trữ tình
24
1.3.2.1. Định nghĩa
24
1.3.2.2. Những đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình
25
1.3.3. Hoạt động đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn

bậc THPT
26
1.3.3.1. Hoạt động đọc - hiểu văn bản văn học trong môn Ngữ văn bậc
THPT
26
1.3.3.2. Dạy đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình theo đặc trưng loại thể
28
3.1. Về nguyên tắc
54
3.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
54
3.1.2. Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình theo quan điểm tích
hợp
55
3.1.3. Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình theo đặc trưng loại
thể
55
3.1.4. Rèn năng lực quy chiếu ngữ cảnh cho học sinh
57
3.1.5. Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mỹ và giao tiếp xã hội cho học sinh
58
3.2. Vận dụng một số phương pháp thích hợp vào dạy học phần đọc
thêm các tác phẩm thơ trữ tình
59
3.2.1. Phương pháp đọc diễn cảm
59
3.2.2. Phương pháp đặt câu hỏi
64
3.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm
69

3.2.5. Phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
70
3.3. Hoạt động tổ chức dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
trong chương trình Ngữ văn lớp 12
72
3.3.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà
72
Chương 2: Thực trạng dạy - học phần đọc thêm tác phẩm thơ trữ tình
trong chương trình ngữ văn lớp 12
31
2.1. Vị trí của phần đọc thêm trong chương trình Ngữ văn bậc THPT
31
2.2. Những thuận lợi, khó khăn khi dạy- học phần đọc thêm các tác
phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12
37
2.2.1. Khảo sát văn bản thơ trữ tình phần đọc thêm trong chương trình Ngữ
văn lớp 12
37
2.2.1.1. Tính trữ tình và chủ thể trữ tình
37
2 .2.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ
40
2.2.2. Khảo sát tư liệu dạy - học
43
2.2.3. Khảo sát về đối tượng dạy và học
51
Chương 3: Đề xuất một số phương pháp dạy - học phần đọc thêm các
tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12
54


8
3.3.1.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với SGK
73
3.3.1.2. Hướng dẫn học sinh thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu có liên quan
tới các văn bản đọc thêm
80
3.3.2. Hoạt động tạo tâm thế
82
3.3.3. Hoạt động đọc - hiểu trên lớp
84
3.3.3.1. Đọc - hiểu phần tiểu dẫn và chú thích
84
3.3.3.2. Đọc - hiểu văn bản
85
3.3.4. Hướng dẫn học sinh tiếp tục học ở nhà
89
3.4. Thiết kế giáo án thể nghiệm
90
3.4.1. Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên (Lớp 12 - chương trình chuẩn
90
3.4.2 . Đò Lèn - Nguyễn Duy (Lớp 12 - chương trình chuẩn)
96
3.5. Thực nghiệm sư phạm
100
3.5.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm sư phạm
101
3.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
101
3.5.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm
101

3.5.4. Nội dung thực nghiệm
101
3.5.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
102
Kết luận và khuyến nghị
105
Tài liệu tham khảo
107
Phụ lục
109
Phụ lục 1
109
Phụ lục 2
113
Phụ lục 3
114
Phụ lục 4
115
Phụ lục 5
116
Phụ lục 6
117
Phụ lục 7
118











3
TÓM TẮT LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của xã hội hiện đại ngày nay đã đặt
ra nhiều nhu cầu mới về nguồn nhân lực của đất nước. Tại Hội nghị lần thứ II BCH
TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VIII đã thông qua Nghị quyết số 02 -
NQ/HNTW về chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và
nhiệm vụ đến năm 2000 nêu rõ: "Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người HS,
từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá
trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và
rộng khắp trong toàn dân, nhất là trong thanh niên" [35]. Đáp ứng yêu cầu đó, hoạt
động đổi mới giáo dục đã, đang diễn ra một cách sôi nổi, rộng khắp ở các trường
phổ thông hiện nay trong đó trọng tâm là đổi mới phương pháp dạy học, thay đổi lối
học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm
giúp HS phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS. Làm thế
nào để người học tự chiếm lĩnh tri thức, phát huy vai trò của chủ thể trong việc phân
tích tác phẩm là một yêu cầu đã, đang được đặt ra đối với mỗi GV nói chung và GV
dạy môn Ngữ văn nói riêng. Dạy HS tự học có hướng dẫn được đánh giá là một
trong những hình thức tối ưu trong hệ thống các hình thức dạy học tích cực hiện
nay.
Với chương trình Ngữ văn lớp 12, bên cạnh 5 tác phẩm thơ được đưa vào
giảng dạy chính khóa còn có 5 tác phẩm được trích đọc trong phần đọc thêm không
chỉ góp phần làm giàu kiến thức văn học cho HS mà còn có một vị trí quan trọng

trong việc rèn kĩ năng, phương pháp tự đọc - hiểu một văn bản văn học, hình thành
nên một "văn hóa đọc" cho các em. Tuy nhiên, dung lượng thời gian giảng dạy trên
lớp dành cho các tác phẩm này rất hạn chế, chỉ là một phần đan xen thêm trong quá
trình giảng dạy chính khóa tạo ra nhiều khó khăn cho hoạt động dạy học. Làm thế

4
nào để phát huy được khả năng tự học, tự đọc- hiểu các văn bản thơ trữ tình trong
phần đọc thêm theo đúng yêu cầu đặc trưng loại thể là vấn đề rất nhiều GV trăn trở.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài Phương pháp dạy học phần đọc thêm
các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học
có hướng dẫn.
2. Lịch sử vấn đề.
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và dạy tác phẩm thơ trữ tình
nói riêng đã được nghiên cứu từ lâu, có thể kể tới những công trình như: Cuốn sách
Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông của V.Anhikonski khẳng định
"HS là độc giả tác phẩm văn học" và "quá trình đọc các tác phẩm văn học là một
quá trình sáng tạo". Tác giả cuốn giáo trình Phương pháp luận dạy văn học do Zla-
Rezzia chủ biên, đã đặt phương pháp tập đọc sáng tạo ở vị trí hàng đầu như là
phương pháp đặc biệt nhất đối với văn học nhằm phát triển cảm thụ nghệ thuật, hình
thành những thể nghiệm nghệ thuật, những khuynh hướng và năng khiếu nghệ thuật
cho học sinh bằng phương diện nghệ thuật. Cuốn Phương pháp dạy học văn của các
tác giả Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt đã
trang bị cho GV những kiến thức vững chắc có hệ thống về phương pháp luận bộ
môn. Cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể của các tác giả Trần
Thanh Đạm, Huỳnh Lí, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn và Đàm Gia Cẩn - Nxb Giáo
dục, 1971, đã giúp GV thuận tiện hơn khi tiếp cận tác phẩm văn học từ đặc trưng
loại thể. Tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương (theo loại thể) - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, đưa ra phương pháp
dạy học tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, tác phẩm văn học nước ngoài, tuy nhiên
các phương pháp phù hợp với việc giảng dạy các bài đọc thêm trong chương trình

với dung lượng thời gian rất hạn hẹp thì chưa được đề cập đến một cách cụ thể, chi tiết.
Riêng về vấn đề dạy HS tự học trong bộ môn Ngữ văn, ngay từ năm 1973
Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói "Tôi nghĩ rằng mục đích của việc dạy văn là
rèn luyện cho HS có ý thức, từ đó có cố gắng rồi có khả năng tự mình suy nghĩ, suy
nghĩ nhiều, suy nghĩ sâu về những điều mình muốn viết và lúc nói phải diễn tả ý của
mình sao cho trung thành, sáng sủa, chặt chẽ, chính xác, hay" [7]. Tại Hà Nội năm
1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên cứu tự học – tự đào tạo” đã

5
được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều GS đầu ngành nhằm
nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành phải chăm lo xây
dựng phong trào tự học toàn dân. Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số 2 năm 1998 đã
đặc biệt quan tâm đăng tải một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo: “Tự học – chìa
khoá vàng của giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, “Vì năng lực tự học sáng tạo
của HS” của Nguyễn Nghĩa Dân…Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất
hiện như “Tôi tự học” – Nguyễn Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” –
Nguyễn Hiến Lê, “Luận bàn và kinh nghiệm tự học” – GS. Nguyễn Cảnh Toàn
Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho ra mắt bạn đọc tạp chí
“Tự học”. Tuy vậy, các cuốn sách và bài viết hầu như mới chỉ dừng lại ở phần lý
thuyết chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các biện pháp cụ thể đối với
môn Ngữ văn.
Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của những người đi trước, tôi muốn tìm hiểu
và đề xuất vấn đề cụ thể hơn: Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích.
Từ việc tìm hiểu đặc trưng thể loại cùng các phương pháp dạy học tích cực,
trên cơ sở thực tế giảng dạy phần đọc thêm, luận văn đề xuất một số phương pháp
dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12
theo hướng tự học có hướng dẫn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy các

bài đọc thêm nói riêng và rèn năng lực tự học, tự nghiên cứu trong bộ môn Ngữ văn
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ.
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát việc dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình
Ngữ văn lớp 12.
- Đề xuất những phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.

6
- Hiện thực hóa các phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình
trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn bằng các giáo
án thể nghiệm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng.
Đối tượng mà đề tài hướng tới là những phương pháp dạy học phần đọc thêm
các tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có
hướng dẫn.
4.2. Phạm vi.
- Văn bản thơ Bên kia sông Đuống (trích) của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn
Đình Thi, Dọn về làng của Nông Quốc Chấn, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên,
Đò lèn của Nguyễn Duy, Bác ơi! của Tố Hữu - SGK Ngữ văn lớp 12.
- GV và HS trường THPT Ngô Quyền - quận Lê Chân, Hải Phòng; GV và HS
trường THPT Thái Phiên - quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
- Sử dụng các phương pháp điều tra, thực nghiệm sư phạm
6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được trình bày trong 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong
chương trình Ngữ văn lớp 12.
- Chương 3: Đề xuất một số phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ
trữ tình theo hướng tự học có hướng dẫn.


7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Các hình thức tổ chức dạy học.
1.1.1. Học trên lớp.
GV tiến hành dạy cho một số lượng HS nhất định có cùng trình độ, ở một địa
điểm, một không gian và trong một khoảng thời gian nhất định, thực hiện một đơn
vị bài học nhất định nhằm thực hiện một số mục tiêu dạy học cụ thể.
1.1.2. Thảo luận tập thể.
Thảo luận tập thể là một hình thức tổ chức dạy học trong đó GV tổ chức cho
HS thảo luận, trao đổi với nhau về một chủ đề có liên quan đến nội dung học tập
nào đó. Thông qua sự trao đổi, tranh luận tập thể, có sự cọ sát ý kiến của nhiều
người mà HS rút ra kết luận cần thiết.
1.1.3. Học tập ở nhà hay tự học.
Học tập ở nhà hay tự học là một hình thức tổ chức dạy học trong đó HS tiến
hành hoạt động học tập ngoài giờ học trên lớp bằng sự tự giác và nỗ lực học tập của
cá nhân, theo một kế hoạch đặt ra mà không có GV dạy trực tiếp.
1.2. Hoạt động tự học và hình thức dạy tự học có hƣớng dẫn.
1.2.1. Hoạt động tự học.
1.2.1.1. Khái niệm.
Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh
tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống, bằng hành động của chính mình

nhằm đạt được mục đích nhất định.
1.2.1.2. Vai trò của tự học.
Tự học có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi con
người, là con đường tự khẳng định của mỗi người.
Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người. Có phương
pháp tự học tốt sẽ đem lại kết quả học tập cao.
Tự học của HS THPT còn có một vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới
giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo ở trường phổ thông.
1.2.1.3. Các năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho HS.

8
* Năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề.
* Năng lực giải quyết vấn đề.
* Năng lực xác định những kết luận đúng.
* Năng lực vận dụng kiến thức (hoặc tự thu nhận thức kiến thức mới).
* Năng lực đánh giá và tự đánh giá.
Năm năng lực trên vừa đan xen nhưng vừa tiếp nối nhau, tạo nên năng lực tự
học ở HS.
1.2.1.4. Hệ thống kỹ năng tự học.
Tuỳ theo môn học mà HS có những kĩ năng tự học phù hợp. Một cách chung
nhất, HS cần phải được rèn luyện các kĩ năng tự học cơ bản sau:
- Biết đọc, nghiên cứu giáo trình và tài liệu học tập, chọn ra những tri thức cơ bản
chủ yếu, sắp xếp hệ thống hoá theo trình tự hợp lí, khoa học.
- Biết và phát huy được những thuận lợi, hạn chế những mặt non yếu của bản thân
trong quá trình học ở lớp, ở nhà, ở thư viện, ở phòng thí nghiệm,
- Biết vận dụng các lợi thế và khắc phục các khó khăn, thích nghi với điều kiện học
tập (cơ sở vật chất, phương tiện học tập, thời gian học tập ).
- Biết sử dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp học tập cho phép để đạt hiệu
quả học tập cao.
- Biết xây dựng kế hoạch học tập trong tuần, tháng, học kì, cả năm

- Biết và sử dụng có hiệu quả các kĩ thuật đọc sách, nghe giảng, trao đổi, thảo luận,
tranh luận, xây dựng đề cương, viết báo cáo, thu thập và xử lí thông tin.
- Biết sử dụng các phương tiện học tập, đặc biệt là công nghệ thông tin.
- Biết phân tích, đánh giá và sử dụng các thông tin.
- Biết kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của bản thân và bạn học.
- Biết vận dụng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.
1.2.1.5. Chu trình tự học của HS.
Chu trình tự học của HS là một chu trình 3 thời:
Thời (1): Tự nghiên cứu.
Thời (2): Tự thể hiện.
Thời (3): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
1.2.1.6. Các hình thức tự học.

9
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
- Tự học hoàn toàn (Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có
sách và sự hướng dẫn của GV).
- Tự học có sách nhưng không có GV bên cạnh. Ở hình thức tự học này có thể diễn
ra ở hai mức:
+ Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy.
+ Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn.
- Tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của GV.
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất
xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ
thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá
trình học tập
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng
dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để
hoàn những yêu cầu do GV đề ra.

1.2.2. Dạy tự học có hướng dẫn.
1.2.2.1. Một số quan niệm về dạy cách học.
- Dạy là truyền đạt thông tin
- Dạy là truyền đạt kiến thức và thái độ đối với kiến thức đó.
- Dạy là giúp cho người học được học tập dễ dàng.
- Dạy là hỗ trợ cho việc học của HS.
Dạy học nói chung và bộ môn Ngữ văn nói riêng cần phải áp dụng những
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để đảm bảo ở mức độ cao nhất tính tích
cực, tự giác của HS, tạo nên hứng thú học tập, năng lực sáng tạo, góp phần cải tiến
phương pháp, thiết bị giảng dạy phù hợp với nội dung mới, phương pháp mới. Việc
dạy và học là hai mặt của một quá trình thống nhất. Việc dạy của GV phải có tác
dụng điều khiển (tổ chức, chỉ đạo, đánh giá) sự học của HS. Dạy tốt là làm cho HS
biết học, biết hỏi do đó sẽ hiểu và biết hành, biết biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo. Sự học của HS sẽ dựa vào việc dạy của GV nhưng nó cũng là quá
trình tự giác, tích cực và tự lực của HS.

10
1.2.2.2. Dạy tự học có hướng dẫn.
Dựa trên những nghiên cứu lí thuyết và thực tiễn, một số tác giả đề xuất tổ
chức quá trình dạy tự học cho HS như sau:
- Tạo ra tình huống để tạo động cơ, nhu cầu, hứng thú nhằm huy động cao độ sức
lực, trí tuệ của HS vào hoạt động sáng tạo.
- GV phân chia nhiệm vụ nhận thức thành hệ thống những nhiệm vụ nhỏ liên tiếp
thuộc vùng phát triển gần của HS.
- HS tự lực hoạt động, áp dụng những phương pháp nhận thức đã biết để thích nghi
với môi trường, vượt qua khó khăn, giải quyết những vấn đề nêu ra.
Thực tiễn ở trường phổ thông hiện nay, để việc học tập của HS hứng thú và
hiệu quả thì hệ thống câu hỏi giữ vai trò rất quan trọng - Trả lời câu hỏi vừa là mục
đích vừa là nội dung lại vừa là phương pháp dạy học hiệu nghiệm. Các câu hỏi này
cung cấp cho HS cả kiến thức, con đường giành lấy kiến thức và cả niềm vui sướng

của sự phát hiện - tìm ra đáp số - một trạng thái hưng phấn - hứng thú nhận thức -
một yếu tố tâm lý góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả của
hoạt động thực tiễn của con người.
1.3. Thể loại thơ trữ tình và hoạt động đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình trong
chƣơng trình Ngữ văn bậc THPT.
1.3.1. Quan niệm về loại thể và việc phân chia loại thể.
1.3.1.1. Quan niệm về loại thể.
Loại thể văn học (người phương Tây gọi là “genre”, người Trung Quốc gọi
là “thể tài”) là một hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học
nào cũng có một hình thể, có một “thể” cấu tạo, thể thức ngôn từ nhất định.
1.3.1.2. Sự phân chia loại thể.
Loại thể văn học là phạm trù phân loại các tác phẩm văn học vốn đa dạng,
đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, theo một số dấu hiệu nhất định.
Các loại thể văn học đã nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi, pha trộn
vào nhau. Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba và cách chia bốn. Cách
chia ba có từ thời cổ đại, từ thời Aristote, văn học được chia làm ba loại: Tự sự, trữ
tình, kịch. Cách chia bốn xuất hiện muộn hơn, chia văn học làm bốn loại: Thơ ca,
tiểu thuyết, kịch, kí.

11
Ở Việt Nam sử dụng cả cách chia ba và cách chia bốn. Cách chia bốn gồm
thơ ca (chỉ chủ yếu là thơ trữ tình), truyện (gồm cả tiểu thuyết và truyện thơ), kịch
và kí. Khái niệm kí nghiêng về các tác phẩm viết về người thật, việc thật, cốt truyện
không được quan tâm như truyện. Loại này cũng bao hàm các tác phẩm văn xuôi
nghệ thuật như tản văn, tùy bút…
Việc phân chia các tác phẩm văn học ra làm ba loại hình cơ bản, như trên đã
nói, là căn cứ vào thiên hướng chủ đạo của phương thức phản ánh và biểu hiện của
tác phẩm. Khi xác định một tác phẩm thuộc loại này hay loại kia là chúng ta căn cứ
vào đặc trưng loại thể chủ đạo của nó mà thôi đồng thời phải thừa nhận khả năng
các yếu tố thuộc loại thể khác vẫn song song tồn tại trong tác phẩm.

1.3.2. Thể loại thơ trữ tình.
1.3.2.1. Định nghĩa về thơ trữ tình.
Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn
gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái
độ, tình cảm của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ
thuật.
1.3.2.2. Những đặc điểm cơ bản của thơ trữ tình.
a. Tính trữ tình và chủ thể trữ tình.
* Tính trữ tình:
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên về
diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Những
rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng
đời sống vào tâm hồn nhà thơ.
* Chủ thể trữ tình:
Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm,
đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể trữ tình.
Trong tác phẩm thơ, chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ
tình của tác phẩm.
b. Đặc điểm ngôn ngữ thơ.
+ Ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình.
+ Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu hiện.

12
1.3.3. Hoạt động đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn bậc
THPT.
1.3.3.1. Hoạt động đọc - hiểu văn bản văn học trong môn Ngữ văn bậc THPT.
Tiếp tục phương châm lấy HS làm trung tâm, phương pháp dạy - học Ngữ
văn đòi hỏi phải biến môn Ngữ văn thành môn dạy kĩ năng đọc - hiểu cho HS đối
với các loại văn bản. Đọc - hiểu văn bản gồm có các cấp độ: đọc thầm, đọc âm vang
và đọc có mục đích.

1.3.3.2. Dạy đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình theo đặc trưng loại thể.
Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm văn
chương. Đối với thể loại thơ trữ tình, để đảm bảo đặc trưng thể loại, cũng như để
nắm bắt được ý nghĩa tác giả muốn biểu đạt, thể hiện sự đồng cảm và hưởng thụ
thẩm mĩ, trong quá trình đọc hiểu cần chú ý một số điểm sau:
1. Do được tổ chức đặc biệt, ngôn từ hàm súc, giàu nhạc điệu, văn bản thơ
cần đọc được ra thành tiếng, chậm rãi, có khi ngâm nga để hình ảnh, nhịp điệu của
văn bản mở ra và đọng lại thành ấn tượng trong tâm trí.
2. Do ý nghĩa của văn bản thơ thường không được thông báo trực tiếp qua lời
thơ cho nên người đọc thơ phải biết cảm nhận, suy đoán, phân tích để tìm đến cái ý
ngoài lời. Cùng với việc cảm nhận đầy dủ sự biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng
tưởng tượng, cảm giác, thể nghiệm, người đọc phải cảm nhận được cái ý mà lời thơ
không trực tiếp nói đến.
3. Trong đọc hiểu văn bản, người đọc phải biết vận dụng ngữ cảnh để hiểu
bài thơ. Biết khai thác sự kiện trong bài thơ để biết bài thơ nói về điều gì, lời thơ
nảy sinh trong tình huống nào. Ngữ cảnh lịch sử, xã hội của bài thơ cũng góp phần
giải thích ý thơ.
4. Do ý nghĩa của bài thơ trữ tình thường phong phú, nhiều bình diện, mỗi
lần đọc thường chỉ cảm nhận được một phần. Vì vậy, thơ hay cần được đọc đi, đọc
lại nhiều lần mới cảm nhận được cái hay nhiều mặt.




13
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG DẠY- HỌC PHẦN ĐỌC THÊM TÁC PHẨM THƠ
TRỮ TÌNH TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12

2.1. Vị trí của phần đọc thêm trong chƣơng trình Ngữ văn bậc THPT.

Về mặt số lượng các văn bản đọc thêm chiếm một tỷ lệ đáng kể: Trong
chương trình Ngữ văn lớp 10, tỷ lệ là 14/38 văn bản. Trong chương trình Ngữ văn
lớp 11, tỷ lệ là 14/40 văn bản. Trong trương trình Ngữ văn lớp 12, tỷ lệ là 12/32 văn
bản.
Bên cạnh hệ thống các văn bản học chính thức, loại văn bản hướng dẫn đọc
thêm góp phần làm giàu kiến thức văn học của HS. Đặc biệt, nó có một vị trí quan
trọng trong việc rèn luyện kỹ năng - phương pháp tự học, tự nghiên cứu văn bản,
góp phần hình thành cho các em văn hóa đọc, đáp ứng các yêu cầu đổi mới dạy học,
phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS.
2.2. Những thuận lợi, khó khăn khi dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm thơ
trữ tình trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12 .
2.2.1. Khảo sát văn bản thơ trữ tình phần đọc thêm trong chương trình Ngữ văn
lớp 12.
2.2.1.1. Tính trữ tình và chủ thể trữ tình.
2 .2.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ.
2.2.2. Khảo sát tư liệu dạy - học.
*Khảo sát SGK Ngữ văn lớp 12 chương trình chuẩn, Phan Trọng Luận tổng chủ
biên - Nxb Giáo dục, 2007
Thời gian dành cho việc hướng dẫn đọc thêm: Thời gian dành cho việc dạy -
học văn bản đọc thêm không nhiều. Trong khoảng thời gian đó, GV phải đảm bảo
đủ các hoạt động lên lớp, phải khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học, đặc trưng thể
loại. Vậy nên, GV dù cố gắng đến thế nào cũng rất khó để lưu lại trong tâm trí HS
những hiểu biết cơ bản về các tác phẩm này.
Bài học được biên soạn trong SGK gồm các nội dung sau:
- Tiểu dẫn: Giới thiệu những nét chính về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác.

14
- Ở phần văn bản đoạn trích, các câu hỏi hướng dẫn đọc thêm trong SGK đã đưa ra
các câu hỏi về bố cục, cảm xúc, hình tượng thơ.
Điều đáng chú ý hơn nữa là trong SGK đối với các văn bản đọc thêm, mục

kiến thức cần đạt và ghi nhớ không có nên các em HS khó khái quát được về nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm, chưa có thước đo các chuẩn kiến thức cần thiết để
có định hường điều chỉnh quá trình nhận thức phù hợp.
* Khảo sát SGV Ngữ văn chương trình chuẩn, Phan Trọng Luận tổng chủ biên -
Nxb Giáo dục, 2007.
Bài học được biên soạn gồm 3 mục:
- Mục 1: Sách hướng dẫn đưa ra những điều cần lưu ý về tác giả và tác phẩm liên
qua tới quá trình tiếp nhận văn bản.
- Mục 2: Sách hướng dẫn học thêm bằng các gợi ý đáp án của các câu hỏi trong
SGK.
- Mục 3: Sách chỉ cho GV những tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho bài giảng.
* Khảo sát SGV Ngữ văn chương trình nâng cao, Trần Đình Sử tổng chủ biên - Nxb
Giáo dục, 2007.
Bài học được biên soạn gồm 4 mục:
- Mục 1: Sách hướng dẫn đưa ra mục tiêu cần đạt của bài học. Yêu cầu cần đạt về
giá trị nghệ thuật và nội dung.
- Mục 2: Sách chỉ ra những điểm cần lưu ý:
+ Về nội dung: Tác giả, tác phẩm, đoạn trích cần chú ý khai thác phần tiểu dẫn
trong SGK, bám sát đoạn trích khi giảng và bổ sung thêm mạch cảm xúc, kết cấu cơ
bản của tác phẩm.
+ Về phương pháp: Hướng dẫn GV tổ chức hoạt động của HS theo quy trình theo
quy trình HS chuẩn bị kĩ đề cương trả lời các câu hỏi, đến lớp trao đổi dưới sự
hướng dẫn của GV.
- Mục 3: Sách gợi ý đọc thêm bằng việc trả lời các câu hỏi trong SGK.
- Mục 4: Chỉ cho GV những tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho bài giảng.
2.2.3. Khảo sát về đối tượng dạy và học.
Để thấy được thực tế dạy và học phần đọc thêm ở trường THPT, tôi chủ yếu
là phát phiếu điều tra đến GV và HS ở 2 trường:

15

- THPT Ngô Quyền - quận Lê Chân, Hải Phòng.
- THPT Thái Phiên - quận Ngô Quyền , Hải Phòng.
Tổng số phiếu phát ra gửi đến GV là 45 phiếu, HS là 115 phiếu ở cả 2
trường. Nội dung phiếu điều tra dành cho GV và HS ở phụ lục 4 và 5. Sau đây là
kết quả khảo sát.
*Về phía GV.
Qua khảo sát thực trạng dạy học ta thấy có một bộ phận không nhỏ GV còn
vướng mắc, lúng túng trong cách thức dạy học ngữ văn nói chung và những bài đọc
thêm nói riêng. Đó là hiện tượng chỉ chú trọng các văn bản chính thức mà bỏ qua
hoặc xem nhẹ các phần đọc thêm. Thực tế hiện nay đang tồn tại hai khuynh hướng
hai cách dạy các bài đọc thêm như sau:
Cách 1: Để HS tự hoạt động thông qua hình thức GV nêu một số câu hỏi
trong SGK - học trò trả lời.
Cách 2: Thầy - trò cùng hoạt động, tìm vài nét sơ lược về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
Kết quả: Yếu tố hướng dẫn của thầy và kỹ năng tự học của trò không thực
hiện được hoặc nếu có thì cũng mờ nhạt. Điều đáng buồn hơn là các em không nắm
được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, kiến thức của các
em nghèo đi.
* Về phía HS:
Trong điều kiện xã hội hiện nay có không nhiều HS thích học văn học nhất là
các tác phẩm chỉ đọc thêm. Việc chuẩn bị bài của HS trước khi lên lớp cũng rất
kém, đa phần HS chuẩn bị bài là đối phó, soạn qua quýt cho xong để đối phó với sự
kiểm tra của GV. Nếu GV có dạy tốt mà HS không chuẩn bị tốt thì không thể nói
đến hiệu quả của giờ học.
Tuy nhiên, ở lứa tuổi 14 - 18 các em HS có sự phát triển mạnh mẽ về thể lực
và trí tuệ, tình cảm. HS ở lứa tuổi này có nhu cầu tự khẳng định khá cao, có sự
nhạy bén khi đứng trước cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương, một sự vật
hoặc một hiện tượng. Các em có khả năng tự đọc, tự học, hiểu thấu đáo vấn đề và
khả năng sáng tạo. Tuy nhiên, khả năng đó của các em chỉ phát huy cao độ đưa đến

một kết quả học tập tốt khi có sự định hướng, tổ chức, điều khiển của GV.

16

CHƢƠNG III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
PHẦN ĐỌC THÊM CÁC TÁC PHẨM THƠ TRỮ TÌNH
THEO HƢỚNG TỰ HỌC CÓ HƢỚNG DẪN

3.1. Về nguyên tắc.
3.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Giờ dạy học Ngữ văn phải là một quá trình được thiết kế bằng một hệ thống
các thao tác, việc làm để trí thông minh, sức tưởng tượng, trực giác và suy luận tỉnh
táo của người học tham gia vào bài học một cách hiệu quả. Từ đó cơ chế dạy và học
cũng thay đổi, HS là trung tâm của quá trình dạy học. Dưới sự định hướng của GV,
HS sẽ học cách để tự học, chủ động tích cực nắm bắt kiến thức, rèn luyện kĩ năng
năng động, sáng tạo. Coi trọng yếu tố hướng dẫn - tự học của loại bài hướng dẫn
đọc thêm và có ý nghĩa của nó trong việc rèn luyện kỹ năng, tiến đến hình thành,
xây dựng một phương pháp tự học - một văn hóa đọc, làm cơ sở cho quá trình học
văn trong nhà trường và sau này vào đời cho HS.
3.1.2. Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình theo quan điểm tích hợp.
Tích hợp (intergration), hiểu một cách chung nhất là phương hướng phối hợp
(intergrate) một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ của nhiều bộ môn cũng
như phân môn trong cùng một môn học, do đó các tri thức kĩ năng, và các phương
pháp của các thành tố đó sẽ được sử dụng tối đa phát huy hiệu quả cao nhất, tạo
bước vọt về chất lượng nhận thức và trí tuệ. Quan điểm tích hợp chi phối cách xây
dựng chương trình, chỉ đạo nội dung và lựa chọn phương pháp dạy học của chương
trình và SGK Ngữ văn hiện nay.
3.1.3. Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình theo đặc trưng loại thể.
Con đường hiệu quả nhất để đi khám phá, thâm nhập chiếm lĩnh các tác

phẩm thơ trữ tình là con đường đi từ đặc trưng thể loại. Vì thế, người GV trên cơ sở
những hiểu biết của mình về thể loại hướng dẫn HS khám phá tiếp nhận giá trị tư
tưởng của tác phẩm từ góc độ này. Có như vậy, dạy học phần đọc thêm mới đảm
bảo sự toàn diện khi chiếm lĩnh tác phẩm là chiếm lĩnh cả nội dung và hình thức,
không thiên về nội dung cũng không thiên về hình thức nghệ thuật.

17
3.1.4. Rèn năng lực quy chiếu ngữ cảnh cho HS.
- Quy chiếu với ngữ cảnh văn bản: Đây là quá trình đặt các đơn vị cần được xem
xét của văn bản trong những mối liên hệ với các đơn vị cùng cấp độ và ở cấp độ lớn
hơn để hiểu trọn vẹn chỉnh thể văn bản. Trong thơ, các đơn vị này thường xuất phát
từ cấp độ từ, ngữ, dòng thơ, khổ thơ
- Quy chiếu với ngữ cảnh thời đại: Mỗi một tác phẩm là một lời nói của một tác giả,
một con người cụ thể sống trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Do đó
không thể hiểu thấu đáo nghĩa của một tác phẩm nếu không đặt nó trong ngữ cảnh
thời đại đã sản sinh ra nó, xem tác phẩm ấy đối thoại gì với những chủ ngôn trước
đó, từ đó rút ra những đóng góp của tác giả về mặt tư tưởng nghệ thuật.
3.1.5. Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xã hội cho HS.
Học tác phẩm văn chương là HS học cách ứng xử giao tiếp trong cuộc sống,
trong xã hội, học cách giao tiếp thẩm mĩ. Từ việc học, đọc một tác phẩm cụ thể, các
em sẽ dần dần đưa tác phẩm vào một văn cảnh mới, quan hệ mới, từ đó phát hiện ra
ý nghĩa mới, nội dung mới của tác phẩm đó. Bởi việc tiếp nhận của mỗi HS đều
mang đậm sắc thái chủ quan, các em có thể tái tạo, bổ sung, phát triển hình tượng
nghệ thuật trong tâm trí của mình, biến vốn văn hóa của nhân loại thành phẩm chất
trí tuệ, năng lực hoạt động của bản thân.
Để phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ, giao tiếp xã hội cho HS, môn Văn
có vị trí hết sức quan trọng. Từng bước ở trên lớp, từ việc đọc tác phẩm, hướng dẫn
HS chuẩn bị bài ở nhà, từ việc đặt câu hỏi đến việc giảng bình, cắt nghĩa người
GV dạy văn phải khai thác triệt để khả năng tác động giáo dục thẩm mĩ của mỗi tác
phẩm văn chương cho HS và dẫn dắt các em học theo những hành vi cao thượng,

cách ứng xử đẹp, cách sống, cách nói năng đẹp của các nhân vật trong tác phẩm.
3.2. Vận dụng một số phƣơng pháp thích hợp vào dạy học phần đọc thêm các
tác phẩm thơ trữ tình.
3.2.1. Phương pháp đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm là một phương pháp truyền thống trong các nhà trường
phương Đông và phương Tây, ngày xưa cũng như ngày nay. Các GV giàu kinh
nghiệm đều khẳng định vai trò của đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm bắt đầu đòi hỏi sự
cảm thụ chứ không dừng lại ở việc thể hiện cảm xúc mà có cả sự hiểu biết của

18
người đọc, sự tri âm của tác giả Người đọc phải thể hiện tác phẩm, cá tính sáng
tạo của mình có thể rất khác nhau, thậm chí cả giai điệu, nhịp điệu, ngữ điệu
Với thể loại thơ trữ tình, sinh mệnh của nó chính là âm điệu. Bởi thế cho nên
trong quá trình dạy đọc - hiểu văn bản, GV cần quan tâm hàng đầu tới việc đọc, đọc
cho "vang nhạc, sáng hình". Phương pháp đọc diễn cảm có một vị trí đặc biệt quan
trọng, gần như chủ công, thiếu nó hoặc chưa đúng liều lượng thì xem như giờ học
văn bản thơ trữ tình chỉ có xác mà không có hồn. Tác phẩm trữ tình "xao động",
"phập phồng" sau mỗi câu chữ chỉ nhờ âm điệu thì nhà thơ, người dạy, người
học mới cộng hưởng được với nhau "và nó trở thành" tiếng nói đồng ý đồng tình"
(Tố Hữu).
Do thời gian trên lớp rất hạn chế, trong quá trình giảng dạy phần đọc hiểu
các tác phẩm trữ tình ở phần đọc thêm, GV cần phải phát huy tối đa ý nghĩa của
hoạt động đọc diễn cảm để tạo được những ấn tượng ban đầu, những rung cảm xúc
động thẩm mĩ đầu tiên trong một bầu không khí văn chương để thu hút lôi cuốn HS.
Đọc không chỉ dừng lại trên bề mặt câu chữ mà phải thâm nhập vào văn bản, nắm
bắt và hình dung trong đầu một cách tổng quát về văn bản, bố cục, lôgic bài học
cũng như đề tài, chủ đề của văn bản. Không chỉ vậy, GV còn cần chú ý hướng dẫn
cách đọc cho HS để tiếp tục thực hành tự đọc diễn cảm ở nhà. HS phải thuộc, phải
nhớ được và thể hiện tác phẩm bằng giọng điệu riêng của mình.
Mỗi yếu tố từ thể thơ, bố cục, nhịp điệu, giọng điệu đến thanh điệu và các

biện pháp nghệ thuật đều là những tác nhân kích thích mạnh vào tâm hồn của người
thưởng thức tạo nên một ấn tượng riêng trong chất thơ. Việc đọc diễn cảm bài thơ là
con đường ngắn nhất để đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
3.2.2. Phương pháp đặt câu hỏi.
Hướng dẫn HS đọc - hiểu qua việc xây dựng một hệ thống những câu hỏi để
kiểm tra, phát hiện mức độ nhận thức năng lực tư duy của HS về tác phẩm cũng là
một phương pháp quan trọng cần được ứng dụng triệt để và sáng tạo trong quá trình
hướng dẫn HS tiếp nhận các văn bản trong chương trình Ngữ văn .
Trong quá trình xây dựng hệ thống các câu hỏi, GV phải chú ý quán triệt
những nguyên tắc sau:

19
- Hệ thống câu hỏi phải bám sát vào văn bản, tập trung vào giá trị độc đáo của tác
phẩm và có cách diễn đạt trong sáng.
- Hệ thống câu hỏi phải tập trung kích thích được trí thông minh, tư duy sáng tạo
của HS, tức là phải tập trung chú ý vào loại câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi tìm tòi phát
hiện.
- Hệ thống câu hỏi vừa phải vạch ra được quá trình phân tích, cắt nghĩa, bình giá tác
phẩm, vừa phải nêu ra được những nhận thức về tri thức cũng như tác dụng của tác
phẩm đối với HS.
- Hệ thống câu hỏi phải giúp HS hình thành được những phương pháp và kĩ năng tự
đọc, tự khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. Câu hỏi phải đảm bảo tính
khoa học, tính hệ thống, tính nghệ thuật, tính sư phạm và phải phù hợp với quy luật
tiếp nhận tác phẩm văn chương.
Đối với việc đọc - hiểu các tác phẩm thơ trữ tình thuộc phần đọc thêm trong
chương trình Ngữ văn lớp 12, GV nên khai thác triệt để hệ thống câu hỏi trong phần
hướng dẫn đọc thêm. Các câu hỏi này bám sát những vấn đề trong bài học từ dễ đến
khó. Hệ thống câu hỏi này sẽ có tác dụng dẫn dắt các em từng bước khám phá các
giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó GV có thể bổ sung thêm các câu hỏi cảm xúc,
hình dung tưởng tượng. Đặc biệt cần khai thác vốn kiến thức sẵn có của các em để

đưa ra những câu hỏi mang tính so sánh tổng hợp.
3.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm.
Thảo luận nhóm là một phương pháp có hiệu quả trong việc phát huy tính
chủ động, sáng tạo của HS trong giờ tiếp nhận tác phẩm văn chương. Người dạy với
vai trò tổ chức và điều khiển các thành viên trong lớp trao đổi ý kiến và tư tưởng
của mình về một vấn đề được đặt ra trong bài học, qua đó đạt được mục đích dạy
học. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức bằng nhiều hình thức, có thể theo
nhóm, theo tổ, theo lớp. GV có thể tổ chức thảo luận về những vấn đề xoay quanh
tác phẩm đang học bằng cách đưa ra câu hỏi trước giao cho các nhóm, các tổ để
chuẩn bị trước ở nhà đồng thời GV có những hướng dẫn về các nguồn tài liệu mà
HS phải tìm hiểu để phục vụ cho việc trả lời các câu hỏi đó. Như thế, HS sẽ phát
huy được tính chủ động, tích cực và tính tự học của mình - một yêu cầu rất cần thiết
đối với HS hiện nay.

20
3.2.5. Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
Mục tiêu của việc kiểm tra, đánh giá là để: Đánh giá đúng thực chất trình độ,
năng lực người học, kết quả kiểm tra, thi đủ độ tin cậy để xét lên lớp; tạo động lực
đổi mới PPDH góp phần nâng cao chất lượng dạy học; giảm áp lực thi cử, tạo thuận
lợi và đảm bảo tốt hơn lợi ích của người học. Công cụ, phương tiện chủ yếu của
đánh giá là kiểm tra và hình thức thông dụng là trắc nghiệm. Trắc nghiệm có hai
hình thức cơ bản là trắc nghiệm tự luận (tự luận) và trắc nghiệm khách quan (trắc
nghiệm).
Trong dạy học phần đọc thêm, GV có thể linh hoạt đưa những câu hỏi trắc
nghiệm đầu giờ học để kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS, hoặc lúc cuối giờ nhằm
củng cố giá trị nội dung, nghệ thuật của bài học
3.3. Hoạt động tổ chức dạy học phần đọc thêm các tác phẩm thơ trữ tình trong
chƣơng trình Ngữ văn lớp 12.
3.3.1. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà.
Để phát huy được tính tích cực của HS, khâu chuẩn bị vô cùng quan trọng,

các em HS phải rất tự giác trong việc chuẩn bị. Nhưng muốn làm được tốt thì các
tiết học trước phải có sự hướng dẫn các em chu đáo, GV cần hướng dẫn HS tự đọc -
hiểu trước ở nhà như sau:
3.3.1.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với SGK.
* Quan niệm về SGK.
Một công cụ không thể thiếu trong quá trình tự học của HS là SGK. Việc sử
dụng SGK có hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc nắm vững kiến thức nói
chung và phát huy tính tích cực tự giác của HS.
* Hướng dẫn HS sử dụng SGK trong phần đọc thêm.
Để sử dụng SGK học tập đạt kết quả tốt, người GV cần đề ra những nhiệm
vụ học tập cụ thể cho HS đối với việc đọc hiểu văn bản đọc thêm.
- Hướng dẫn HS tự đọc văn bản và trả lời các câu hỏi.
+ Đọc văn bản: Đọc là một lao động sáng tạo mang tính nghệ thuật. Hoạt động đọc
có tác dụng đánh thức hệ thống kí hiệu trong văn bản, làm cho các kí hiệu trở nên
sinh động với những ý nghĩa, giá trị mới. Đọc là một phương pháp tiếp nhận nghệ
thuật một cách sáng tạo. Khi tiếp xúc với văn bản một cách nghiêm túc và có mục

21
đích thì sẽ đánh thức được ở HS những tiềm năng có sẵn ở liên tưởng, tưởng
tượng
+ Trả lời các câu hỏi trong SGK: Ngoài văn bản được trích đọc, trong SGK còn có
hệ thống các câu hỏi hướng dẫn đọc thêm. Vì vậy bên cạnh việc nắm vững nội
dung, bố cục văn bản, HS cần nghiên cứu để giải quyết hết số câu hỏi trong SGK.
Quá trình tự trả lời câu hỏi chính là quá trình HS bước đầu tự mình khám phá, phân
tích, cắt nghĩa cả nội dung lẫn hình thức của văn bản thơ.
3.3.1.2. Hướng dẫn HS thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu có liên quan tới các văn
bản đọc thêm.
Bên cạnh việc đọc hiểu SGK, trong quá trình dạy học các bài đọc thêm, GV
còn cần hướng dẫn HS sưu tầm các tài liệu liên quan tới văn bản. Việc sưu tầm này
giúp các em có một vốn kiến thức sâu rộng và cũng để các em nắm được vấn đề bài

học bền vững, chắc chắn nhất, góp phần nâng cao tầm văn hóa của các em. Việc sưu
tầm tài liệu diễn ra ngoài giờ vì vậy đòi hỏi HS phải có tính tự giác cao, một lòng
ham mê học hỏi và quan trọng hơn là phải biết cách đọc, biết cách lựa chọn tài liệu
phục vụ bài học.
Để giúp các em HS tự tìm kiếm tài liệu, đọc tích lũy kiến thức có hiệu quả,
giáo viên có thể hướng dẫn các em phương pháp đọc như sau:
- Không đọc tràn lan, gặp gì đọc nấy mà cần phải lựa chọn những cuốn sách, bài
báo hay thuộc phạm vi mình quan tâm, đọc các tài liệu tham khảo mà các thầy cô
giáo giới thiệu. Đối với tài liệu có giá trị phỉa đọc kĩ, nắm bắt tư tưởng chủ chốt,
phát hiện được vấn đề, biết ghi nhớ và chịu khó suy nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng
bởi đọc không chỉ tích lũy tư liệu mà còn tích lũy tư tưởng, ý kiến cho chính mình.
- Sách báo có nhiều loại, muốn đọc có hiệu quả cần chú ý phương pháp đọc. Đầu
tiên là phải đọc lướt. Chỗ nào cần quan tâm mới đọc kĩ, đọc sâu, nắm bắt tư tưởng,
vấn đề được đặt ra trong tài liệu đó. Cách này phải đọc đi đọc lại nhiểu lần, tiến
hành phân tích, suy nghĩ. Bên cạnh đó còn có lối đọc trắc nghiệm, đọc đoạn đầu
một cuốn sách, bài văn thử dự đoán kết luận rồi so sánh với cách kết thúc, kết luận
của cuốn sách, bài văn xem dự đoán của mình có đúng không.
- Kết quả đọc có thể đem lại cho HS những vấn đề buộc phải tiếp tục suy nghĩ. HS
cần ghi vào sổ tay những trích đoạn hoặc từ ngữ quan trọng để vận dụng, phát huy.

22
Các em cũng cần tích lũy những ý văn, ý thơ sâu sắc có thể làm châm ngôn sống
hoặc những câu danh ngôn, ngạn ngữ trong kho tàng trí tuệ nhân loại và từ những tư
liệu ấy mà suy ra những ý mới của mình hay có thể mài sắc thêm ý kiến của mình
trên ý kiến của người đi trước. Có như vậy, việc đọc tích lũy kiến thức mới có ý
nghĩa với các em HS.
3.3.2. Hoạt động tạo tâm thế.
Tạo tâm thế cho HS là vấn đề quan trọng trong dạy học, đặc biệt trong dạy
học văn. Đối với giờ hướng dẫn đọc thêm, hoạt động tạo tâm thế không chỉ tạo
hứng thú mà còn có tác dụng nối kết với văn bản trước trong một hệ thống đề tài

hoặc thể loại.
Tạo tâm thế cho HS khi tiếp nhận tác phẩm văn chương còn thể hiện ở lời
dẫn dắt vào bài của GV. Làm thế nào gây được sự kích thích, sự hứng khởi để HS
cuốn vào bài học mà phải thỏa mãn "đủ", "đúng", "trúng", "hay"? Điều này quả
không dễ.
3.3.3. Hoạt động đọc - hiểu.
3.3.3.1. Đọc - hiểu phần tiểu dẫn và chú thích.
Trong đọc - hiểu phần tiểu dẫn và chú thích, cần lưu ý hai loại kiến thức:
*Loại 1: Những kiến thức về tác giả, tác phẩm.
Phần này GV chỉ hướng dẫn HS tìm được yếu tố nào trong cuộc đời của tác
giả đã ảnh hưởng và chi phối sâu sắc đến quá trình thai nghén tác phẩm. Đây là yếu
tố quan trọng để giúp các em hiểu sâu nội dung tác phẩm.
*Loại 2: Loại chú thích về từ ngữ và các điển tích.
Phần này chỉ hướng dẫn các em tìm hiểu và nắm từ ngữ khó, điển tích khó
với mục đích giúp các em khai thông - giải mã văn bản bước đầu.
3.3.3.2. Đọc - hiểu văn bản.
Bước 1: Tri giác hình tượng ngôn ngữ
Đọc diễn cảm để nắm vững giọng điệu của tác phẩm, làm sống dậy tâm tư,
tình cảm mà tác giả gửi gắm, giãi bày trong đó đồng thời xác định được thể loại, bố
cục và hình tượng thơ.
Bước 2: Đọc với sức mạnh của hồi ức, liên tưởng, tưởng tượng để cẩm nhận ý nghĩa
của hình tượng nghệ thuật. Một hình tượng nghệ thuật thường có nhiều lớp nghĩa,

×