Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ của Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.93 KB, 11 trang )

I.

MỞ BÀI

Pháp luật về quản lý biên giới quốc gia trên đất liền là phương tiện hữu hiệu
để bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; cơ sở củng cố mối quan hệ hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển với các nước có chung đường biên giới quốc gia trên đất
liền, thực hiện chính sách đối ngoại, tiến hành tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho
công dân nâng cao ý thức pháp luật về chủ quyền quốc gia; căn cứ pháp lý xử lý vi
phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với
các nước khác. Hiểu được tầm quan trọng đó chúng em xin được lựa chọn đề 4:
“Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
về biên giới lãnh thổ của Việt Nam.” Để làm bài tập nhóm.
II.
NỘI DUNG
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện ĐƯQT về
biên giới lãnh thổ.
1.1. Danh nghĩa
ĐƯQT được ký kết bởi các chủ thể của luật quốc tế, trong đó chủ thể căn bản
nhất tham gia quan hệ ĐƯQT chính là các quốc gia. Theo Công ước Viên năm
1969 về luật điều ước quốc tế thì ĐƯQT là một thoả thuận quốc tế được ký kết
bằng văn bản giữa các quốc gia và chịu sự điểu chỉnh của pháp luật quốc tế (điểm a
khoản 1 Điều 2), theo đó thì mọi quốc gia đều có quyền ký kết ĐƯQT (Điều 6). Ta
có thể thấy chủ thể của ĐƯQT phải là chủ thể của luật quốc tế, nên ngoài quốc gia
thì còn có những chủ thể khác của luật quốc tế là tổ chức quốc tế liên chính phủ,
dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, năng
lực ký kết ĐƯQT của mỗi chủ thể là khác nhau. Trong đó, quốc gia có năng lực
đầy đủ nhất để tham gia vào các quan hệ quốc tế, nên nó có khả năng ký kết
ĐƯQT trong mọi lĩnh vực lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực biên giới lãnh thổ,
chính trị - an ninh.
Việc xác định được biên giới lãnh thổ chính là xác định chủ quyền lãnh thổ


quốc gia,để khẳng định quyền làm chủ của quốc gia đó trên vùng lãnh thổ của
mình. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là tuyệt đối, bất khả xâm phạm, tôn trọng chủ
quyền lãnh thổ quốc gia là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ và luật pháp quốc tế.
Do đó, biên giới lãnh thổ là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất đối với quan
hệ quốc tế nói chung cũng như trong quan hệ ĐƯQT nói riêng, vì vậy khi tham gia
ký kết và thực hiện các ĐƯQT về biên giới lãnh thổ thì các quốc gia sẽ nhân danh
chính quốc gia mình để ký kết. Dựa trên tinh thần của Công ước Viên năm 1969 thì
Việt Nam cũng đã đưa ra những quy định cụ thể trong pháp luật quốc gia về ký kết


và gia nhập các ĐƯQT về biên giới lãnh thổ. Điển hình là quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 7 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 1 và điểm b
khoản 1 Điều 4 Luật ĐƯQT năm 20162. Như vậy, qua quá trình phát triển của pháp
luật Việt Nam về ĐƯQT thì việc ký kết và thực hiện ĐƯQT về biên giới lãnh thổ
vẫn phải được nhân danh Nhà nước.
1.2. Thẩm quyền quyết định đàm phán
ĐƯQT về biên giới lãnh thổ phải được nhân danh Nhà nước để ký kết, vì vậy
chủ thể có thẩm quyền quyết định việc đàm phán chính là người đứng đầu Nhà
nước – nguyên thủ quốc gia, hay ở Việt Nam là Chủ tịch nước. Thẩm quyền quyết
định đàm phán được quy định cụ thể trong pháp luật về ĐƯQT của Việt Nam tại
khoản 1 Điều 11 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 3 quy định và
sau đó là khoản 1 Điều 10 Luật ĐƯQT năm 2016 4.Ta có thể nhận thấy, thẩm
quyền quyết định đàm phán đã có sự thay đổi giữa Luật ký kết, gia nhập và thực
hiện ĐƯQT năm 2005 và Luật ĐƯQT năm 2016. Luật ĐƯQT năm 2016 đã chỉnh
sửa, bổ sung cụ thể và rõ ràng hơn, qua đó Chủ tịch nước có thể uỷ quyền đàm
phán, chủ trương đàm phán và kết thúc đàm phán.
1.3. Đàm phán, ký kết.
Nếu khoản 1 Điều 11 Luật Ký kết gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005
quy định: “1. Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký kết ĐƯQT nhân danh Nhà
nước với người đứng đầu Nhà nước khác.”. Thì đến Luật ĐƯQT năm 2016 thì

thẩm quyền ký kết ĐƯQT đã được tách ra khỏi thẩm quyền quyết định đàm phán
và được quy định riêng tại khoản 1 Điều 15 Luật ĐƯQT năm 2016 như sau: “1.
Chủ tịch nước quyết định ký ĐƯQT nhân danh Nhà nước.”
Như vậy, Luật đã có sự chỉnh sửa, tách biệt thẩm quyền quyết định đàm phán
và thẩm quyền kí kết thể hiện sự cụ thể hóa, tách biệt trong từng giai đoạn của quá
trình ký kết ĐƯQT nhưng vẫn giữ nguyên thẩm quyền ký kết ĐƯQT về biên giới
lãnh thổ thuộc về Chủ tịch nước.
12. ĐƯQT được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước trong các TH sau đây:
b) ĐƯQT về hoà bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền QG.

21. ĐƯQT được ký kết nhân danh Nhà nước trong các TH dưới đây :
b) ĐƯQT liên quan đến chiến tranh, hoà bình, chủ quyền QG của nước CHXHCNVN.

31. Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký kết ĐƯQT nhân danh Nhà nước với người đứng đầu Nhà nước khác.

41. Chủ tịch nước quyết định đàm phán, uỷ quyền đàm phán, chủ trương đàm phán và kết thúc đàm phán ĐƯQT
nhân danh Nhà nước.


1.4. Phê chuẩn
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 quy định thẩm quyền
quyết định phê chuẩn ĐƯQT là của Quốc hội và Chủ tịch nước tại Điều 32 5,
nhưng lại không quy định cụ thể ĐƯQT về biên giới lãnh thổ thuộc về chủ thể nào,
gây ra sự khó khăn trong việc xác định chủ thể có thẩm quyền phê chuẩn ĐƯQT
trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tại Luật ĐƯQT năm 2016 đã có sự khắc phục và sửa
đổi về quy định thẩm quyền quyết định phê chuẩn ĐƯQT tại điểm a khoản 1 Điều
296. Theo đó, Luật ĐƯQT năm 2016 đã chỉ rõ thẩm quyền phê chuẩn ĐƯQT về
biên giới lãnh thổ là thuộc về Quốc hội, tránh sự bối rối và khó khăn trong việc xác
định thẩm quyền phê chuẩn ĐƯQT.
1.5. Gia nhập

Tiếp tục cụ thể hoá quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội tại
khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013: “14. Quyết định chính sách cơ bản về đối
ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc
tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, …;”. Luật ĐƯQT năm
2016 về việc gia nhập ĐƯQT được quy định rõ ràng và cụ thể tại khoản 1 Điều
437, theo đó Quốc hội có thẩm quyền quyết định gia nhập ĐƯQT về biên giới lãnh
thổ.
1.6. Bảo lưu
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, với các ĐƯQT thường xảy ra trường hợp
thành viên điều ước tán thành hầu hết các điều khoản cơ bản, nhưng lại không nhất
trí ở một vài điều khoản khác của điều ước, đặc biệt là đối với các lĩnh vực ảnh
hưởng trực tiếp đến chủ quyền quốc gia như biên giới lãnh thổ. Để hài hòa lợi ích
giữa các thành viên, góp phần tranh thủ số lượng chủ thể tối đa tham gia vào điều
51. Quốc hội quyết định phê chuẩn ĐƯQT do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác, phê
chuẩn các ĐƯQT khác theo đề nghị của Chủ tịch nước.
2. Chủ tịch nước quyết định phê chuẩn các ĐƯQT quy định tại Điều 31 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều này.

61. Quốc hội phê chuẩn các loại điều ước quốc tế sau đây:
a) Điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam;

71. Quốc hội quyết định gia nhập điều ước quốc tế quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 29 của Luật này.
1. Quốc hội quyết định gia nhập điều ước quốc tế quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 29 của Luật này.


ước quốc tế cũng như vì hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển của toàn thể cộng
đồng quốc tế, luật quốc tế ghi nhận quyền bảo lưu của các thành viên điều ước.
Nhìn chung trong quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về ĐƯQT, từ
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 (khoản 1 Điều 57 8) đến Luật

ĐƯQT năm 2016 (khoản 1 Điều 49 9) thì thẩm quyền quyết định vệc bảo lưu
ĐƯQT về biên giới lãnh thổ không có sự thay đổi, chủ thể có thẩm quyền quyết
định bảo lưu là Quốc hội.
2. Các ĐƯQT cơ bản về biên giới lãnh thổ mà Việt Nam ký kết.
2.1. Điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam đã ký kết.
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông còn gọi là Tuyên bố về ứng xử
của các bên ở Biển Nam Trung Hoa (tiếng Anh viết tắt là DOC), là một văn kiện
được các nước ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) và Trung Quốc ký
kết ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Phnom Penh, Campuchia nhân dịp Hội nghị
Thượng Đỉnh Asean lần thứ 8. Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và
Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)
và được coi là bước đột phá trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc về vấn đề Biển
Đông. Việc ký văn kiện này là kết quả nỗ lực của các nước ASEAN trong việc duy
trì
hòa
bình

ổn
định

Biển
Đông.
2.2. Điều ước quốc tế Việt Nam và Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Nghị định thư về phân giới cắm mốc,
Hiệp định quy chế quản lý biên giới Việt - Trung, Hiệp định về cửa khẩu và quản
lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong cuộc gặp giữa hai
trưởng đoàn đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc
từ ngày 16-18/11/ 2009 tại Bắc Kinh. Hai bên nhất trí cho rằng việc ký kết 3 văn
kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu việc kết thúc 35 năm đàm phán về
biên giới trên đất liền giữa hai nước, chính thức đưa Hiệp ước biên giới trên đất

liền Việt - Trung ký năm 1999 thực sự đi vào cuộc sống.
2.3. Điều ước quốc tế Việt Nam – Lào.
Việt Nam và Lào đã ký kết 10 điều ước quốc tế quan trọng liên quan đến biên
giới, lãnh thổ: 08 điều ước về biên giới, lãnh thổ: VN-LAO1. Hiệp ước hoạch định
81. Quốc hội quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài đối với điều ước quốc tế
nhiều bên mà Quốc hội quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập.

91. Quốc hội quyết định chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài đối với điều ước quốc tế mà
Quốc hội phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập.


biên giới quốc gia giữa Việt Nam – Lào năm 1977; VN-LAO2. Hiệp ước bổ sung
Hiệp ước hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Lào năm 1986; VN-LAO3. Nghị
định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới Việt Nam – Lào
năm 1986; VN-LAO4. Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới trên
thực địa và cắm mốc quốc giới Việt Nam – Lào năm 1987; VN-LAO5. Hiệp định
về quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào năm 1990; VN-LAO6. Nghị
định thư sửa đổi và bổ sung Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa Việt
Nam và Lào năm 1997; VN-LAO7. Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên
giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào về việc sửa đổi điểm khởi đầu đường biên giới
quốc gia Việt Nam – Lào năm 2007; VN-LAO8. Nghị định thư về đường biên giới
và mốc quốc giới giữa Việt Nam và Lào năm 2016; VN-LAO9.Hiệp định về quy
chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam và Lào năm 2016.
- 01 điều ước ba bên Việt Nam, Lào, Trung Quốc: VN-LAO-TQ. Hiệp ước
xác định giao điểm đường biên giới giữa Việt Nam, Lào và Trung Quốc năm 2006.
- 01 điều ước ba bên Việt Nam, Lào, Campuchia: VN-LAO-CAM. Hiệp ước
xác định giao điểm đường biên giới giữa Việt Nam, Lào và Campuchia năm 2008.
3. Phân tích về việc ký kết và thực hiện 1 ĐƯQT cụ thể.
Nghị định thư phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc năm 2009.

3.1. Bối cảnh và các yếu tố ảnh hưởng:
Biên giới trên đất liền Việt Nam và Trung Quốc dài hơn 1.400
km, tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang,
Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân
Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc.
Biên giới này được hoạch định và phân giới cắm mốc lần đầu
tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch định biên giới ngày
20/6/1887 và Công ước bổ sung ngày 20/6/1895 ký kết giữa Pháp
và nhà Thanh (Trung Quốc).
Sau khi cách mạng thành công ở mỗi nước, vào cuối thập niên
50 của thế kỷ 20, Việt Nam và Trung Quốc thoả thuận giữ nguyên
trạng đường biên giới giữa hai nước trên cơ sở Công ước Pháp Thanh năm 1887 và 1895 và sẽ tiến hành hoạch định lại đường
biên giới vào lúc thích hợp. Giữa thập niên 70 của thế kỷ 20, Việt
Nam và Trung Quốc chính thức đàm phán về biên giới. Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân các cuộc đàm phán không có tiến triển và
đã bị gián đoạn trong một thời gian dài.


Trong hơn 100 năm kể từ khi Công ước Pháp Thanh được ký kết,
biên giới giữa hai nước trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do
thời tiết, do biến đổi địa hình địa vật và do những biến động chính
trị, xã hội ở mỗi nước, cũng như trong quan hệ hai nước, đặc biệt
là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Chẳng hạn, lời văn mô tả
và bản đồ có nơi không đầy đủ, chính xác, rõ ràng. Các cột mốc
biên giới được cắm từ cuối thế kỷ 19 không được xác định bằng
lưới tọa độ, nhiều mốc bị hư hỏng, bị mất, xê dịch, nhiều mảnh
bản đồ gốc không còn. Trên một số khu vực biên giới có sự chuyển
dịch dân cư không theo biên giới pháp lý. Vì vậy, hai bên đã nảy
sinh những tranh chấp hết sức phức tạp, từ nhận thức khác nhau
về hướng đi của biên giới cho đến lịch sử quản lý thực tế về biên

giới.
Nhằm xác định lại chính xác biên giới để quản lý lãnh thổ tốt
hơn, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ tháng 11/1991, Việt
Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận tiến hành đàm phán hoạch
định biên giới mới thay cho Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và
tiến hành phân giới cắm mốc tại thực địa dựa trên nội dung của
Hiệp ước hoạch định biên giới mới ký năm 1999. Việc phân giới
nhằm tránh những tranh chấp phức tạp xảy ra, làm ảnh hưởng
đến quan hệ chính trị giữa hai nước, ảnh hưởng đến môi trường
hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của mỗi nước.
3.2.

Đàm phán, ký kết:

Không có chung một căn cứ pháp lý thì việc giải quyết được vấn
đề biên giới, nhất là giữa các quốc gia có những tranh chấp biên
giới, lãnh thổ phức tạp do lịch sử để lại sẽ rất khó khăn. Nếu giữa
Việt Nam và Trung Quốc không thỏa thuận dựa vào hai Công ước
Pháp - Thanh 1887 và 1895, cùng với những tư liệu pháp lý, kỹ
thuật kèm theo để xác định lại đường biên giới pháp lý giữa hai
nước thì chắc chắn khó có thể giải quyết được vấn đề quan trọng
này và khó có được thành quả mang tầm vóc lịch sử.
Nếu giữa Việt Nam và Trung Quốc không thỏa thuận dựa vào hai
Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895, cùng với những tư liệu
pháp lý, kỹ thuật kèm theo để xác định lại đường biên giới pháp lý
giữa hai nước thì chắc chắn khó có thể giải quyết được vấn đề
quan trọng này và khó có được thành quả mang tầm vóc lịch sử.


Bởi vì Trung Quốc có thể lập luận rằng xét về mặt lịch sử thì Việt

Nam đã là quận, huyện của Trung Quốc hàng nghìn năm, còn Việt
Nam thì cũng có thể cho rằng vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây
đã là đất của Việt Nam vì "vó ngựa của quân tướng Lý Thường Kiệt
đã từng chinh phạt nơi đây". Rồi còn vô vàn những lý do lịch sử,
địa dư, văn hóa khác nữa mà bất kỳ ai cũng có thể sưu tầm, khai
thác, công bố để biện minh cho “quan điểm lập trường” riêng của
họ vì những động cơ khác nhau.
Ngày 18 tháng11 năm 2009, tại Bắc Kinh, đại diện Chính phủ
hai nước đã ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên
đất liền Việt Nam – Trung Quốc
Nội dung của Nghị định thư bao gồm: Bộ bản đồ địa hình khu
vực biên giới Việt – Trung; tập “Bảng đăng ký mốc giới”; tập “Bảng
tọa độ, độ cao mốc giới” và tập “Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên
sông suối biên giới”.
Nghị định thư mô tả chi tiết hướng đi của toàn bộ đường biên
giới, các chi tiết tọa độ cũng như độ cao của từng cột mốc trên
biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
Để thuận tiện cho việc quản lý, Nghị định thư chia đường biên
giới trên đất liền Việt – Trung thành 8 đoạn; mỗi đoạn biên giới và
mỗi mốc giới có 1 bộ hồ sơ riêng bao gồm lời văn mô tả, sơ đồ tọa
độ và bản đồ, mỗi bản được viết bằng tiếng việt và tiếng trung.
Ngày 14 tháng 7 năm 2010 theo Sao lục 36/2010/SL-LPQT của
Bộ Ngoại giao ngày 05 tháng 08 năm 2010. Điều 54 của Hiệp định
quy định Hiệp định này có hiệu lực sau 30 ngày, kể từ ngày gửi
thông báo cuối cùng về việc đã hoàn thành các thủ tục pháp lý
trong nước.
Giải quyết được vấn đề biên giới trên bộ giữa Việt Nam với
Trung Quốc góp phần tăng cường sự tin cậy giữa các bên liên
quan, là cơ hội mới để mở rộng giao lưu hữu nghị, tăng cường hợp
tác kinh tế, thương mại giữa hai nước.

Quá trình giải quyết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ để xác
lập được một hệ thống đường biên giới, mốc quốc giới rõ ràng,
chính quy, hiện đại và bền vững giữa Việt Nam và Trung Quốc là
một quá trình kéo dài trên 30 năm, với rất nhiều khó khăn trở


ngại, không chỉ do lịch sử để lại mà còn do những nguyên nhân về
điều kiện tự nhiên, khoa học kỹ thuật, chính trị, pháp lý, tâm lý ,
tình cảm mà cả hai bên cần phải vượt qua. Sự hợp tác của hai bên
trong quá trình giải quyết vấn đề biên giới đất liền đã xuất phát từ
lợi ích chính đáng của hai quốc gia, phù hợp với luật pháp và thực
tiễn quốc tế, được hai bên chấp thuận, đáp ứng được nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân hai nước.
Giải quyết được vấn đề biên giới trên bộ giữa Việt Nam với
Trung Quốc góp phần tăng cường sự tin cậy giữa các bên liên
quan, là cơ hội mới để mở rộng giao lưu hữu nghị, tăng cường hợp
tác kinh tế, thương mại.
4. Cách thức thực hiện các ĐƯQT về biên giới lãnh thổ của Việt Nam.
Nhìn vào thực tế áp dụng các điều ước quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay có thể thấy Việt Nam công nhận hiệu lực thi hành trực tiếp cho nhiều
điều ước quốc tế (những điều ước có nội dung đủ rõ, chi tiết) mà không thông qua
quá trình chuyển hoá, đặc biệt là các điều ước quốc tế là đòn bẩy cho sự phát triển
kinh tế và các điều ước là bước đệm cho sự hội nhập nhanh và mạnh như các hiệp
định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các hiệp định thương mại song phương…
Biên giới Việt Nam được thiết lập trên cở sở thỏa thuận giữa các quốc gia có
lãnh thổ trên đất liền và trên biển tiếp giáp với Việt Nam, thể hiện trong các điều
ước hoạch định biên giới quốc gia, đánh dấu trên thực địa bằng các cột mốc quốc
giới. Để thực hiện các điều ước quốc tế này, có rất nhiều cách thức thực hiện như:
áp dụng trực tiếp, chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia, bảo lưu,…
Thông thường các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà Việt nam tham gia

được áp dụng trực tiếp. Các điều ước đã kí kết được coi như một nguồn luật bên
cạnh pháp luật quốc gia và được thực hiện như pháp luật quốc gia. Nhà nước
không nhất thiết phải thực hiện các thủ tục “chuyển hóa điều ước quốc tế” bằng
việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật truyền thống theo quy định của Luật,
vừa phức tạp, kéo dài và tốn thời gian.
Cho đến nay, Việt nam chưa bảo lưu điều ước quốc tế nào về biên giới lãnh
thổ. Bởi, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ là một trong những điều ước không
xác định thời hạn, do lãnh thổ quốc gia ít biến động theo thời gian, trong khi các
điều ước về thương mại, đầu tư,... xác định thời hạn vì nó thay đổi theo sự phát
triển của xã hội. Ví dụ nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt
Nam- Trụng Quốc sau khi được kí kết đã được áp dụng thực hiện trực tiếp, và đã
hoàn thành việc cắm mốc phân định biên giới Việt- Trụng. Cùng với các điều ước


quốc tế về biên giới lãnh thổ khác sau khi kí kết điều ước quốc tế đó cho đến nay,
Việt Nam không thực hiện việc bảo lưu, cũng không vân dụng sự thay đổi của
hoàn cảnh thực tế hay sự phát triển kinh tế xã hội, tranh chấp bất đồng giữa các
bên để không thực hiện các điều ước quốc tế đã kí kết. Điển hình cho điều này là
vụ tranh chấp trên biển khi Trung quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng biển
Việt Nam. Đó là vụ tranh chấp mà nhiều nước lớn trên thế giới đã phải lên
tiếng.Vụ việc này làm quan hệ hai nước trở nên căng thẳng hơn, tuy nhiên Việt
Nam không viện cớ hay vận dụng điều này để không thực hiện các điều ước về đã
kí kết với Trung Quốc về phân định ranh giới trên biển ( Hiêp định về phân định
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ
năm 2000). Các quốc gia, đặc biệt là Việt nam không nên vận dụng sự thay đổi cơ
bản của hoàn cảnh thực tế để không thực hiện điều ước quốc tế. Lí do là vì biên
giới lãnh thổ là nơi nhạy cảm, và mọi sự thay đổi về thực hiện điều ước về biên
giới lãnh thổ có thể làm phát sinh tranh chấp giữa các nước láng giềng gây mất
đoàn kết trong khu vực. Việt nam cần thực hiện tốt công tác quản lí biên giới quốc
gia đoàn kết với các quốc gia để duy trì hòa bình và anh ninh khu vực.

Một số đánh giá và kiến nghị.
Đánh giá.
Quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Việc xây dựng quy chế pháp lý
về ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ luôn là vấn đề
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng. Bởi đây là nền tảng pháp lý giữa
các quốc gia láng giềng có chung đường biên giới lãnh thổ từ đó đảm bảo chủ
quyền lãnh thổ, an ninh biên giới.
Cùng với sự phát triển của nền lập pháp, các vấn đề pháp lý về ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ ngày càng được quy định chặt chẽ, rõ ràng
hơn, góp phần tạo điều kiện cho quá trình tham gia ký kết các điều ước quốc tề về
biên giới lãnh thổ được thuận tiện. Trong thực tiễn, Việt Nam cũngđã tham gia ký
kết nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về biên giới lãnh thổ; tôn
trọng các chủ thể ký kết cũng như thực hiện tốt nội dung các điều ước.
Kiến nghị.
Nhóm chúng em xin đưa ra một vài kiến nghị như sau:
- Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế nói chung, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ nói riêng.
Cụ thể hóa các quy định, nội dung còn chưa rõ ràng gây khó khăn trong quá
trình áp dụng, dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình tham gia ký kết điều ước.
- Tiếp tục tìm hiểu và tiến tới ký kết các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
phù hợp, có tính thống nhất ràng buộc cao giữa các chủ thể ký kết.


- Luôn giữ thái độ tôn trọng các chủ thể ký kết, thực hiện đúng nội dung các
điều ước đã tham gia. Có đường lối ngoại giao phù hợp, xây dựng hình ảnh
Việt Nam đáng tin cậy, thiện chí trên trường quốc tế…
-

đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, Quân đội về hội nhập quốc tế, hợp tác quốc

phòng và hợp tác biên phòng trong tình hình mới. Tập trung
tuyên truyền các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ, các
chỉ thị, nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch của Đảng,
Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về quan
hệ hợp tác với các nước. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, phản động lợi dụng các vấn đề về dân
tộc, tôn giáo, biên giới lãnh thổ để phá hoại tình đoàn kết,
hữu nghị và sự hợp tác giữa các nước.

-

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dự báo, phân tích
tình hình, những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh
và quản lý, bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia tác động tới
hợp tác biên phòng. Đây là một trong những nội dung quan
trọng, làm cơ sở để tham mưu cho Đảng, Nhà nước và Bộ
Quốc phòng trong hoạch định chiến lược, phương hướng,
nhiệm vụ hợp tác quốc phòng và hợp tác biên phòng trong
tình hình mới.

-

Phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ biên giới của các cơ
quan quản lý, bảo vệ đường biên giới, hệ thống mốc quốc
giới và giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới, cửa khẩu;
kịp thời phát hiện, giải quyết có hiệu quả hoạt động xâm
canh, xâm cư, xuất, nhập cảnh trái phép, di cư tự do; ngăn
chặn, đấu tranh chống buôn lậu, mua bán, vận chuyển trái
phép hàng cấm, chất ma túy, trấn cướp, buôn bán người qua
biên giới, hoạt động rửa tiền, khủng bố, các tội phạm khác

và các hoạt động tuyên truyền, kích động, gây rối an ninh,
trật tự, chia rẽ quan hệ hữu nghị, đoàn kết giữa chính quyền
và nhân dân các bên biên giới.

-

Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị thường xuyên củng cố, kiện toàn
tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng làm
công tác đối ngoại biên phòng; quan tâm, chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên trách đối ngoại biên phòng có bản


lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có phẩm chất đạo đức,
sức khỏe tốt, có năng lực chuyên môn ngang tầm với yêu
cầu, nhiệm vụ mới. Đồng thời, quan tâm bồi dưỡng cho các
lực lượng trực tiếp tham gia các nội dung hợp tác cả về
chuyên môn, phẩm chất chính trị và nghiệp vụ công tác đối
ngoại.
III.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực hiện nay, mặc dù hòa bình, hợp
tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
nhiều bất trắc khó lường. Để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta phải có
những chủ trương, chính sách lớn về quốc phòng, an ninh, được Nhà nước thể chế
hóa thành pháp luật, giải quyết các vấn đề còn tồn đọng trên biên giới, giữ vững
chủ quyền lãnh thổ với nguyên tắc mềm dẻo, kiên trì như việc ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ.




×