Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nội dung về quyền con người trong lĩnh vực dân sự theo Hiến pháp năm 2013.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.08 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, quyền con người hiện đã trở thành một hệ thống các tiêu chuẩn pháp luật
quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền
con người hiện đã trở thành thước đo căn bản về trình độ văn minh của các nước và
các dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ
nguyên phát triển mới cả về tư tưởng, pháp luật và thực tiễn đảm bảo quyền con
người ở Việt Nam. Tuy nhiên trong giai đoạn 1945 - 1975, đất nước bị chia cắt thành
hai miền với hai chế độ xã hội khác nhau. Do bối cảnh và những yêu cầu đặc thù của
cuộc kháng chiến nên chỉ có các quyền tập thể được đề cao, một số quyền cá nhân bị
coi nhẹ. Cũng trong thời kỳ này, chính quyền Sài Gòn bị quân sự hóa cao độ và gây
ra những vi phạm quyền con người rộng khắp, nghiêm trọng, đặc biệt là với những
người tham gia kháng chiến mà luật 10-59 (năm 1959) của chính quyền Ngô Đình
Diệm là một điển hình về sự tàn bạo, dã man, vô nhân tính và vi phạm quyền con
người. Sau khi thống nhất đất nước 1975, nước ta đã gia nhập Liên hiệp quốc năm
1977. Chỉ trong ba năm đầu của thập kỷ 80 (từ 1981 đến 1983), Việt Nam đã gia nhập
và phê chuẩn 7 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người do Liên hiệp quốc
thông qua, trong đó có bao gồm cả hai công ước cơ bản là ICCPR và ICESCR.
Tuy nhiên, cũng giống như các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước
đây, ở Việt Nam từ trước đến nay, phần nghiên cứu về các nguyên tắc, ý tưởng và chế
định nhân quyền chưa được chú trọng như các mảng nghiên cứu khác của khoa học
Hiến pháp, đặc biệt là so với nghiên cứu về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Dù vậy,
quyền con người ngày càng được coi trọng, đặc biệt là đến Hiến pháp 2013 quyền
con người đã được tách biệt với quyền công dân và được đưa lên chương II thể hiện
sự coi trọng của Nhà nước ta với vấn đề này. Chính vì vậy cần có thêm những nghiên
cứu về chủ đề này nhằm góp phần hoàn thiện các cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn
cho thực thi các quyền hiến định ở nước ta thời gian tới, cũng như nhằm phục vụ
công tác tư tưởng, tuyên truyền về quyền con người của Đảng, Nhà nước ta.

NỘI DUNG
I.



Khái niệm quyền con người.
1. Định nghĩa quyền con người.

“Quyền con người” hay “nhân quyền” (human rights) là những giá trị cao quý,
kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung,
mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân
phẩm và hạnh phúc của mọi con người. Khái niệm này gắn bó chặt chẽ với sự phát
1


triển của tôn giáo, tư tưởng, tập quán và pháp luật trong các giai đoạn lịch sử của
nhân loại. Nó mang tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh cụ thể, khác nhau về
chính trị, lịch sử, văn hóa và tôn giáo. Chính vì lẽ đó, có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về “Quyền con người” tồn tại trên thế giới. Theo thống kê của Liên hiệp quốc,
từ trước đến nay có khoảng gần 50 định nghĩa khác nhau về quyền người. Tuy nhiên,
mỗi định nghĩa tiếp cận từ một góc độ nhất định, chỉ ra những đặc điểm nhất định,
nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con
người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự
nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, dù vậy, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của
Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc về quyền con người (OHCHR) được thừa nhận
rộng rãi. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
(universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép (entilements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms)
của con người.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn toàn
giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu,

lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
2. Phân loại quyền con người.
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, có thể chia quyền con người thành những
nhóm khác nhau. Cụ thể, xét về lĩnh vực điều chỉnh, có thể phân thành nhóm quyền
chính trị, dân sự và nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Xét về chủ thể của quyền,
có thể phân thành các quyền cá nhân và các quyền của nhóm. Xét về mức độ pháp
điển hóa, có thể phân thành các quyền cụ thể và quyền hàm chứa. Xét về phương
thức bảo đảm, có thể phân thành các quyền chủ động và quyền bị động. Xét về tính
chất, có thể phân thành các quyền tuyệt đối và quyền không tuyệt đối. Xét về điều
kiện thực thi, có thể phân thành các quyền có thể bị hạn chế và quyền không bị hạn
chế, quyền có thể bị tạm đình chỉ áp dụng và các quyền không thể bị đình chỉ áp dụng
trong mọi hoàn cảnh.
Theo lý thuyết về thế hệ quyền, các quyền con người được xếp thành:
Thế hệ thứ nhất - các quyền dân sự, chính trị,được hiểu là những quyền cá
nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập
và không thể chuyển giao cho người khác cũng như đảm bảo khả năng của mỗi người
được tham gia một cách trực tiếp và gián tiếp vào công việc của Nhà nước và xã hội
như: quyền sống, quyền tự do đi lại, cư trú…
2


Thế hệ thứ hai - các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, được hiểu là những quyền
lao động, quyền được giáo dục, tham gia và hưởng thụ đời sống văn hóa, quyền
hưởng an sinh xã hội,…
Thế hệ thứ ba - các quyền tập thể như quyền tự quyết dân tộc, quyền phát triển,
quyền sống trong hoà bình, quyền sống trong môi trường trong lành,….
Tuy nhiên, cần chú ý là mọi sự phân loại đều không làm mất đi những đặc
trưng về tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính
liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền. Sự phân chia các quyền con người thành

các nhóm chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ một số quyền có thể được xếp vào
nhiều hơn một nhóm.
3. Đặc trưng cơ bản của quyền con người.
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các tính
chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân
chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như sau:
Tính phổ biến của quyền con người (universal rights):Thể hiện ở chỗ quyền
con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng
cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không phân biệt đối xử vì bất cứ lý
do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần
xuất thân,… Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền, mà là
bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Ở đây, mọi thành viên của nhân
loại đều có được công nhận có các quyền con người, song mức độ hưởng thụ các
quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng như vào hoàn cảnh
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá,…mà người đó đang sống.
Tính không thể chuyển nhượng (inalienable rights): Các quyền con người như
quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc được quan niệm là các quyền tự
nhiên, thiêng liêng,không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ
chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tuỳ tiện”
nói đến giới hạn của vấn đề. Nó cho thấy không phải lúc nào nhân quyền cũng
“không thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một
người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền
sống. Các quyền này gắn liền với cá nhân mỗi một con người và không thể chuyển
nhượng cho bất kì người nào khác.
Tính không thể phân chia (indivisible rights): Tính không thể phân chia của
nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng
như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn
quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu
cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.

Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent rights): Tính
liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền
3


con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn
nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến
việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
II.
Quyền con người trong lĩnh vực dân sự trong các văn bản quốc tế và
công ước quốc tế.
Quyền con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm phạm như quyền
sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.Các quyền này được thế giới thừa nhận, bảo
vệ và được tuyên bố trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế mà đặc biệt là trong ba văn
kiện quan trọng nhất được coi là Bộ luật quốc tế về quyền con người đó là:
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948: đây là bản tuyên ngôn đầu tiên
trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng, không
phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị… hay
tất cả những hoàn cảnh khác.Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền là một khuôn mẫu
chung cần đat tới của mọi quốc gia và mọi dân tộc.Tinh thần bản tuyên ngôn thúc đẩy
các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc tôn trọng các quyền con người cơ bản.Trích
dẫn: “Điều 1: Mọi người sinh ra dều được tự do, bình đẳngvề nhân phẩm và
quyền…”; “Điều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.”
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 nêu tổng quan
các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người, cụ thể: quyền sống, quyền tự do
tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, quyền bầu cử và quyên được xét sử bình
đẳng và theo đúng trình tự pháp luật.
Công ước quốc tế về các quyền kinh tể, xã hội và văn hóa năm 1966: “Điều 7:
Quyền làm việc và quyền tự do lựa chọn ngành nghề, được hưởng những điều kiện

công bằng…”; “Điều 15:Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa
cộng đồng…”
Từ năm 1977, sau khi trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã từng
bước tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người.Ngoài các điều ước
quốc tế cơ bản về quyền con người trên, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế
khác liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền con người và luật nhân đạo quốc tế như
Công ước quyền trẻ em (CRC), Công ước về quyền của người khuyết tật (ICRPD),…
III. Nội dung về quyền con người trong lĩnh vực dân sự theo Hiến pháp
năm 2013.
1. Quyền sống.
Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật ”
Lần đầu tiên quyền sống được ghi nhận trực tiếp trong Hiến pháp, điều đó có
thể nói quyền sống hiện nay ở Việt Nam ngoài tư cách là quyền con người tồn tại một
cách tự nhiên và tất yếu thì đó còn là quyền hiến định. Quyền hiến định là quyền
được hiến pháp quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Khái niệm này được sử dụng khi muốn
nhấn mạnh một quyền nào đó được hiến pháp - đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất
bảo vệ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa các quyền hiến định có giá trị cao hơn và
cần phải bảo vệ tốt hơn các quyền không hiến định. Theo quan điểm chung thì quyền
4


hiến định chỉ đơn giản là các quyền dễ bị xâm phạm và cần phải được bảo vệ đặt biệt
hơn so với các quyền khác ở những giai đoạn, thời điểm nhất định của quốc gia.
Liên quan đến khía cạnh bảo đảm các điều kiện tồn tại của con người, đặc biệt
là những đối tượng đặc biệt khó khăn của quyền sống, pháp luật Việt Nam từ lâu đã
xác lập các chế định về bảo trợ xã hội. Khuôn khổ pháp luật về vấn đề này hiện đã
khá toàn diện và ngày càng được hoàn thiện. Một hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội (cả
do Nhà nước và các tổ chức tổ chức từ thiện điều hành) đã được thiết lập trên cả nước
nhằm giúp đỡ những nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như người già

neo đơn, trẻ em mồ côi, người khuyết tật không nơi nương tựa, không thể tự lo được
cho cuộc sống của bản thân,…
2. Quyền tự do và an toàn cá nhân.
Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định:
“ 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ
về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt, giam, giữ người do luật định.
3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy
định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.”
Quan hệ nhân thân là loại quan hệ bất khả xâm phạm của con người vì vậy
Hiến pháp 2013 đạo luật cơ bản của Nhà nước Việt Nam đã quy định về quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự, sức khỏe… Ngay cả cơ quan chức
năng cũng không thể xâm phạm đến quan hệ nhân thân nếu không có quyết đinh của
Tòa án nhân dân, Viện kiệm sát nhân dân về hành vi phạm tội của một người.
Ở góc độ cụ thể, quyền tự do và an ninh cá nhân còn được thể hiện trong một
số quyền tố tụng. Khuôn khổ pháp luật Việt Nam về các quyền tố tụng đó được nêu
khái quát dưới đây:
Thứ nhất: Quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo
hay bị hạ nhục.
Thứ hai: Quyền không bị bỏ tù chỉ vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp
đồng.
Thứ ba: Quyền được suy đoán vô tội.
Thứ tư: Quyền không bị áp dụng hồi tố.
Thứ năm: Quyền được thông báo lời buộc tội không chậm trễ, được sử dụng và
hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng.

Thứ sáu: Quyền được bào chữa và được trợ giúp của luật sư ngay khi bị bắt
hoặc bị giam giữ.
Thứ bảy: Quyền không bị buộc phải chứng minh chống lại chính mình.
Thứ tám: Quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm
quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo pháp luật.
Thứ chín: Quyền được xét xử trong thời gian hợp lý và không bị trì hoãn.
5


Thứ mười: Quyền được kháng cáo.
3. Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng.
Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội.”
Đây là quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật; không bị pháp
luật phân biệt đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ như nhau. Có thể nói, quyền bình đẳng trước pháp luật là sự bao quát gần như
toàn bộ các quyền bình đẳng trong mọi lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội dưới vùng "phủ sóng” của pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật là một nội
dung xuyên suốt tư tưởng lập hiến Việt Nam. Nó được khẳng định và thể hiện một
cách nhất quán trong 5 bản Hiến pháp Việt Nam. Xu hướng chung là quyền bình đẳng
trước pháp luật ngày càng được bổ sung trong nhiều lĩnh vực.Dưới góc độ lập hiến và
lập pháp, chúng ta có thể tự hào về số lượng các quyền, mức độ, phạm vi bao phủ các
quyền thể hiện tính chất bình đẳng trước pháp luật của chúng ta không hề thua kém
bất cứ nước nào.
4. Quyền đời tư.
Điều 21 Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá

nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật
bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao
đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín
và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
Trong nhà nước dân chủ, quyền con người được bảo đảm ngay cả về vấn đề
đời tư cá nhân. Nhà nước đảm bảo không có bất cứ chủ thể nào được phép xâm phạm
đời tư cá nhân trái ý muốn của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác và vì lí
do an ninh, quốc phòng.
5. Quyền bình đẳng giới.
Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định:
“ 1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo
đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước,xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
Quyền bình đẳng giới đã được nhà nước thừa nhận và ghi nhận trong Hiến
pháp là một điểm tiến bộ trong tư tưởng lập hiến. Bình đẳng giới được hiểu là bình
đẳng giưa nam và nữ trong các mặt của đời sống, có vị trí vai trò ngang nhau, được
tạo điều kiện để phát huy tiềm lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, được
hưởng như nhau về thành quả của mình. Và theo quy định này, công dân có quyền
6


ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước tạo
mọi điều kiện để đảm bảo các quyền bình đẳng nam và nữ, hiến pháp và pháp luật
nước ta có những quy định nhằm “tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát
huy vai trò của mình trong xã hội” nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử về giới,

đặc biệt là phụ nữ. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp mà các bộ luật dân sự, luật
bình đẳng giới, luật hôn nhân và gia đình,… đã ghi nhận các quyền bình đẳng nam nữ
trong từng lĩnh vực cụ thể và có các hình phạt để xử phạt nghiêm minh các hành vi vi
phạm
6. Quyền khiếu nại tố cáo.
Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định:
“ 1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Việc ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong Hiến pháp 2013 đã
tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình. Và thông qua việc
thực hiện quyền này, công dân đã góp phần tích cực vào hoạt động quản lý nhà nước
và xã hội, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
7. Quyền tự do tôn giáo.
Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.”
So với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là bước tiến quan trọng, kế
thừa và phát triển trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập sâu với thế giới. Cụ thể,
từ “Công dân” được thay bằng “Mọi người”, thể hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo không chỉ là một quyền cơ bản của công dân như các Hiến pháp trước đây, mà
quan trọng hơn đó còn là một trong những quyền cơ bản của con người.Nhà nước ta
luôn kế thừa và phát triển để quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trở thành

một trong những quyền cơ bản của con người, thể hiện sự nhất quán trong chính sách
tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh
tuyên bố ngày 3-9-1945, đó là: “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”.

7


IV.

Mục tiêu, yêu cầu, thể chế nhằm đảm bảo thực hiện quyền dân sự của
con người theo Hiến pháp 2013.
1. Mục tiêu và yêu cầu.
a.
Mục tiêu.
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị nói riêng và bảo đảm quyền con người nói
chung, là các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền con người, trước hết và chủ yếu
là Nhà nước, thực hiện các biện pháp về thể chế lập pháp, hành pháp, tư pháp và về
quản lý chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn
về quyền con người trong hoạt động của Nhà nước và các hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, đặc biệt trong các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy
quyền con người trong thực tế.
b.
Yêu cầu.
Công nhận: Các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu
là Nhà nước; công nhận, tức là phải thừa nhận đồng thời phải ghi nhận, ngày càng
đầy đủ, cơ bản bằng các thể chế pháp luật và đạo đức đặc biệt là quyền dân sự của
con người.
Tôn trọng: Các chủ thể đảm bảo tôn trọng quyền con người đặc biệt là Nhà
nước, phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp và gián tiếp, vào việc thừa nhận,

bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy các quyền con người đã được công nhận trong
pháp luật.
Bảo vệ: Nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người từ phía các cơ
quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và cá
nhân; ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử, hoặc sự hình thành các thế lực đe dọa
quyền con người trên các lĩnh vực; điều tra, trừng trị và phục hồi các quyền đã bị vi
phạm hoặc bồi thường bất cứ khi nào có thể.
Thực hiện: Nhà nước chủ động xây dựng thể chế và thiết chế cũng như các
chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển, biện pháp quản lý cụ thểđể bảo đảm
cho mọi người được hưởng thụ đến mức cao nhất có thể các quyền con người.
Thúc đẩy: là tạo lập điều kiện và môi trường kinh tế nói riêng và xã hội nói
chung, mang tính hỗ trợ, thuận lợi cho việc tiếp cận quyền con người của các nhóm
xã hội, đặc biệt các nhóm yếu thế; đồng thời thiết lập và duy trì một cơ chế minh
bạch, hiệu quả để giám sát quyền con người ở cả khu vực công và tư, theo thể chế
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, liên quan đến bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, người ta
còn đề cập đến các khái niệm nghĩa vụ tổ chức (obligation of conduct) và nghĩa vụ
đạt được kết quả (obligation of result). Nghĩa vụ tổ chức đòi hỏi nhà nước phải có
những biện pháp để bảo đảm thực thi các quyền, ví dụ như để cấm lao động cưỡng
bức, đưa ra các chương trình chăm sóc sức khỏe chonhân dân hay bảo đảm giáo dục
tiểu học miễn phí cho mọi trẻ em... Nghĩa vụ đạt được kết quả đòi hỏi nhà nước phải
8


bảo đảm rằng những biện pháp đề ra phải mang tính khả thi và hiệu quả, với những
kết quả xác định được, chứ không phải chúng được xây dựng một cách hình thức.
2. Thể chế hiến pháp nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của con
người.
Quyền dân sự của con người là những quyền mà Nhà nước phải có nghĩa vụ
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy các quyền con người,

quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong Hiến pháp 2013, quyền con người được đặt tại Chương II. Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngay sau Chương Chế độ chính trị.
Tại chương II, quyền dân sự của con người được ghi nhận trong 6 Điều (19, 20, 21,
23, 26, 30). Ví dụ Điều 19: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được
pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”. Theo điều luật này,
sự sống của con người không chỉ tồn tại một cách tự nhiên nữa mà đã được Hiến
pháp – luật gốc quy định và bảo vệ, mọi chủ thể đều không được xâm phạm một cách
trái pháp luật.
Bên cạnh việc ghi nhận quyền con người trong lĩnh vực dân sự tại Hiến pháp
2013, nó còn được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật khác cụ thể và chi tiết
hơn. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Bình đẳng giới năm, Luật cư trú sủa đổi
2013, đối với đời sống riêng tư và bí mật cá nhân có Luật báo chí ghi nhận.
Việc đảm bảo thực hiện quyền dân sự của con người theo Hiến pháp 2013 đã
khẳng định việc chấp hành theo Công ước Liên hợp quốc về quyền con người, quyền
công dân mà ta đã cam kết. Cũng chính điều này đã góp phần chứng minh sự dân chủ
của Nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người về mặt dân sự
nói riêng.
V.
Thực tiễn việc áp dụng quyền dân sự của con người ở nước ta.
Việc ghi nhận quyền dân sự của con người trong Hiến pháp 2013 là điểm tiến
bộ hơn hẳn so với những bản Hiến pháp trước đó. Tuy nhiên, quá trình từ việc quy
định trong Hiến pháp và Pháp lệnh đến việc thi hành các điều luật còn là khoảng cách
khá xa. Công tác tổ chức thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền này còn
nhiều biểu hiện đáng lo ngại.
Ví dụ như quyền khiếu nại, tố cáo của con người là quyền được Nhà nước,
pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện. Tuy nhiên, trong đời sống hiện tại việc
khiếu nại, tố cáo của người dân vẫn chưa được cơ quan chức năng coi trọng, nhiều
bản khiếu nại, tố cáo không được xem xét và tiến hành điều tra giải quyết. Từ thực
tiễn đó đòi hỏi những người có thẩm quyền cần chú trọng hơn trong việc thực hiện và

tuân thủ pháp luật, đảm bảo công bằng, an ninh xã hội cho mọi người.
VI.

Các giải pháp bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người.
9


Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục
tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ
bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng;
đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng,
đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được
tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay,
bảo đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng kết hợp một số biện pháp
như sau:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ,
thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước.
Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững.
Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

KẾT LUẬN
Trong phần này, nhóm chúng em đã trình bày, phân tích khái quát những vấn
đề lý luận, thực tiễn của mối quan hệ giữa Hiến pháp và tư tưởng quyền con người.
Qua đó có thể thấy được những chế định về quyền con người trong bản Hiến pháp
năm 2013 đã tiến một bước phát triển dài trên con đường hoàn thiện và phát triển, tạo
nền tảng pháp lý cao nhất để đảm bảo quyền con người được thực hiện hóa đầy đủ
trong thực tiễn.


10



×