Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

luận văn thạc sĩ Xác định phương hướng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.2 KB, 89 trang )

hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con ngời
trong xét xử hình sự ở nớc ta hiện nay
Hà Nội 2010
1
hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con ngời
trong xét xử hình sự ở nớc ta hiện nay
Hà Nội 2010
2
Mục lục
Trang
Mở đầu
Chơng 1: Quyền con ngời và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con ngời
1.1 Khái lợc quyền con ngời và vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm
quyền con ngời
1.2 Đặc trng quyền con ngời của bị cáo trong xét xử hình sự
Chơng 2. Quy định của pháp luật bảo đảm quyền con ngời
trong xét xử hình sự ở nớc ta hiện nay
2.1 Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con ngời
của ngời phạm tội
2.1. 1 Quy định trách nhiệm hình sự 20
2.1. 2 Quy định phân loại tội phạm 22
2.1.3 Quy định hình phạt, mục đích, hệ thống hình phạt 33
2.1.4 Quy định hệ thống chế tài đối với các cấu thành tội phạm
40
2.2 Quy định về xét xử hình sự vớiviệc bảo đảm quyền con ngời đối với
bị cáo
2.2.1. Các nguyên tắc xét xử
2.2.2 Các nguyên tắc quyết định áp dụng hình phạt
(quyết định hình phạt)
2.2.2.1. Nguyên tắc pháp chế 59


2.2.2.2. Nguyên tắc nhân đạo 61
2.2.2.3. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt 62
3
2.2.2.4. Nguyên tắc công bằng 63
2.2.3. Quyền của bị cáo khi tham gia tố tụng (xét xử)
2.2.3.1. Quyền đợc coi là vô tội khi cha có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. 69
2.2.3.2. Quyền đợc đa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục
đợc pháp luật qui định 69
2.2 3.3. Quyền đợc giao nhận quyết định đa vụ án ra xét xử 69
2.2.3.4. Quyền đợc tham gia phiên toà 70
2.2.3.5. Quyền đề nghị thay đổi ngời tiến hành tố tụng 70
2.2.3.6. Quyền đa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của bào chữa 71
2.2.3.7. Quyền đợc nói lời sau cùng 72
2.2.3.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm 73
Chơng 3: Phơng hớng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con ngời
trong xét xử hình sự ở nớc ta hiện nay
3.1. Quan điểm chung về phơng hớng hoàn thiện
3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con ngời
trong xét xử hình sự.
Kết luận
Danh mục tài liệu thao khảo
4
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền con ngời là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và cũng
luôn luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con ngời đợc sinh ra và
đồng thời cũng phải bảo đảm thực hiện nh một lẽ tự nhiên. Cho nên, nó không
chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế mà còn là chế định pháp lý cơ
bản trong pháp luật của các quốc gia.

ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nớc Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời, quyền con ngời đợc chính thức tuyên bố và ghi nhận
bằng pháp. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, với những nhiệm vụ
nặng nề mà vinh quang, xét cho cùng cũng chỉ là vì độc lập, tự do, vì chủ
nghĩa xã hội mà cốt lõi của nó là bảo đảm thực hiện quyền con ngời. Phản ánh
các quá trình phát triển đó, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đến Hiến pháp
1992 đều thể chế hoá quyền con ngời, từng bớc mở rộng quyền con ngời. Trên
cơ sở đó, hệ thống chính sách pháp luật bảo đảm quyền con ngời ngày càng
đợc củng cố hoàn thiện.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nớc ta
đã chuyển hoá nhiều nội dung về quyền con ngời trong các tuyên bố, công ớc
quốc tế mà Nhà nớc ta tham gia phê chuẩn, ký kết. Bên cạnh các hoạt động
"lập pháp" đó, Nhà nớc ta đã có nhiều chính sách, biện pháp và hoạt động thực
tế bảo đảm thực hiện quyền con ngời. Các cơ quan bảo vệ pháp luật không
ngừng đợc củng cố, phát triển, xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tạo cho
mọi ngời có môi trờng tự do, bình đẳng để thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình, đồng thời bảo vệ con ngời khỏi các hành vi xâm hại.
Song, quyền con ngời luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo đảm
thực hiện nó không phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con ngời mà còn
phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, đợc mọi cấp, mọi ngành, mọi ngời
tham gia. Trong đó, Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì, một
trong những nhiệm vụ cơ bản trong xét xử của Toà án chính là hoạt động trực
tiếp bảo vệ quyền con ngời đôí với bên bị hại và cả bên bị cáo - là những ngời
mà quyền con ngời của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại. Nhiều năm qua, theo
quy định của pháp luật, Toà án đã tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, trong xét xử vẫn còn oan sai; quyền
5
con ngời của bị cáo có lúc có nơi cha đợc tôn trọng còn bị vi phạm, cha có
biện pháp bảo đảm hữu hiệu. Điều đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách

quan khác nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật có tác động
đáng kể.
Nh vậy, thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặt ra nhiệm vụ cấp bách -
phải hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền con ngời nhất là
pháp luật trong lĩnh vực xét xử hình sự của Toà án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Quyền con ngời đợc các tổ chức Quốc tế, các nớc trên thế giới nói
chung, Việt Nam nói riêng quan tâm nghiên cứu.
ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà
khoa học về quyền con ngời, quyền công dân. Nổi bất trong các công trình
này là hai tập chuyên khảo "quyền con ngời, quyền công dân" của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993. Đi sâu nghiên cứu tìm
hiểu để đề ra các phơng hớng, giải pháp cụ thể nhằm "xây dựng và hoàn thiện
bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con ngời trong điều kiện đổi mới ở nớc ta
hiện nay" là luận án PTS của thày giáo Nguyễn Văn Mạnh. Trung tâm nghiên
cứu quyền con ngời thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn
cuốn sách "Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị", xuất bản năm 1997.
PGS. TS Trần Ngọc Đờng có một số bài viết về quyền con ngời, trong đó có
bài "Hành vi hợp pháp - nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con ngời, quyền và
nghĩa vụ công dân" in trong tập 1 chuyên khảo "quyền con ngời, quyền công
dân". Tạp chí cộng sản tháng 5-1993 có đăng bài "Quyền con ngời và quyền
công dân" của PGS. TS (hiện nay là Giáo s, Tiến sỹ) Hoàng Văn Hảo và Chu
Thành. PTS (nay là Tiến sỹ) Lê Minh Thông viết bài "Hoàn thiện pháp luật về
quyền con ngời trong điều kiện phát huy dân chủ ở nớc ta hiện nay" trong Tạp
chí Nhà nớc và pháp luật, tháng 12-1998. Tác giải Nguyễn Văn Hiện có bài
"Toà án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức" - Tạp chí Nhà
nớc và pháp luật, tháng 8-1999.
Các công trình khoa học, bài viết này hoặc là tổng quát, hoặc đi sâu
nghiên cứu, phân tích, luận giải một số nội dung về quyền con ngời, các biện

pháp bảo đảm quyền con ngời, vấn đề bảo vệ quyền con ngời
6
Tiến sĩ Phạm Hồng Hải có bài: "Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con ngời
trong tố tụng hình sự ở nớc ta" (tạp chí Nhà nớc và Pháp luật số 3 năm 1998)
nêu lên một số vấn đề về vi phạm quyền con ngời từ phía cơ quan tiến hành tố
tụng đối với bị can, bị cáo và từ phía các phần tử xấu đối với những ngời tiến
hành tố tụng.
Tuy nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống quy
định của pháp luật nớc ta hiện nay về bảo đảm quyền con ngời trong xét xử
hình sự.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
* Đối tợng: Đề tài tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật bảo
đảm thực hiện quyền con ngời trong xét xử hình sự.
* Phạm vi: Đề tài chỉ nghiên cứu về pháp luật bảo đảm thực hiện quyền
con ngời đối với bị cáo bị truy tố trớc Toà mà không đi sâu phân tích về pháp
luật bảo đảm quyền con ngời đối với các đối tợng khác trong các vụ án dân sự,
kinh tế, hôn nhân, gia đình cũng nh các bên khác tiến hành hoặc tham gia
tố tụng hình sự.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
* Mục đích: Đa ra các nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
con ngời trong xét xử hình sự.
* Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền con ngời và nghiên cứu những đặc trng của
quyền con ngời trong xét xử hình sự.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật bảo đảm quyền con ngời
trong xét xử hình sự.
- Xác định phơng hớng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con ngời trong xét xử hình sự.
5. Phơng pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài đợc dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7
Phơng pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phơng pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phơng pháp cụ thể nh: phân tích -
tổng hợp, khảo sát, so sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con ngời, đặc
biệt là quyền con ngời trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng
và đề xuất phơng hớng, nội dung hoàn thiện pháp luật trong xét xử hình sự.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 ch-
ơng, 6 tiết.
8
Ch ơng I
Quyền con ngời và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con ngời
1.1. Khái lợc quyền con ngời
Mặc dù "quyền con ngời" mãi sau này (thế kỷ 18) mới đợc khẳng định,
nhng những ý tởng về nó lại ra đời rất sớm cùng với sự phân chia giai cấp
trong xã hội và hình thành Nhà nớc. Khi mà trong các Nhà nớc chiếm hữu nô
lệ, con ngời bị coi là những "công cụ biết nói" thì những tiếng kêu cứu đòi quyền
đợc sống, đợc tự do, đợc quyền làm ngời cũng xuất hiện.
Quyền con ngời , ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là
"đặc quyền". Cho nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo
trong các Nhà nớc cổ đại thì đã có những cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị
nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ khai đó. Do có những cuộc đấu tranh
"làm cho công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh không làm hại kẻ yếu" mà
đã xác lập nên Bộ luật Hamurabi. Mặc dù còn nhiều hạn chế: là công cụ phục
vụ mục đích thống trị, song Bộ luật đó đã nêu lên đợc t tởng về bình đẳng, dân
chủ, pháp luật hoá t tởng về quyền con ngời.

Xã hội loài ngời ngày càng phát triển, các trờng phái triết học, pháp luật
dần hình thành, lớn mạnh. Các trờng phái này đi vào nghiên cứu giải thích các
vấn đề tự nhiên, xã hội, con ngời. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 trờng phái
pháp luật tự nhiên với các đại diện nh: Spinoda, Hobbes, Kant đã mở ra một
trang mới cho sự phát triển t tởng bảo vệ quyền cá nhân chống lại sự vi phạm
từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên, có sẵn của con ngời,
không phải quyền do Nhà nớc, pháp luật ban phát. T tởng này góp phần thắng
lợi vào cách mạng t sản lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, thiết lập Nhà nớc
mà ở đó con ngời với những giá trị đích thực của nó đợc nâng lên một bớc -
công dân của xã hội Nhà nớc chứ không phải thần dân của ông vua.
Khác với các Nhà nớc phong kiến và t bản phơng tây, chế độ Nhà nớc
phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn mang
tính hà khắc. Song, thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc, nhân
đạo, tiến bộ và đợc thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật là Bộ luật do
9
Nguyễn Trãi soạn thảo, đợc ban hành năm 1843 có kế thừa, bổ sung những
luật lệ đợc ban hành từ rất nhiều năm trớc và đợc nhiều Bộ luật, luật sau này
tiếp thu những t tởng tiến bộ. Và suốt các triều đại phong kiến Việt Nam, vua
mệnh danh là con trời, cai trị trên nền tảng t tởng nho giáo bị các triết lý nho
giáo, điều chỉnh hành vi của mình. Vua là cha mẹ của dân, buộc phải thích cái
dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là lòng dân". Do đó, vơng quyền của
vua bị hạn chế, dân cũng có đợc một số yếu tố về các quyền dù còn nhỏ nhặt
mang tính cộng đồng.
Nh vậy, trong các thời kỳ cổ đại và phong kiến, t tởng về quyền con ng-
ời đã đợc đề cập đến nhng còn rời rạc. Khi cách mạng t sản nổ ra thắng lợi với
những tiền đề t tởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề quyền con
ngời mới đợc đặt ra nh một học thuyết, hay nói cách khác, quyền con ngời bắt
đầu đợc chính thức công khai thừa nhận. Có thể nói rằng, sự kiện này đợc
đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776 và sau
đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 1789. "Lần đầu tiên

trong lịch sử nhân loại , quyền con ngời chuyển từ phạm vi thỉnh cầu, yêu sách
sang phạm vi thực hiện, từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực pháp lý thực tiễn".
[40,27]
Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, cộng đồng quốc tế thông qua Liên hiệp
quốc tuyên bố chính thức về các quyền và tự do của con ngời bằng Hiến ch-
ơng Liên hiệp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948. Cụ thể hoá quyền con ngời trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hiệp
quốc thông qua Công ớc Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá
(ngày 24/9/1982 Việt Nam gia nhập 2 Công ớc này). ở Việt Nam, Tuyên ngôn
độc lập năm 1945 đánh dấu bớc ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới
về quyền con ngời trên đất nớc ta.
Quyền con ngời là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng
thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, đợc nhiều chuyên ngành khoa học nghiên
cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con ngời.
Song, trớc hết, quyền con ngời đợc hiểu là những đặc quyền mà con ngời sinh
ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật là
quyền đợc sống, đợc bảo vệ, đợc tự do phát triển. Mặc dù, những đặc quyền
đó có trớc, song chừng nào cha đợc công nhận thì chúng không thể đợc đa ra
áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể
10
là bằng pháp luật. Các đặc quyền đợc pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới
chính thức trở thành quyền của con ngời.
Quyền con ngời là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con ngời đợc
pháp luật đảm bảo do cá nhân con ngời nắm giữ trong các quan hệ của mình
với các cá nhân khác và với chính quyền.
Nh vậy, quyền con ngời là hệ thống các quyền của con ngời đợc xã hội
thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con ngời mang hai
đặc tính cơ bản là tính nhân đạo và tính pháp luật. "Quyền con ngời tuy mang
đặc tính tự nhiên nhng có nội dung xã hội, bị chế ớc bởi từng hoàn cảnh lịch
sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà nớc" [32,57] và đợc "mở rộng và cụ thể hoá

cùng với sự phát triển của xã hội loài ngời" [49,21].
Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con ngời là quyền của cá nhân
con ngời, nhng quyền đó chỉ có thể có đợc trong quan hệ gắn bó với các con
ngời khác trong tập thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền con ngời trở nên
vô nghĩa khi con ngời tách khỏi tập thể, cộng đồng và ở trong tập thể, cộng
đồng nên quyền của cá nhân con ngời không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối
với xã hội, Nhà nớc. Vì rằng:"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [19,11].
Quyền con ngời là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân" [48,276]. Nhân dân
là những con ngời cụ thể có những quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm
phạm đợc.
Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con ngời
Quyền con ngời và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con ngời có
tính"bẩm sinh" nhng nó không thể chính thức tồn tại nếu không có pháp luật.
Trớc hết, vai trò quan trọng của pháp luật đối với quyền con ngời là nó ghi
nhận (xác lập), củng cố, hoàn thiện quyền con ngời.
Pháp luật ghi nhận các quyền của con ngời đợc xã hội thừa nhận. Thông
qua pháp luật, quyền con ngời đợc lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm quyền con
ngời, pháp luật đa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm
nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm quyền con ngời. Quyền con
11
ngời đợc pháp luật xác lập là thiêng liêng, không thể xâm hại một cách tuỳ
tiện và đợc bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cỡng chế của
xã hội, Nhà nớc. Quyền con ngời đợc pháp luật xác lập mang tính tối cao, ổn
định không dễ dàng thay đổi. Điều 50 Hiến pháp 1992 khẳng định: quyền con
ngời đợc quy định trong Hiến pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp
lý cao nhất, nó buộc mọi ngời phải tôn trọng, phục tùng.
Theo tiến trình phát triển của lịch sử loài ngời, trên phơng diện pháp

luật, quyền con ngời ngày càng đợc củng cố, hoàn thiện. Từ chỗ các ý tởng về
quyền đợc sống nh một con ngời nhằm thoát khỏi "công cụ biết nói", t tởng về
quyền con ngời dần phát triển lên thành những học thuyết, thành các bộ luật
riêng lẻ và trở thành tiếng nói chung của cả cộng đồng quốc tế, không phân
biệt màu da, địa vị, thành phần. Nhờ có pháp luật mà quyền con ngời trở thành
giá trị chung của nhân loại, đợc loài ngời cùng nhau tôn trọng, bảo vệ. "Chỉ
thông qua pháp luật quyền con ngời mới trở thành ý chí và mục tiêu hành
động chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội"
[49,47].
"Lịch sử Nhà nớc và pháp luật hàng nghìn năm qua và thực tiễn quốc tế
của thế kỷ XX đã và đang chứng minh xác đáng một hiện thực sinh động
rằng: đợc xây dựng trên nền tảng của các t tởng pháp lý tiến bộ của nền văn
minh nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế nên Nhà nớc pháp
quyền coi các quyền và tự do của con ngời là những giá trị xã hội cao quý
nhất đồng thời là khách thể hàng đầu ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp
luật, trong đó có pháp luật hình sự" [70;9,10]. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật bảo
đảm quyền con ngời có ý nghĩa đặc biệt trên cả phơng diện lý luận và thực
tiễn. Nó "phải đợc xem là hoạt động thờng xuyên của Nhà nớc để một mặt
đảm bảo cho mỗi một bớc phát triển của quyền con ngời, của dân chủ đều đợc
ghi nhận và củng cố bởi các quy định luật pháp phù hợp. Mặt khác, các quy
định pháp lý phải mở đờng, định hớng thực hiện phát triển và thúc đẩy quyền
con ngời trong đời sống quốc gia và quốc tế" [59,12]
Song, pháp luật không dừng lại ở việc ghi nhận bớc tiến của quyền con
ngời mà nó còn là phơng tiện, công cụ không chỉ của Nhà nớc mà cả của công
dân để bảo vệ và thực hiện quyền con ngời.
Nhà nớc ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi ngời tôn
trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội đợc thừa nhận,
12
bảo vệ, mà nổi bật trong các giá trị đó là quyền con ngời "Nhà nớc quản lý xã
hội bằng pháp luật" (Điều 12 Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc bén,

hữu hiệu của Nhà nớc để bảo đảm thực hiện quyền con ngời. Với những đặc
điểm riêng của mình, pháp luật có tính bắt buộc cứng rắn nhất bằng cách xác
lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng không đợc vi phạm. Đồng thời, pháp
luật đợc bảo đảm thi hành bằng bộ máy Nhà nớc cùng với sức mạnh (d luận)
xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về quyền con ngời còn đợc bảo đảm
bằng sự cỡng chế của Nhà nớc tránh mọi hành vi xâm hại. Trên cơ sở của pháp
luật, mọi hành vi vi phạm quyền con ngời, quyền công dân đều phải đợc xử lý
nghiêm minh. Nh vậy, pháp luật còn là thớc đo việc bảo đảm thực hiện quyền
con ngời. Qua công tác thực thi pháp luật mà rút ra những bài học bổ ích cho việc
bảo đảm ngày một tốt hơn quyền con ngời.
Cũng chính từ việc ghi nhận các quyền cơ bản của con ngời mà pháp
luật trở thành phơng tiện để công dân có điều kiện bảo vệ mình. Quyền con
ngời đã đợc pháp luật ghi nhận tất yếu phải đợc bảo vệ khỏi bất cứ hành vi
xâm hại nào. Do đó, pháp luật trớc hết là cơ sở vững chắc để công dân đòi
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, pháp luật không thể không
ghi nhận trách nhiệm của Nhà nớc, công chức, viên chức Nhà nớc, các tổ chức
và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con ngời. Pháp luật là chuẩn mực chung,
công bằng đối với mọi ngời. Do vậy, pháp luật còn là đại lợng để kiểm tra,
đánh giá các quyết định, hành vi của Nhà nớc, công chức, viên chức Nhà nớc,
các tổ chức và các thành viên khác trong việc bảo đảm thực hiện quyền con
ngời.
Nhà nớc ban hành pháp luật để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Con
ngời với các mối quan hệ của nó là đối tợng của sự quản lý Nhà nớc. Do đó,
có thể xảy ra việc lộng quyền từ phía Nhà nớc và đối diện với nó, quyền của
ngời dân bị hạn chế. Nhờ có các chuẩn mực, tiêu chí của pháp luật mà các sai
phạm trên dễ bị phát hiện để khắc phục, sửa chữa. Đối với công dân, để khôi
phục các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, không có phơng tiện
nào bảo đảm hữu hiệu hơn là bằng pháp luật. Vì vậy, cùng với việc xây dựng hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ vì con ngời, cho con ngời thì việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao ý

thức pháp luật cho mọi ngời dân để họ bảo vệ riêng mình và bảo vệ xã hội nói
13
chung. Vậy nên "nhân dân phải bảo vệ luật nh bảo vệ chốn nơng thân của
mình" [xem 48,6].
Là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng
hàng đầu trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển các mặt của đời sống xã
hội (chính trị, kinh tế, văn hoá ) - là điều kiện thiết yếu để thực hiện quyền
con ngời. Bởi vì, quyền con ngời không thể đợc tôn trọng, bảo vệ trong một xã
hội có nền kinh tế, văn hoá và chính trị khủng hoảng; mà chính trị muốn ổn
định thì đờng lối chính sách phải đợc thể chế hoá thành pháp luật mới có đủ
sức mạnh thực hiện trong xã hội. Chính vì điều đó mà Hiến pháp, luật của các
nớc không thể không nhắc đến việc bảo vệ chế độ chính trị xã hội nh một
trong những mục tiêu chính của mình. Hay nói cách khác để thực hiện đờng
lối bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nớc, quyền con ngời phải đợc thể chế
hoá trong pháp luật.
Đối với kinh tế-điều kiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con ng-
ời - pháp luật tạo khuôn khổ và môi trờng pháp lý an toàn, thuận lợi để phát
huy mọi tiềm năng cho sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hớng, có hiệu
quả. Đối với các quyền của con ngời về kinh tế cũng đợc quy định bằng pháp
luật. "Pháp luật là phơng tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ
pháp luật" [19,196] và cũng là phơng tiện hữu hiệu để các bên tham gia hoạt
động kinh tế bảo vệ lợi ích của mình.
Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ tất yếu
cũng đòi hỏi phải đợc thể chế hoá bằng pháp luật và vì mục tiêu cho con ngời.
Văn hoá giáo dục, khoa học công nghệ phải tạo ra môi trờng xã hội lành
mạnh, tự do để con ngời có điều kiện phát triển. Trong môi trờng ấy, vừa có
điều kiện cho việc phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vừa có điều kiện để mọi
ngời học tập, vừa thuận tiện cho mọi ngời đợc hởng quyền thông tin đồng
thời cũng hội tụ đợc những khả năng để đấu tranh không bị "đồng hoá" bởi
những yếu tố độc hại lai căng từ bên ngoài.

Ngoài việc điều chỉnh hành vi con ngời, pháp luật còn là phơng tiện
đăng tải thế giới quan khoa học, các t tởng tiến bộ, có tác dụng giáo dục các
thành viên trong xã hội có ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý để họ biết tôn
trọng và bảo vệ quyền của các cá nhân con ngời trong đời sống cộng đồng.
14
Ngày nay, pháp luật không phải chỉ đóng vai trò tích cực trong bình
diện của mỗi một quốc gia mà nó còn là phơng tiện quan trọng trong hội nhập
quốc tế. Vấn đề quyền con ngời không thể chỉ là của một ngời, một cộng
đồng, một quốc gia mà còn là của toàn thể nhân loại. Do đó, pháp luật là ph-
ơng tiện để các quốc gia tham gia hội nhập quốc tế và thực hiện các cam kết
quốc tế, bảo đảm cho quyền con ngời đợc tôn trọng thực hiện ở mỗi quốc gia
đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.
Vì mục tiêu chung là tạo điều kiện, môi tờng thuận lợi cho con ngời
phát triển toàn diện mà loài ngời hiện nay đang phải đối đầu với những thách
thức vô cung to lớn: đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, giải quyết ô
nhiễm môi trờng, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chống đói nghèo
mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực đấu tranh chung của cộng đồng thế giới.
Nhằm thực hiện điều đó, Liên hiệp quốc - Tổ chức quốc tế lớn nhất hành
tinh - đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con ngời.
Với quá trình đó, mỗi một quốc gia phải xây dựng nghĩa vụ của mình
trong việc bảo đảm thực hiện quyền con ngời, trong đó có việc xây dựng hệ
thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế và đặc biệt là nghiêm
chỉnh thực hiện các cam kết nêu trong Công ớc, tuyên bố và điều ớc Quốc tế
mà nớc mình ký kết hoặc tham gia.
Trớc tình hình khu vực hoá, quốc tế hoá hiện nay việc bảo đảm quyền
con ngời, quyền công dân đặt ra cho pháp luật các yêu cầu phát triển bức
bách, thích hợp, một mặt bảo vệ đợc quyền lợi chính đáng của công dân nớc
mình, mặt khác không đợc tạo ra những phiền hà không đáng có cho ngời nớc
ngoài và kể cả ngời không quốc tịch. Nh vậy, pháp luật là phơng tiện quan
trọng trong việc bảo đảm quyền con ngời giữa các quốc gia và trong cộng

đồng quốc tế.
1.2. Đặc trng quyền con ngời của bị cáo trong xét xử hình sự.
Quyền con ngời không những đợc pháp luật ghi nhận mà còn đợc pháp
luật bảo vệ. Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền con ngời nào cũng phải
đợc xử lý theo pháp luật. Song, tất nhiên quyền con ngời còn có quan hệ chặt
chẽ với chủ quyền quốc gia, lợi ích của Nhà nớc, của các tổ chức, trật tự xã
hội là những khách thể đợc pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng bảo
vệ. Cho nên, những khách thể trên bị xâm hại do bất cứ ai thì ngời đó phải bị
xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền con ngời của bị cáo chỉ có thể đợc
15
coi là bảo đảm khi xét trong một tổng thể các mối quan hệ khác liên quan đến
tội phạm do họ thực hiện. Nh vậy, việc xử lý đối với họ buộc phải tuân thủ
những trình tự, thủ tục đợc quy định chặt chẽ trong pháp luật, vì dẫu sao,
quyền con ngời của họ vẫn phải đợc tôn trọng. Đối với bị cáo, quyền con ngời
của họ là vấn đề hết sức nhạy cảm và có một số đặc trng sau:
Là ngời bị Toà án quyết định đa ra xét xử trên cơ sở kết luận điều tra và
cáo trạng của viện kiểm sát quyền con ngời của bị cáo dễ có nguy cơ xâm hại
từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. " Sự xâm hại đó có thể do trình độ non
kém trong tổ chức quản lý, do năng lực làm việc hoặc do thiếu tinh thần trách
nhiệm và cũng có thể do một bộ phận công chức thoái hoá biến chất, vô đạo
đức" [48,49]. Đồng thời một số cán bộ có thẩm quyền cha nắm vững pháp
luật và tính thiếu chặt chẽ, cụ thể của pháp luật cũng là những nguyên nhân dẫn
đến việc xâm hại quyền con ngời.
Trong thực tiễn cuộc sống, với cách thức tổ chức thật uy nghiêm một
phiên toà, vị thế của bị cáo thờng là yếu hơn so với các cơ quan tiến hành tố
tụng. "Có vụ ngay tại công đờng mà Thẩm phán, công tố cũng công khai mớm
cung, đe doạ nếu ngoan cố sẽ tăng hình phạt để ép buộc bị cáo nhận tội
không đúng sự thật" [61,60]. Do chỗ vị thế của họ nh vậy nên cũng có vụ ngời
tiến hành tố tụng hỏi to tiếng làm bị cáo sợ nên cứ gật đầu hoặc dạ. Nghiêm
trọng hơn là có trờng hợp, việc tổ chức phiên toà cha dân chủ nên đã kết tội

oan bị cáo, nh vụ Bùi Minh Hải bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt tù
chung thân về tội giết ngời và hiếp dâm nhng chính tên Tèo mới là thủ phạm
gây ra vụ án này. Tại cơ quan điều tra Bùi Minh Hải khai nhận tội (???) nhng
tại phiên toà bị cáo không nhận tội, song Hội đồng xét xử vẫn buộc tội bị cáo.
Hơn ai hết, bị cáo là ngời có nguy cơ cao bị tớc một hoặc một số quyền.
Đành rằng chỉ có ngời nào phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự,
song việc tớc bỏ hoặc hạn chế một số quyền công dân của bị cáo nh thế nào
cho tơng xứng, phù hợp, đúng pháp luật là vấn đề vẫn đợc dặt ra bức xúc.
Cũng chính vì quyền con ngời của bị cáo dễ có nguy cơ bị xâm hại cho
nên nó cần phải có một loạt các quy định bảo đảm nhằm tránh nguy cơ bị tớc
bỏ hoặc hạn chế trái pháp luật.
Khác với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế),
trong quan hệ pháp luật hình sự (cả hình sự và tố tụng hình sự), hàng loạt các
quy định riêng đợc đặt ra nhằm đảm bảo quyền con ngời, quyền công dân của
16
các bên tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Đó là các quy
định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân, nghĩa vụ của Nhà nớc,
của các cơ quan, ngời tiến hành tố tụng, quy định về tội phạm, hình phạt, trình
tự, thủ tục tiến hành tố tụng. Tổng thể các quy định đó đợc tập hợp thành
những t tởng, nguyên tắc: công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế mà hớng
tới mục tiêu chung là bảo đảm quyền con ngời. Của bị cáo không bị tớc bỏ trái
pháp luật. Các quy định đó không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp luật cần thiết cho
các cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng và tránh đợc lạm dụng mà trớc hết và
chủ yếu là để bảo vệ con ngời, giúp mọi ngời biết rõ pháp luật để phòng tránh
việc vi phạm điều cấm của pháp luật, đồng thời cũng biết đợc quyền của mình
mà thực hiện, bảo vệ.
Vì giá trị cao quý của quyền con ngời đợc xã hội thừa nhận, vì quyền
con ngời đợc bảo vệ bằng pháp luật, cho nên quyền con ngời của bị cáo chỉ có
thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền trên cơ sở
pháp luật. ở nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có Toà án là cơ

quan duy nhất đợc nhân danh Nhà nớc ra quyết định áp dụng các biện pháp
hình phạt đối với ngời thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài Toà án, không một
cá nhân hay tổ chức nào có quyền đợc tớc bỏ các quyền của bị cáo. Sự phán
quyết của Toà án phải dựa trên cơ sở pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. "Khi
quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng
các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt đợc quy định
trong luật" [71,36].
Việc hạn chế quyền của bị cáo do Toà án quyết định và phải dợc tiến
hành bằng việc xét xử theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt đã đợc pháp luật quy
định. Vì thế mà pháp luật tạo ra các trình tự, thủ tục khác nhau nhằm khôi
phục lại các quyền, lợi ích của bị cáo bị xâm hại. Cụ thể là, các giai đoạn xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Các giai đoạn này đợc tiến
hành theo trình tự chặt chẽ nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các quyền, lợi ích
của bị cáo bị xâm hại, khôi phục lại các quyền, lợi ích bị tớc bỏ hoặc hạn chế
trái pháp luật "Ngời làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử
gây thiệt hại cho ngời khác phải bị xử lý nghiêm minh" (Điều 72, Hiến pháp
1992). Đồng thời "ngời bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có
quyền đợc bồi thờng thiệt hại về vật chất và khôi phục danh dự" (Điều 72,
17
Hiến pháp 1992). Không những thế các trờng hợp bị cáo bị kết án tử hình vẫn
có quyền viết đơn xin ân giảm.
Nh vậy, quyền con ngời của bị cáo là vấn đề rất nhạy cảm, dễ có nguy
cơ xâm hại, cho nên pháp luật bằng những quy định của mình tạo ra các điều
kiện, trình tự khác nhau, một mặt buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
tuân theo, mặt khác tạo cơ sở vững chắc cho bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích của
mình.
18
Ch ơng 2
Quy định của pháp luật đảm bảo quyền con ngời
trong xét xử hình sự ở nớc ta hiện nay

Để bảo đảm quyền con ngời của bị cáo, pháp luật đa ra một loạt các quy
định buộc các bên tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân thủ. Pháp luật bảo
đảm quyền con ngời trong xét xử hình sự là tổng thể các qui phạm pháp luật
qui định về tội phạm, hình phạt và xét xử hình sự cùng các quy định khác
nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và các bên có liên
quan không bị xâm hại trái pháp luật.
Nh vậy, việc bảo đảm quyền con ngời trong xét xử hình sự phải đợc thể
hiện trên tất cả các phơng diện vừa nêu. Nó không dừng lại ở việc qui định tội
phạm, hình phạt mà còn qui định việc xét xử các vụ án hình sự. Có nghĩa là nó
phải đợc bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập pháp và áp dụng pháp luật, ở cả trong
luật nội dung và luật hình thức. ở đó, quyền, nghĩa vụ của các bên tiến hành và
tham gia tố tụng đợc khẳng định, sự thật của vụ án và trách nhiệm hình sự phải đ-
ợc xác định một cách khách quan, chính xác nhất. ở đó, quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm hại phải đợc khôi phục lại, ngời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự t-
ơng ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do họ gây ra.
2.1. Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con
ngời đối với ngời phạm tội.
2.1.1. Quy định trách nhiệm hình sự
Với phơng châm " biết để không thực hiện" và "phòng tội hơn trị tội",
cho nên pháp luật hình sự , một mặt liệt kê cụ thể, rõ ràng những hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị cấm, mặt khác đa ra các quy định buộc mọi ngời phải tuyệt
đối tuân thủ. Theo nghĩa đó, Điều 2 Bộ luật hình sự quy định" chỉ ngời nào
phạm một tội đã đợc Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự". Đây là cơ sở thống nhất, duy nhất của trách nhiệm hình sự. Nó khẳng
định "chủ thể của một hành vi tội phạm chỉ có thể là một thể nhân cụ thể - tức
là một cá nhân chứ không phải là một tập thể hay một kiểu cộng đồng nào"
[67,4]. Nếu ai đó (bị cáo) đã phải chịu trách nhiệm hình sự thì ít nhiều, quyền
con ngời, quyền công dân của họ cũng phải bị hạn chế. Cho nên, ở đây pháp
luật quy định là: trách nhiệm hình sự chỉ đợc đa ra áp dụng đối với ngời phạm
19

tội, tức là khi mà ngời đó thực hiện hành vi vi phạm điều mà pháp luật hình sự
cấm, hay nói cách khác một ngời chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự bởi những
hậu quả do hành vi của chính ngời đó gây ra. Ngoài việc vi phạm điều cấm
của pháp luật hình sự - phạm tội ra, thì bất luận trong trờng hợp nào, trách
nhiệm hình sự cũng không thể đợc đa ra áp dụng. Không những thế, chỉ có
những dấu hiệu của hành vi đợc mô tả trong luật mới là cơ sở cho việc giải
quyết trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự thể hiện mối quan hệ giữa
Nhà nớc với công dân, là sự phản ứng của Nhà nớc đối với hành vi cụ thể nguy
hiểm cho xã hội đợc luật hình sự quy định, tức là đối với tội phạm. Hành vi có
thể đợc coi là tội phạm nếu có các yếu tố của một cấu thành tội phạm và đợc
luật hình sự quy định. Các yếu tố cấu thành tội phạm theo luật hình sự Việt
Nam bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Vậy, cơ sở
pháp lý của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm. "Cấu thành tội phạm là
hệ thống các dấu hiệu cần và đủ cho việc thừa nhận rằng ngời nào đó đã thực
hiện một tội phạm nhất định và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng
cần ở nghĩa rằng, thiếu sự có mặt của tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm ở sự tổng thể của chúng thì không thể buộc tội ngời đã thực hiện tội
phạm và do đó không thể truy cứu trách nhiệm của ngời đó. Chúng đủ là vì
rằng, không cần phải xác định thêm những số liệu bổ sung vào đó để có cơ sở
buộc tội ngời tơng ứng trong việc thực hiện tội phạm [38,291]. Nh vậy "hành
vi của ngời nào không có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm - cơ sở của
trách nhiệm hình sự thì ngời đó không phải chịu trách nhiệm hình sự và hình
phạt" [57, 45]. Đây là một bảo đảm quan trọng cho trách nhiệm hình sự không
thể đặt ra tràn lan, vô cớ.
Tuy vậy, cấu thành tội phạm mới chỉ là cơ sở cần và đủ cho việc thừa
nhận con ngời có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với hành vi, còn cha đủ đối
với việc lựa chọn biện pháp trách nhiệm đối với ngời đó. Để cho việc cân
nhắc, quyết định biện pháp trách nhiệm đối với ngời phạm tội - bị cáo, Toà án
không thể không xem xét nhân thân của họ. Nhng ở đây, để bảo đảm công
bằng của pháp luật đối với tất cả mọi ngời, cũng có nghĩa là bảo vệ mọi ngời

nói chung thì pháp luật chỉ thừa nhận cơ sở trách nhiệm hình sự là hành vi
phạm tội.
20
Khác với các hệ thống pháp luật khác, pháp luật hình sự nớc ta không
chấp nhận nguyên tắc "tơng tự", "án lệ" có thể trừng phạt con ngời một cách
tràn lan, mà khẳng định, mô tả tất cả mọi tội phạm vào một đạo luật duy nhất:
Bộ luật hình sự. Do đó mà quyền con ngời, quyền công dân đợc bảo đảm vững
chắc hơn.
Song Bộ luật hình sự mới dừng lại ở việc quy định "Cơ sở của trách
nhiệm hình sự" (Điều 2 BLHS) mà cha đa ra đợc định nghĩa thế nào là trách
nhiệm hình sự. Nếu đa ra định nghĩa về chế định này bên cạnh các chế định
"tội phạm" và "hình phạt" đã đợc định nghĩa thì sức thuyết phục của Bộ luật
hình sự sẽ cao hơn.
2.1.2. Quy định phân loại tội phạm
Việc đặt ra các quy phạm pháp luật hình sự không phải là để trừng phạt
mà các quy phạm này "có khả năng tác động lên ý thức và ý chí của cá nhân,
một mặt chúng kích thích các hoạt động hợp pháp, khuyến khích các hành vi
tích cực pháp luật; mặt khác lại có tác động kìm chế, đe doạ các động cơ dẫn
đến các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân" [21,204]. Do vậy, việc quy
định tất cả mọi tội phạm trong một Bộ luật hình sự là quan trọng, nhng quan
trọng hơn đối với việc quy định tội phạm là xác định rõ ràng giới hạn giữa
hành vi bị coi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bởi vì, nếu
không xác định cụ thể giới hạn đó thì có hành vi tuy cha đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ngợc lại, có
trờng hợp phạm tội lại coi là vi phạm pháp luật khác. Điều đó vi phạm nguyên
tắc công bằng - là nguyên tắc quan trọng đợc thừa nhận trong pháp luật Việt
Nam.
Trớc hết, phải khẳng định đợc rằng, tội phạm xuất phát từ những hành
vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì theo Mác
"Chỉ theo mức độ tôi tự biểu hiện ra, theo mức độ tôi bớc vào lĩnh vực thực tế,

thì tôi mới bớc vào phạm vi nằm dới quyền lực của nhà lập pháp. Ngoài những
hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn
không phải là đối tợng của nó. Những hành vi của tôi đó là lĩnh vực duy nhất
trong đó tôi đụng chạm tới pháp luật, bởi vì hành vi là cái duy nhất vì nó mà
tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực, và nh vậy là do nó mà tôi rơi vào quyền
lực của pháp luật hiện hành" [42, 513]. Do đó, các yếu tố khác nh: thái độ, ý
21
định, âm mu, quan điểm của con ngời khi cha đợc thể hiện trong thực tế bằng
hành vi thì không thể coi là tội phạm đợc. Còn tính nguy hiểm cho xã hội là
dấu hiệu vật chất tổng hợp của mọi hành vi trái pháp luật. Việc phân biệt tội
phạm với các vi phạm pháp luật khác dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội
của các hành vi, từ đó đa tới các phản ứng khác nhau của Nhà nớc đối với từng
loại vi phạm pháp luật - pháp luật hình sự xác định chính xác giới hạn của
hành vi phạm tội và hành vi không phạm tội và đợc khẳng định tại Điều 8
BLHS "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật
hình sự, do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của pháp luật xã
hội chủ nghĩa
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhng tính chất nguy hiểm
cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và đợc xử lý bằng các
biện pháp khác".
Việc xác định giới hạn hành vi phạm tội và hành vi không phải là tội
phạm trong Bộ luật hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, nó quy định
dứt khoát trong Bộ luật hình sự hành vi nào nguy hiểm cho xã hội hiện nay bị
cấm (tội phạm hoá) mà sự vi phạm điều cấm đó phải bị xử lý bằng chế tài hình
sự (hình sự hoá) hoặc ngợc lại, loại bỏ ra khỏi Bộ luật hình sự hành vi nào

nguy hiểm cho xã hội trớc đây bị cấm (phi tội phạm hoá) mà việc thực hiện
hành vi đó trong giai đoạn hiện nay không còn nguy hiểm nữa nên không cần
thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự nữa (phi hình sự hoá). Việc xác định giới
hạn chính xác hành vi phạm tội với hành vi không phạm tội còn có ý nghĩa
đặc biệt trong việc bảo đảm quyền con ngời, ở chỗ "nó quyết định hàng ngàn
số phận con ngời và xác định bộ mặt đạo đức của xã hội" [45,516]Chính vì
vây, Mác viết "nhà làm luật có đạo đức trớc hết phải cho rằng đối với mình
việc làm nguy hiểm, bệnh hoạn nhất và nghiêm trọng nhất là khi đa vào lĩnh
vực các tội phạm một hành vi mà không bị coi là tội phạm" [43,132]
22
Bộ luật hình sự năm 1985 của nớc ta đợc thi hành trong 15 năm đã
đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, song cũng bộc lộ những bất cập cha đáp
ứng đợc yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. Trớc tình hình đó ngày 21/12/1999
Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật hình sự
(1999), thay thế Bộ luật hình sự (1985) đợc Quốc hội thông qua ngày
27/6/1985. Sự kiện này đánh dấu một bớc tiến quan trọng trong công tác lập
pháp hình sự nớc ta đồng thời cũng là bớc tiến trong việc bảo đảm quyền con
ngời, quyền công dân.
Trớc hết nó khắc phục đợc một số yếu điểm của Bộ luật hình sự trớc đó
nh: "cha có điều kiện thực tế để cá thể hoá hết hành vi phạm tội, cá thể hoá
trách nhiệm hình sự và hình phạt vốn là một nguyên tắc quan trọng trong kỹ
thuật lập pháp hình sự cha có điều kiện để thể hiện đầy đủ nguyên tắc nhân
đạo xã hội chủ nghĩa của luật hình sự" [40,21].
Theo Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc Hội nớc Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thì, việc áp dụng, thi hành Bộ luật hình sự sẽ tạo những
điều kiện cơ sở thuận lợi hơn cho việc bảo đảm thực hiện quyền con ngời,
quyền công dân, chẳng hạn nh:
a. Các điều luật xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định
một hình phạt nhẹ hơn và các quy định khác có lợi cho ngời phạm tội thì đ-

ợc áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trớc 0h ngày 1/7/2000.
b. Ngợc lại, các điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt
mới và các quy định khác không có lợi cho ngời phạm tội thì không áp dụng
đối với những hành vi phạm tội xảy ra trớc 0h ngày 1/7/2000 mà áp dụng quy
định tơng ứng của các văn bản pháp luật trớc đây để giải quyết.
c. Không xử lý về hình sự (kể từ ngày Bộ luật đợc công bố -
04/01/2000) đối với ngời thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trớc đây quy
định là tội phạm nhng Bộ luật hình sự 1999 không quy định là tội phạm
Nh vậy, để bảo đảm quyền con ngời, quyền công dân của mọi ngời nói
chung và bị cáo nói riêng thì trớc hết đòi hỏi phải quy định dứt khoát, rõ ràng
hành vi bị coi là tội phạm và hành vi không phải là tội phạm. Từ đó làm cơ sở
cho việc phân hoá trách nhiệm tơng ứng: trách nhiệm hình sự và các trách
nhiệm khác.
23
Đồng thời, ngay trong trách nhiệm hình sự, để bảo đảm quyền con ngời,
quyền công dân cũng đòi hỏi phải có sự phân hoá đối với tội phạm và những
ngời phạm tội. Bởi vì, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các tội
phạm và nhân thân của ngời phạm tội trong các trờng hợp (vụ án) khác nhau
thì khác nhau. Phân loại tội phạm một cách có căn cứ, đúng đắn là vô cùng
quan trọng và cần thiết trong việc phân hoá trách nhiệm hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1985 đã phân các tội phạm thành 2 loại: tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Cách phân loại này đã bộc lộ
những mặt hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là quy định khoảng cách quá
rộng giữa mức khởi điểm và mức cao nhất của khung hình phạt định cho mỗi
loại tội phạm (từ trên 5 năm tù đến chung thân, tử hình; từ 5 năm tù trở xuống
đến 3 tháng tù), do đó ảnh hởng đến chính sách xử lý đối với ngời phạm tội,
gây khó khăn cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và việc bảo vệ quyền, lợi
ích của bị cáo.
Để khắc phục hạn chế này và cũng là tạo cơ sở cho việc áp dụng chính
sách xử lý thích hợp cho từng loại tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1999 tại

khoản 2 Điều 8 đã phân tội phạm thành 4 loại nh sau:
- Tội phạm ít nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa to lớn
trong việc hoàn thiện các chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam,
chẳng hạn, quy định về nguyên tắc xử lý (Điều 3), tuổi chịu trách nhiệm hình
sự (Điều 12), chuẩn bị phạm tội (Điều 17), thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự (Điều 23), tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 19 BLHS)
Cách phân loại tội phạm thành 4 loại là tạo cơ sở để cụ thể hoá trách
nhiệm hình sự và để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể thành nhiều
24
khung trên cơ sở căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, bảo đảm tốt hơn cho việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự và
hình phạt. Cũng chính từ việc phân loại tội phạm sẽ tạo ra cơ sở để xây dựng
nhiều chế định của Bộ luật tố tụng hình sự, chẳng hạn nh thủ tục rút gọn, mở
rộng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện
Việc phân loại tội phạm phản ánh đợc nội dung của tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của mọi tội phạm, đồng thời nó đợc "đo lờng" bởi các
loại và mức hình phạt tơng ứng. Chính vì vậy "việc đánh giá mức độ của tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm với tính cách là cơ sở thống nhất của việc
phân loại tội phạm và đợc cân nhắc trong khi xây dựng các chế định của phần
chung và phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự là thẩm quyền của nhà
làm luật khi xây dựng và ban hành luật hình sự, chứ không phải là thẩm quyền

của Toà án khi áp dụng luật" [73;82,83]. Các loại, mức hình phạt quy định
trong Bộ luật hình sự là biểu hiện tập trung giữa các yếu tố chủ thể, mặt khách
thể, khách quan, mặt khách quan của tội phạm và đồng thời phù hợp với mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Do đó, việc phân loại tội phạm phải đ-
ợc dựa trên các căn cứ khoa học khác nhau, là cơ sở cho việc cá thể hoá hình
phạt, tìm ra loại và mức hình phạt phù hợp, tơng ứng với tội phạm. Và có nh
vậy mới tạo ra đợc những tiền đề cần thiết cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, của bị cáo khỏi các hành vi xâm hại trái pháp luật, cũng là
một trong các yếu tố thể hiện nguyên tắc công bằng, nhân đạo trong luật hình
sự Việt Nam.
Việc đa ra định nghĩa pháp lý về tội phạm hay "khái niệm tội phạm"
trong Bộ luật hình sự là vô cùng cần thiết. Nhng khái niệm đó cần đợc quy
định một cách ngắn gọn hơn, không cần liệt kê một cách dài dòng nh khoản 1,
Điều 8 BLHS hiện nay. Mặt khác, để cho "khái niệm tội phạm" đợc hiểu theo
đúng nguyên nghĩa và nội dung của nó thì không nên đa các quy định về phân
loại tội phạm vào Điều 8 này. Hơn nữa pháp luật đã quy định "tội phạm" thì
chỉ là tội phạm, chứ không thể là "không phải là tội phạm" nh khoản 4, Điều 8
BLHS đợc. Do đó, cần có sự điều chỉnh Điều 8 cho hợp lý hơn.
Quy định chủ thể và lỗi của chủ thể:
25

×