Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích sự tác động của thông tin đại chúng và dư luận xã hội đến hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.94 KB, 13 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Để quản lý xã hội, Nhà nước đã ban hành ra pháp luật, đó là hệ thống các quy
tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, nhằm điều
chỉnh xã hội theo hướng xác định. Để làm được điều đó, các chủ thể cần thực hiện
pháp luật. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay như yếu tố về văn hóa, kinh tế, xã hội… Trong đó, thông tin đại chúng và dư
luận xã hội có ảnh hưởng một cách sâu rộng và toàn diện đến hoạt động thực hiện
pháp luật. Để tìm hiểu kỹ hơn vấn đề này, em xin chọn đề bài số 05 để làm bài tập
học kỳ: “Phân tích sự tác động của thông tin đại chúng và dư luận xã hội đến hoạt
động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay”. Bài làm còn nhiều thiếu sót, rất
mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I.
LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm thông tin đại chúng
Thông tin là hoạt động truyền phát và trao đổi tin tức giữa người với người
nhằm đạt được sự hiểu biết và tạo ra sự giao tiếp liên kết xã hội. Thông tin đại
chúng được hiểu là một quá trình truyền đạt đến các nhóm cộng đồng đông đảo
trong xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương tiện thông
tin đại chúng bao gồm: báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, sách, phim, video,
internet, …
Đặc điểm của các phương tiện thông tin đại chúng là các tin tức từ hệ thống
này được truyền đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp. Nó
vừa phải hướng đến các đối tượng công chúng nói chung, vừa phải quan tâm tới
nhu cầu thông tin qua các nhóm công chúng cụ thể. Hoạt động của hệ thống thông
tin đại chúng luôn chịu sự tác động từ hai phía, phía thứ nhất là các thiết chế xã hội
và phương tiện đó là các công cụ (như các tờ báo của các tổ chức chính trị xã hội),
và phía thứ hai là công chúng báo chí. Ngày nay, hệ thống thông tin đại chúng có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Sự tác
1




động của các phương tiện thông tin đại chúng với các nhóm công chúng là rất khác
nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, về quyền lợi giai cấp, về các nhân tố tâm
lý và về cường độ giao tiếp đối với phương tiện truyền thông. Sự phổ biến của các
phương tiện thông tin đại chúng cho thấy hệ thống này đã trở thành phương tiện
của toàn dân, đến với các cá nhân, các nhóm người trong thời gian nhất định. Nhờ
đó, mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng trở nên chặt chẽ và phức tạp hơn và sự hoạt động của các phương tiện thông
tin đại chúng có tác động rất mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay.
2. Khái niệm dư luận xã hội
Dư luận xã hội có vai trò và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo dục…,
trong số đó, phải kể tới sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt
động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay.
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét và đánh giá
của nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự,
có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được
thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ. Bất kỳ một xã hội
nào, dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất định và trong nhiều trường hợp
còn có tác động mạnh mẽ đến các quá trình chính trị, xã hội, đến việc lãnh đạo và
quản lý xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội đã đóng vai trò là
yếu tố điều hòa các mối quan hệ xã hội và điều chỉnh hành vi của con người. Sức
mạnh của dư luận xã hội đã được thể hiện ngay cả khi trong xã hội còn chưa xuất
hiện các hiện tượng giai cấp, nhà nước và pháp luật. Trong xã hội nguyên thủy,
mặc dù dư luận xã hội chỉ tồn tại với tư cách là những ý kiến, quan điểm, thái độ
và sự phán xét chung của cộng đồng người, nhưng nó đã giữ vai trò là vừa là
phương tiện giáo dục, vừa là công cụ định hướng, điều tiết hành vi của con người.
Điều đáng sợ nhất đối với mỗi thành viên trong xã hội nguyên thủy là bị dư luận xã

hội lên án, bị cộng đồng ruồng bỏ. Khi khái quát về chế độ xã hội nguyên thủy, Ph.
2


Ăngghen đã nhận xét rằng, trong chế độ xã hội này, “ngoài dư luận công chúng ra,
không có một phương tiện cưỡng chế nào cả. Trong xã hội có giai cấp, vai trò điều
hòa các quan hệ xã hội của dư luận xã hội được thể hiện cùng với pháp luật. Khi
nói về pháp luật, theo C. Mác, dư luận xã hội là “kết quả của việc biến ý thức xã
hội thành sức mạnh xã hội … nhờ có các luật pháp chung do chính quyền Nhà
nước thi hành”. Sự khẳng định của C. Mác cho chúng ta chiếc chìa khóa để hiểu
biết về cơ chế biến đổi dư luận xã hội thành sức mạnh xã hội và chỉ ra sự ảnh
hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động xây dựng, thực hiện pháp và áp dụng
pháp luật.
3. Khái niệm thực hiện pháp luật
Dưới góc độ luật học cũng như xã hội học pháp luật thì thực hiện pháp luật là
hành vi phù hợp với các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực pháp luật, mang
lại và đáp ứng lợi ích của xã hội, của nhà nước và của mỗi người. Hành vi đó có
thể được thực hiện phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ
phụ thuộc vào ý chí của nhà nước. Nó có thể được thực hiện xuất phát từ sự nhận
thức sâu sắc và tự giác của chủ thể về sự cần thiết phải xử sự như vậy; có thể do
cách xử sự của những người xung quanh tác động tới chủ thể khiến chủ thể thực
hiện theo; có thể do kết quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
hoặc tâm lý sợ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chủ thể phải thực hiện.
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy
định của pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp
pháp của các chủ thể pháp luật.
Nhìn dưới góc độ luật học, thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc
không hành động) của con người đáp lại các quy tắc đòi hỏi của chuẩn mực pháp
luật. Nó có thể là hành vi của từng cá nhân, mà cũng có thể là hoạt động của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội tương ứng với mục đích (lợi ích) mà họ mong đợi.

Thực hiện pháp luật có các hình thức cơ bản là tuân theo (tuân thủ) pháp luật, thi
hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật:
3


- Tuân theo (tuân thủ) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật trong đó
các chủ thể pháp luật tự kiềm chế để không thực hiện những hành vi, hoạt
động mà pháp luật ngăn cấm. Tuân theo pháp luật chưa làm phát sinh quan
hệ pháp luật.
- Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực. Những quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc, như quy định
phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định, thường được thực hiện theo
hình thức này .
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà
pháp luật cho phép). Hình thức sử dụng pháp luật khác với các hình thức nêu
trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện các
quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị bắt buộc
phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông
qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các
quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,đình
chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
II.
VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
1. Vai trò giáo dục

Dư luận xã hội giáo dục con người có khi còn mạnh hơn biện pháp hành chính.
Khi đã hình thành, có tác động vào ý thức con người, chi phối ý thức cá nhân. Đại
đa số người trong cộng đồng đều quan tâm tới dư luận xã hội đánh giá hành vi của
mình, có khuynh hướng giữ gìn, bảo vệ những đánh giá tốt, sửa chữa sai sót đáp
ứng những đòi hỏi của dư luận xã hội đối với bản thân mình. Từ đó, dư luận xã hội
có thể khen hoặc chê, động viên hay phê phán, khuyến khích hoặc công kích
những biểu hiện đạo đức hoặc hành vi cá nhân của nhóm người trong xã hội,
4


phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, buộc cá nhân phải thu mình vào khuôn
khổ đạo đức và pháp luật. Ví dụ, một quan chức nhà nước không làm tròn bổn
phận, nghĩa vụ của mình sẽ bị dư luận bàn tán, ảnh hưởng tới uy tín danh dự không
chỉ của người đó mà còn của cả gia đình. Như vậy, nếu không muốn bị dị nghị,
người đó phải hoàn thành chức năng của mình.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội có tính lan
truyền rộng rãi, từ đó, các ý kiến, phán xét hiện tượng pháp lý nào đó cũng lan
nhanh trong xã hội. Ban đầu chỉ là những ý kiến nhỏ lẻ của cá nhân nhưng lan
truyền càng rộng thì càng thống nhất về nội dung, làm cho mọi người trong xã hội
nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện
tượng pháp luật. Sau đó vai trò giáo dục của thông tin đại chúng và dư luận xã hội
còn thể hiện ở chỗ, dư luận xã hội tham gia vào việc phổ biến, tuyên truyền trong
các tầng lớp xã hội những giá trị, tư tưởng, quan điểm pháp luật. Thông qua dư
luận xã hội, ý thức thực hiện pháp luật của người dân dần dần nâng cao. Như việc
trưng cầu ý dân về Hiến pháp chẳng hạn. Việc công khai tạo điều kiện cho nhân
dân tham gia một cách đông đảo vào việc đóng góp ý kiến về văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất đem lại hiệu quả trong việc tuyên truyền pháp luật của
nhà nước, huy động được trí tuệ tập thể và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
phát huy tính tích cực nâng cao ý thức pháp luật của người dân
2. Vai trò đấu tranh phòng chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội

Thông tin đại chúng và dư luận xã hội là một phương tiện giáo dục có hiệu quả,
đồng thời là một nhân tố phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật. Sự phán xét, đánh
giá tập thể ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành cách xử sự hợp pháp của mọi
người dân. Không ai có thể sống ngoài dư luận, bởi vậy cũng không ai có thể thực
hiện những hành vi bất hợp pháp mà không bị bàn luận.
Đối với đại đa số quần chúng nhân dân, lợi ích quốc gia dân tộc luôn có tầm
quan trọng hàng đầu. Mỗi khi quyền lợi, các giá trị quốc gia, dân tộc bị xâm hại thì
dư luận xã hội lập tức xuất hiện với thái độ lên án, phản đối gay gắt mỗi khi các cá
5


nhân hoặc nhóm xã hội nào đó có hành vi xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc,
dư luận xã hội cũng lập tức lên án, gây sức ép nhằm ngăn hành vi đó. Chẳng hạn,
những vụ phạm pháp hình sự đặc biệt nghiêm trọng, như vụ giết người ở Bình
Phước, hay Trung Quốc ngang nhiên chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
với lời lẽ bao biện, xảo trá… đã được các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin
khiến cho dư luận xã hội hết sức căm phẫn, đòi trừng phạt nghiêm khắc kẻ phạm
tội. Điều đó cho thấy, dư luận xã hội có tác dụng củng cố, bảo vệ tính dân chủ, tính
khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật. Từ đó ngăn ngừa các biểu hiện
tiêu cực trong sử dụng quyền lực của nhà nước, áp dụng pháp luật, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như của cả dân tộc.
Ngày nay, nhân dân trực tiếp đấu tranh chống tiêu cực thông qua việc khiếu
nại, tố cáo và thông qua các diễn đàn nhân dân, nhất là bằng các phương tiện thông
tin đại chúng. Ngoài việc đóng góp ý kiến trực tiếp với cán bộ Đảng viên ở các
cấp, người dân còn gửi thư, đơn đến các cơ quan chức năng, cơ quan Thông tin báo
chí ở trung ương và địa phương góp ý, phát hiện những sai phạm về kinh tế, tham
nhũng, tiêu cực. Sự tham gia của nhân dân và công tác đấu tranh chống tiêu cực
còn thể hiện thông qua các diễn đàn nhân dân như báo nói, báo viết, báo hình. Nhờ
có sự tham gia tích cực và rộng rãi của nhân dân và công tác thanh tra, giám sát
trực tiếp hoặc gián tiếp mà nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện và đưa ra

xử lý.
Bên cạnh đó, vì áp lực của xã hội, những vụ “bê bối” của cán bộ được phanh
phui, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, hạn chế tình trạng cậy
chức cậy quyền “đổi trắng thay đen”. Và từ đó, dư luận góp phần răn đe những nhà
cầm quyền khác hạn chế những vấn nạn như tham nhũng, mua quan bán chức…
3. Vai trò đánh giá
Các quy định của pháp luật kể từ khi ban hành đến khi thực hiện trong cuộc
sống là một khoảng thời gian dài. Để những quy định đó phát huy hiệu quả thì phải
có sự tham gia của dư luận xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
6


Qua việc nghiên cứu dư luận xã hội, những thông tin thu thập được qua điều tra,
tham gia sẽ cung cấp cho chúng ta những đánh giá đúng – sai, thật - giả, mặt tích
cực - mặt tiêu cực của những quy định pháp luật, của việc thực hiện pháp luật…
Trên cơ sở của sự phán xét, đánh giá về các sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn
ra trong đời sống xã hội, dư luận xã hội làm nảy sinh trong nhận thức của mọi
người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngoài, ngẫu nhiên và sau đó là những
tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của pháp luật. Từ đó, hình thành nên các quan
điểm, quan niệm, tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và
các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội. Điều đó
nói lên sự tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội đối với quá trình nhận thức pháp
luật. Một khi nhận thức đúng đắn về pháp luật, ý thức pháp luật được nâng cao tất
yếu sẽ dẫn tới việc thực hiện pháp luật một cách tự giác và đồng đều.
4. Vai trò giám sát, tư vấn
Hoạt động giám sát đối với việc thực hiện pháp luật được thể hiện như sau:
Đối với việc tuân thủ Pháp luật: Nhờ sự giám sát của dư luận xã hội qua các
phương tiện thông tin đại chúng, buộc các chủ thể phải kiềm chế không tiến hành
các hoạt động mà pháp luật cấm, nếu không sẽ ngay lập tức bị lên án, trở thành
trung tâm cho xã hội bàn luận. Nhờ đó pháp luật được tuân thủ tốt hơn, đảm bảo

quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân.
Đối với việc thi hành pháp luật: Cùng với các cơ quan nhà nước, sự giám sát
của dư luận xã hội buộc các chủ thể pháp luật phải tích cực thực hiện nghĩa vụ
pháp lý của mình với Nhà nước. Nhân dân đã tham gia tích cực vào việc tiến hành
thanh tra như cử đại diện tham gia đoàn thanh tra, cung cấp tài liệu, chứng cứ,
tham gia góp ý kiến, thông qua kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra, góp phần
quan trọng trong việc phát hiện các vụ việc tham nhũng tiêu cực, giải quyết ổn
định tình hình cơ sở tại các địa phương
Đối với việc sử dụng pháp luật: Nếu không có dư luận xã hội, bộ máy cưỡng
chế của Nhà nước sẽ không quản lý hết được mọi cấp, mọi ngành, nhờ đó mà tình
7


trạng lạm chức lộng quyền giảm đáng kể. Một khi có biểu hiện, dư luận sẽ lên án,
từ đó các cơ quan thi hành sức mạnh cưỡng chế có cơ sở để điều tra, trả lời cho dân
biết. Ví dụ, ông Nguyễn Văn Nên (nguyên Phó Thủ trưởng cơ quan CSĐT công an
Tiền Giang) bị truy tố về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ
cùng với hai cựu sĩ quan Ngô Thanh Phong (nguyên Trưởng phòng CSĐT tội
phạm về kinh tế và chức vụ công an tỉnh Tiền Giang) và Phạm Văn Út (nguyên đội
trưởng đội tham mưu văn phòng Cơ quan CSĐT công an Tiền Giang) trong vụ án
lấy tiền tang vật của nhóm buôn xăng dầu Trần Thế Hùng gửi ngân hàng lấy lãi
chia nhau. Ngay lập tức, vụ án được đưa tin rầm rộ trên các phương tiện truyền
thông khiến dư luận bàn luận sôi nổi, buộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
phải vào cuộc điều tra tới cùng.
Đối với hoạt động áp dụng pháp luật: không chỉ ảnh hưởng tới cơ quan nhà
nước, thông tin đại chúng và dư luận xã hội còn là tiếng nói để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, tránh tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện, kém hiệu quả.
Ví dụ vụ án oan sai của ông Huỳnh Văn Nén, ngồi tù oan 17 năm vì bị buộc tội
giết bà Lê Thị Bông cướp tài sản năm 1998 tại thị trấn Tân Minh huyện Hàm Tân
gây chấn động trong nước. Sự bức xúc của dư luận đã buộc Tòa án nhân dân tỉnh

Bình Thuận điều tra, xử lý nghiêm minh và bồi thường thỏa đáng. Nếu dư luận
không lên tiếng, liệu vụ án có bị bưng bít? Đó là điều không thể chắc chắn.
III.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN ĐẠI
CHÚNG, DƯ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
1. Giải pháp phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối
với công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp
nhân dân
Đa số các tầng lớp xã hội đều có nhu cầu hiểu biết pháp luật. Theo tinh thần đó,
phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân là biện pháp không thể thiếu nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật ở các chủ thể này.
8


Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là sự tác động chủ động tích cực
của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích cung cấp, trang bị kiến
thức pháp luật, hình thành tình cảm, thái độ tích cực đối với pháp luật, tạo lập thói
quen tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật cho các đối tượng xã hội. Bản chất
của giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể
giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức
pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện
hành.

Giáo dục pháp luật là một yếu tố của quá trình hình thành và phát

triển ý thức pháp luật ở các cá nhân, tạo cơ sở để họ thực hiện pháp luật một cách

phù hợp nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta luôn luôn coi trọng công tác
phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Khác với các phương pháp, hình thức
tuyên truyền giáo dục pháp luật khác, các phương tiện thông tin đại chúng có thể
đưa đến cho đông đảo công chúng các thông tin, kiến thức pháp luật một cách
nhanh chóng nhất, cập nhật nhất, rộng rãi nhất và phù hợp nhất với nhiều đối tượng
xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng cần dành thời lượng nhiều hơn cho
việc đăng tải những thông tin về các văn bản, chính sách pháp luật mới của nhà
nước và của chính quyền các cấp một cách đầy đủ và chi tiết. Cần mở thêm các
chuyên mục mới về phổ biến giáo dục pháp luật với thời lượng dài hơn, thông tin
đa dạng và phong phú hơn và hình thức thể hiện hấp dẫn hơn. Các báo nói và báo
hình cần chú ý đến khung giờ phát sóng các chương trình phổ biến, giáo dục pháp
luật sao cho phù hợp với các

nhóm đối tượng xã hội khác nhau.

Các phương tiện thông tin đại chúng cần phải một thời lượng thích đáng cho
việc đăng tải phải phát sóng các thông tin về đời sống pháp luật đã được kiểm
chứng chính thức và mang tính xây dựng. Đặc biệt, khi có các sự kiện, sự việc,
hiện tượng pháp luật diễn ra có tầm quan trọng, liên quan đến lợi ích của đất nước,
của dân tộc, động chạm đến các giá trị và chuẩn mực pháp luật cơ bản như sửa đổi
Hiến pháp, xây dựng và ban hành các bộ luật quan trọng, các vụ án đặc biệt
nghiêm trọng xảy ra, các hành vi tiêu cực, phạm pháp, phạm tội của các cán bộ cấp
9


cao, các ngành… Khi đó, định hướng thông tin của báo chí chính là phải kịp thời
đưa ra đường lối, quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước, ý kiến kết luận
chính thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin phải đi liền với việc

tuân thủ nguyên tắc tính chân thật, phản ánh đúng bản chất của vấn đề: khen ngợi,
biểu tượng mà không tô hồng; phê phán, lên án mà không bôi đen. Khi phản ánh
các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã hội, các phương tiện
thông tin đại chúng cần tránh hai khuynh hướng: một là, phản ánh thiếu chọn lọc,
thiếu sự cân nhắc, đưa tin tùy tiện, dễ dãi, chưa được kiểm chứng, dẫn đến làm
phức tạp hóa những vấn đề vốn đã phức tạp; hai là, khuynh hướng bưng bít, cắt
xén làm khô khan thông tin về đời sống pháp luật, dẫn đến làm mất lòng tin của
nhân dân.
2. Giải pháp phát huy vai trò của thông tin đại chúng đến hoạt động thực
hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
Phát huy vai trò của dư luận xã hội phải gắn chặt với công tác xây dựng hệ
thống chính trị: xây dựng chỉnh đốn Đảng; cải cách thủ tục hành chính, xây dựng
và củng cố Cơ quan Tư pháp; phát huy vai trò chủ động của các tổ chức quần
chúng và mặt trận tổ quốc.
Trong lĩnh vực pháp luật: nhà nước phải có một cơ chế hợp lý để nắm bắt kịp
thời những thông tin và dư luận xã hội phản ánh về những hành vi tiêu cực, vi
phạm pháp luật trong xã hội:
- Tổ chức các cuộc họp định kỳ để nhân dân phát biểu; công tác điều tra cũng
phải được công khai;
- Nhà nước phải có biện pháp cổ vũ động viên dư luận xã hội tích cực phát
hiện các trường hợp vi phạm pháp luật.
- Ngược lại phải có biện pháp răn đe, cảnh cáo các cá nhân, tổ chức thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật.
- Nhà nước phải có những biện pháp ngăn chặn kịp thời những dư luận xã hội
không đúng, tránh gây sự hoang mang, lo sợ hoặc đánh giá không đúng vấn
đề, dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
10


Trong các lĩnh vực xã hội:

- Lãnh đạo các tổ chức, đơn vị trước hết phải nắm nắm bắt kịp thời các sự
kiện, hiện tượng mang tính thời sự liên quan đến tổ chức, đơn vị mình, các
sự kiện, hiện tượng liên quan đến lợi ích của cấp quốc gia, dân tộc cũng như
nắm bắt và làm chủ được dư luận xã hội về sự kiện, hiện tượng đó để làm cơ
sở cho việc định hướng dư luận xã hội
- Đánh giá khách quan hệ quả và sự tác động của báo chí và các phương tiện
truyền thông đại chúng đối với các nhóm công chúng và dự báo được những
phát sinh từ hệ quả tác động của báo chí. Những tình huống có thể phát sinh
bao gồm cả những phản ứng tích cực hay phản ứng tiêu cực, đồng thuận hay
không đồng thuận, ủng hộ hay phản đối… về một nội dung thông tin nào đó
được cung cấp đến công chúng
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội, trong đó việc
nghiên cứu cần phải làm rõ tính quy luật và những nhân tố ảnh hưởng đến
quá trình phát sinh các luồng ý kiến khác nhau cũng như cơ sở khoa học để
đánh giá phán xét một luồng ý kiến nào đó, nâng cao vai trò chức năng dự
báo, chức năng phản biện xã hội trong các nghiên cứu dư luận xã hội
- Định hướng dư luận xã hội cũng là việc minh bạch hóa các nguồn thông tin,
hạn chế nhận thức sai lệch và loại bỏ tin đồn thất thiệt trong xã hội
- Nâng cao khả năng dự báo, tham mưu trong quá trình nghiên cứu nắm bắt
dư luận xã hội.

KẾT LUẬN
Thông tin đại chúng và dư luận xã hội có vai trò rất lớn trong việc thực hiện
pháp luật. Thế nhưng, bên cạnh những điểm mạnh cũng còn tồn tại khuyết điểm
cần lưu ý. Cần phải phát huy những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm, tiến
tới xóa bỏ những yếu kém tồn tại để việc thực hiện pháp luật thông qua phương
tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội được nâng cao. Tuy nhiên, đồng thời,
mỗi người chúng ta cũng cần phải nâng cao ý thức, bảo vệ sự tốt đẹp của thông tin
đại chúng và dư luận xã hội, không để kẻ xấu lợi dụng nó để làm phương tiện gây
khó khăn cho nước nhà. Muốn vậy, mỗi người cần có những hiểu biết nhất định về

11


pháp luật, sao cho đủ hiểu, không đơm đặt, thêm thắt, xuyên tạc sự thật nhằm đảm
bảo quyền lợi con người.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Xã hội học Pháp luật, Nxb Hồng Đức, Ngọ Văn Nhân
2. Tập bài giảng xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội
3. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội ,Nxb Công An nhân dân
4. Nguyễn Minh Đoan – Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội Nhà xuất
bản chính trị Quốc gia
5. />6. />
12


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………..
NỘI DUNG
I.

LUẬN
CHUNG…………………………………………………………
1.
Khái
niệm
thông

tin
đại
chúng
……………………………………………..
2.
Khái
niệm

luận

hội……………………………………………………
3.
Khái
niệm
thực
hiện
pháp
luật………………………………………………
II. VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY…
1.
Vai
trò
giáo
dục……………………………………………………………..
2. Vai trò đấu tranh phòng chống các hiện tượng tiêu cực trong xã
hội……….
3. Vai trò đánh giá……………………………………………………………..
4.

Vai
trò
giám
sát,

vấn……………………………………………………...
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN ĐẠI
CHÚNG, DƯ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN
PHÁP
LUẬT

VIỆT
NAM
…………………………………………………………
1. Giải pháp phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối
với công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp
nhân dân
2. Giải pháp phát huy vai trò của thông tin đại chúng đến hoạt động thực
hiện
pháp
luật

nước
ta
hiện
nay…………………………………………………...
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

13


1
1
1
2
3
4
4
5
6
7

8
8
10
11



×