Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

PHÂN TÍCH SỰ TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.82 KB, 38 trang )

PHÂN TÍCH SỰ TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
a. Doanh nghiệp nhỏ và vừa trước năm 2000
Như chúng ta đã biết, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
mới được chính thức thừa nhận từ năm 1990. Khi luật doanh nghiệp tư nhân và
luật Công ty được thông qua. Từ đó đến nay loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam
cũng trở nên phong phú hơn như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phẩn …
- Theo số liệu điều tra về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiến hành trong
2 năm 1995 - 1996 thì đến ngày 31/7/1996 có 1.439.683 đơn vị kinh doanh tư
nhân, trong đó gồm 1.412.166 cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 doanh nghiệp
tư nhân, 6883 Công ty trách nhiệm hữu hạn, 153 Công ty cổ phần và 2946 hợp tác
xã. Như vậy, xét về số lượng đơn vị kinh doanh thì hình thức cá nhân và nhóm
kinh doanh và tiếp đến là doanh nghiệp tư nhân là những hình thức kinh doanh phổ
biến ở Việt Nam hiện nay.
- Số lượng các đơn vị kinh doanh chủ yếu tập trung ở 3 vùng:
+ Vùng đồng bằng sông Cửu Long 24%; vùng đồng bằng sông Hồng 21%;
vùng miền đông Nam Bộ 19%. Tiếp đó là 13% ở vùng khu bốn cũ; 10% ở vùng
duyên hải miền Trung; 9% miền núi trung du; 4% ở Tây Nguyên. Như vậy số
lượng doanh nghiệp tư nhân ở 3 vùng đầu đã chiếm hơn 60% đơn vị kinh doanh tư
nhân trên địa bàn cả nước.
Bảng phân bố cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh theo vùng
bảng 2 Đơn vị: %
Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp
DNTN Cty TNHH Cty Cổ phần HTX Hộ GĐ
1. Vùng núi trung du 3,91 3,79 1,96 12,49 9,62
2. Đồng bằng sông Hồng 5,32 32,7 22,88 48,07 21,19
3. Khu bốn cũ 2,74 2,44 1,31 8,72 13,26
4. Duyên hải miền trung 20,64 4,71 7,19 11,2 10,14
5. Tây Nguyên 2,46 1,09 1,31 2,14 3,72
6. Đông Nam Bộ 24,8 51,27 53,59 12,8 18,43


7. Đồng bằng sông Cửu Long 40,14 4,00 11,76 4,58 23,63
Tổng cộng 100 100 100 100 100
Nguồn: niên giám thống kê năm 1996
- Xét về ngành nghề kinh doanh thì các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực
kinh tế tư nhân chủ yéu hoạt động trong 3 ngành: ngành dịch vụ thương nghiệp sửa
chữa xe động cơ mô tô, xe máy chiếm 46%; trong công nghiệp chế biến 22% và
khách sạn nhà hàng 13%.
bảng 3
Bảng phân bổ các loại hình kinh doanh ngoài quốc doanh phân theo ngành
kinh tế (31/12/1996) Đơn vị: %
Phân theo ngành kinh tế Loại hình doanh nghiệp
DNTN Cty
TNHH
Cty
Cổ phần
HTX Kinh tế
cá thể
1. Nông nghiệp 0,18 0,49 0,65 0,37 0,88
2. Thuỷ sản 20,66 0,18 1,31 0,98 3,63
3. Công nghiệp khai thác mỏ 0,23 0,38 0,00 4,85 1,01
4. Công nghiệp chế biến 22,47 24,04 31,37 55,47 22,17
5. sản xuất phân phối điện khí đốt 0,14 0,1 0,00 0,24 0,02
6. Xây dựng 4,55 13,80 8,5 5,53 0,13
7. Thương nghiệp, sửa chữa 43,36 47,92 22,22 12,22 46,4
8. Khách sạn 4,46 3,72 2,61 0,68 13,09
9. Vận tải thông tin 1,08 4,55 1,31 13,44 7,62
10. Tài chính tín dụng 0,19 0,07 26,14 5,84 0,01
11. Khoa học và công nghệ 0,01 0,22 0,00 0,00 0,00
12. Kinh doanh tài sản và dịch vụ
tư vấn

0,47 3,17 5,88 0,1 1,21
13. Giáo dục và đào tạo 0,0 0,01 0,00 0,00 0,02
14. Hoạt động y tế 0,01 0,03 0,00 0,00 0,56
15. Hoạt động văn hoá thể thao 0,04 0,1 0,00 0,03 1,05
16. Hoạt động phục vụ cộng đồng 2,21 0,97 0,00 0,24 2,21
% Tổng số 100 100 100 100 100
Nguồn: Vụ doanh nghiệp bộ KH&ĐT
- Xét về doanh thu của các loại hình doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư
nhân, thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 40% tổng doanh thu của khu vực
kinh tế tư nhân. Như vậy về khía cạnh này nhóm doanh nghiệp đăng ký chính thức
gồm doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần chiếm
phần quan trọng (khoảng 57%). Điều này có thể do các doanh nghiệp tư nhân khai
báo không đúng về doanh thu của doanh nghiệp của mình để tránh đóng thuế cao
hơn. Và nếu muốn kinh doanh theo quy mô lớn thì chắc chăn phải chuyển đổi sang
hình thức doanh nghiệp đăng ký chính thức hoạt động theo những nguyên tắc của
thị trường.
Điều đáng lưu ý là doanh thu khu vực miền Đông Nam Bộ, gồm cả thành
phố Hồ Chí Minh chiếm tới 51% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân trên
cả nước. Tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Cửu Long 22%; vùng đồng bằng sông
Hồng 17%. Như vậy xét về doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ
yếu tập trung ở miền nam Việt Nam.
Doanh thu của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh phân theo khu vực lãnh
thổ
bảng 4 Đơn vị tính: %
Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp
DNT
N
Cty
TNHH
Cty

Cổ phần
HTX Kinh tế
cá thể
% DT
theo vùng
1. Vùng núi trung du 2,9 1,34 0,26 4,68 4,97 3,17
2. Đồng bằng sông Hồng 2,97 15,89 7,48 12,9 12,07 11,73
3. Khu bốn cũ 1,4 0,62 0,12 25,39 4,85 3,15
4. Duyên hải miền trung 6,19 4,37 1,34 9,03 7,91 6,12
5. Tây Nguyên 1,98 1,85 0,05 4,53 3,22 2,43
6. Đông Nam Bộ 41,44 68,05 86,01 31,98 38,96 51,46
7. Đồng bằng sông Cửu Long 43,11 7,87 4,73 11,49 28,02 22,08
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Vụ doanh nghiệp bộ KH&ĐT
Từ số liệu trình bày ở trên tôi xin đưa ra một vài nhận xét tổng quát về
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trước năm 2000 như sau:
- Một là: Xét trên tất cả các tiêu chí phần lớn hoạt động của khu vực kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay tập trung chủ yếu ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là
vùng đồng bằng Nam Bộ.
- Hai là: Xét về ngành nghề kinh doanh thì hoạt động của khu vực kinh tế tư
nhân ở Việt Nam chủ yếu hoạt động trong 2 ngành là thương mại, dịch vụ và công
nghiệp chế biến.
- Ba là: Các nhà kinh doanh chưa ưa chuộng hình thức doanh nghiệp trách
nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần điều này có thể xuất phát từ các nguyên nhân
sau:
+ Phần nhiều trong số các nhà kinh doanh đều là người tự tìm việc làm cho
mình. Họ khởi sự kinh doanh chỉ với mục đích đơn giản là nhằm kiếm sống cho
bản thân nên họ chưa có mục tiêu phát triển doanh nghiệp một cách rõ ràng.
+ Quy mô giao dịch, số lượng giao dịch nhỏ, tích chất giao dịch đơn giản và
bản thân người kinh doanh chưa nhận thức hết được những rủi ro trong kinh

doanh.
+ Hoạt động của họ chủ yếu mang tính phi hình thức vì họ không có yêu cầu
phải sử dụng luật lệ của Nhà nước. Trong môi trường đó sự quen biết, tin cậy lẫn
nhau là trên hết “việc ký kết hợp đồng chủ yếu diễn ra ở trong nhà hàng, sân thể
thao”.
+ “Cho đến nay kỹ năng và hiểu biết về quản trị kinh doanh mới bắt đầu xây
dựng. 75% doanh nghiệp có đăng ký chính thức là doanh nghiệp tư nhân. Trao đổi
với một số doanh nghiệp ở một số địa phương cho thấy đa số các chủ doanh nghiệp
được hỏi chưa hiểu biết được địa vị trong pháp lý kinh doanh. Họ không hiểu được
rằng kinh doanh dưới nhiều hình thức doanh nghiệp tư nhân là họ phải chịu trách
nhiệm vô hạn về tài sản của mình và họ có thể rơi vào tình trạng bần cùng hoá. Họ
cũng không hiểu được rằng kinh doanh theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu
hạn, và Công ty cổ phẩn thì sẽ chịu trách nhiệm hữu hạn trong việc chịu sự rủi ro
về tài sản”
4
.
- Cũng từ thực tế cho thấy có 3 lý do cơ bản để người khởi sự kinh doanh ưa
chuộng hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh là:
+ Thủ tục cho việc khởi sự kinh doanh cũng như chấm dứt kinh doanh theo
hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh đơn giản nhanh chóng thuận lợi và ít tốn
kém. Nói cách khác, sự kéo dài chậm trễ, phức tạo và tốn kém trong thủ tục thành
lập và đăng ký kinh doanh, trong việc xin phép đầu tư, xin phép mở rộng quy mô
và đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh … đã làm nản lòng không ít các nhà đầu tư
muốn thành lập doanh nghiệp, thúc đẩy họ thực hiện kinh doanh ngầm hoặc dưới
hình thức cá nhân và hộ kinh doanh dưới vốn pháp định.
4 chương trình diễn đàn doanh nghiệp
+ Cách thức ghi sổ sách kế toán đơn giản hơn, từ đó dễ thực hiện hơn, cách
thức và hình thức nộp thuế cũng linh hoạt hơn, do đó khả ănng bị áp đặt mức thuế,
và số thuế phải nộp cúng ít hơn.
+ Sự kiểm tra bằng biện pháp hành chính của các cơ quan Nhà nước ít hơn.

Ứng xử nói trên của giới kinh doanh chứng tỏ mức rủi ro phát sinh từ trách nhiệm
vô hạn có thể còn nhỏ hơn mức rủi ro do pháp luật quy định.
- Từ thực tế nói trên có thể rút ra kết luận:
+ Một phần không nhỏ trong giới kinh doanh không muốn kinh doanh công
khai, ở quy mô lớn, hoặc không thể kinh doanh một cách thuận lợi dưới hình thức
Công ty doanh nghiệp tư nhân.
+ Giới kinh doanh chưa tin tưởng vào chính sách, luật pháp của Nhà nước,
hoặc môi trường kinh doanh chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn bị nhìn nhận và đánh giá không đúng vai
trò của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế do những tư duy cũ. Sự phân biệt đối
xử không chỉ tồn tại trong các hành vi ứng xử của các công chức, trong các nhân
viên Nhà nước mà nguy hiểm hơn nó còn tồn tại ngay trong quá trình xây dựng các
biện pháp chính sách, mặc dù sự tồn tại một cách bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế đã được khẳng định trong hiến pháp và trong nhiều chủ trương, nghị quyết
của Đảng. Sự phân biệt đối xử này được thể hiện trên hầu hết các lĩnh vực, từ việc
thành lập đăng ký kinh doanh đến việc tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất, các quy định về thuế cũng như các thủ tục cho việc mở rộng quy mô kinh
doanh.
- Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đặc biệt là
vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước chưa được lý giải một cách thấu đáo.
Do vậy trong nhiều lĩnh vực, khu vực kinh tế tư nhân không được phép hoặc khó
có thể nhập cuộc kinh doanh, mặc dù khu vực này có thể đem lại hiệu quả cao hơn
so với doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tượng độc quyền hoặc khống chế thị trường
của doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các tổng Công ty đã hạn chế sự cạnh tranh
trên thị trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Theo kết quả điều tra của MPDF thì dư luận đối với khu vực kinh tế tư
nhân là rất tiêu cực.
+ Quan niệm chung đối với khu vực kinh tế tư nhân là dễ phá sản, bóc lột,
không trung thực, cơ hội, không đóng góp gì cho quốc gia.
+ Doanh nghiệp tư nhân là nơi làm việc ít được ưa chuộng đối với sinh viên

tốt nghiệp đại học nếu so sánh với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
+ Doanh nghiệp tư nhân khó có thể vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất.
Trên đây là một vài đánh giá tổng quát của doanh nghiệp nhỏ và vừa trước
năm 2000.
b. Doanh nghiệp nhỏ và vừa sau năm 2000.
Năm 2000 là năm đánh dấu mốc quan trọng đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Đó là năm luật doanh nghiệp ra đời. Luật doanh nghiệp được quốc họi ban hành và
có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 đã thay thế cho 2 luật là luật Công ty và luật doanh
nghiệp tư nhân trước đây:
Luật doanh nghiệp ra đời nhằm mục tiêu “giải phóng và phát huy mọi lực
lượng mọi tiềm năng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả … Tạo môi trường và tạo điều kiện cho kinh
tế tư nhân phát triển, không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những
lĩnh vực mà pháp luật không cấm”.
- Một số ý nghĩa quan trọng được thể hiện trong nội dung của luật doanh
nghiệp là:
+ Luật doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng môi trường kinh
doanh bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, tiến tới xây dựng luật
thống nhất áp dụng cho các chủ thể kinh doanh.
+ Nội dung của luật doanh nghiệp chủ trương cải cách hành chính tạo môi
trường kinh doanh thực sự thuận lợi khuyến khích và thúc đẩy các nguồn nội lực.
+ Luật doanh nghiệp đã cụ thể hoá và phát triển nguyên tắc tự do kinh doanh
theo quy định của pháp luật, từng bước thay thế cơ chế “dân cư và doanh nghiệp
chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” bằng cơ chế “dân chủ và doanh
nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm” đồng thời tăng cường hiệu lực
quản lý của Nhà nước bằng pháp luật.
- Chúng ta có thể nhận thấy môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và
vừa thuận lợi hơn qua việc đăng ký thành lập kinh doanh.
+ Đối tượng được quyền thành lập, quản lý và góp vốn được mở rộng thêm,

quy định rõ hơn, phân biệt rõ người được quyền góp vốn và quản lý doanh nghiệp
với người chỉ được quyền góp vốn vào doanh nghiệp. Điểm khác ở luật doanh
nghiệp là luật chỉ quy định các đối tượng bị cấm thành lập, quản lý hoặc bị cấp góp
vốn, những tổ chức, cá nhân không bị cấm thành lập, quản lý đều được quyền
thành lập và quản lý doanh nghiệp.
+ Bỏ chế độ xin phép thành lập chỉ thực hiện đăng ký kinh doanh với thủ tục
đơn giản, hồ sơ gọn nhẹ thời hạn ngắn và chi phí không đáng kể, bãi bỏ yêu cầu về
vốn pháp định đối với việc kinh doanh đại bộ phận các ngành nghề kinh tế, vốn
pháp định chỉ áp dụng đối với việc kinh doanh một số ít ngành nghề.
+ Thiết lập được cơ cấu tổ chức quản lý và giám sát tương đối rõ ràng, minh
bạch trong đó quyền và lợi ích các bên, đặc biệt là người góp vốn thiểu số được
bảo vệ một cách hợp lý.
+ Đa dạng hoá chế độ cổ phần và các công cụ tài chính khác giúp Công ty có
cơ hội và cơ sở pháp lý huy động và tích tụ được nguồn vốn phân tán và nhàn rỗi
trong dân cư do đó mọi người có nhiều cơ hội đầu tư phù hợp.
+ Tạo cơ sở pháp lý cho việc chia tách sát nhập Công ty, chuyển đổi Công ty
đã làm cho môi trường kinh doanh của các Công ty có những điểm lợi sau:
Phân bố rủi ro một cách hợp lý
Tận dụng được những lợi thế quy mô trong những trường hợp cần thiết, qua
đó tăng thêm được hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Duy trì và ổn định liên tục trong quá trình kinh doanh.
Từ những thuận lợi trên của luật doanh nghiệp môi trường kinh doanh ở Việt
Nam được cải thiện. Luật doanh nghiệp ra đời đã thổi một luồng sinh khí mới vào
nền kinh tế Việt Nam do đó sau hơn 3 năm thực hiện luật doanh nghiệp số lượng
các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh không ngừng tăng ở mọi ngành nghề đặc
biệt đã có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao.
Sự đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp cũng trở nên bình đẳng hơn. Theo
báo cáo của một số thành phố thì số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh
doanh mới đã tăng 7 - 8 lần so với trước năm 2000 mà các doanh nghiệp tư nhân
cũng làm ăn có hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện qua các cuộc gặp gỡ giữa các

doanh nghiệp với thủ tướng chính phủ vào tháng 3 hàng năm.
Bên cạnh những thuận lợi về kinh doanh do luật doanh nghiệp đem lại song
các doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp một số khó khăn đó là:
- Một số bộ ngành - uỷ ban nhân dân các tỉnh vẫn tự ý ban hành một số
quyết định tạm ngừng đăng ký kinh doanh trên một số lĩnh vực điều này trái với
tinh thần của luật doanh nghiệp.
- Còn tồn tại rất nhiều giấy phép quy định đăng ký kinh doanh đối với những
ngành nghề có điều kiện và thủ tục xin giấy phép này rất khó khăn và phức tạp.
- Còn một số vướng mắc trong việc thi hành luật doanh nghiệp cần thoá gỡ.
Điều này được thể hiện qua một số thắc mắc về luật doanh nghiệp của các nhà kinh
doanh với thủ tướng qua các cuộc gặp gỡ hàng năm.
2. Phân tích sự tác động của môi trường kinh doanh của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa
2.1. Môi trường kinh tế.
a. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành ngày 25/9/1989 đã tạo ra một cơ
sở pháp lý cho các giao dịch thương mại trên thị trường. Và là bước căn bản cho
việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Sau 14 năm thực hiện pháp lệnh hợp đồng kinh tế chúng ta có thể thấy một
số điểm hạn chế của pháp lệnh hợp đồng kinh tế như sau:
- Trong khi các hoạt động giao dịch trên thị trường rất đa dạng tính chất rất
khác nhau thì pháp lệnh chỉ đưa ra những quy định chung cho tất cả các loại hình
hoạt động, vì thế nó không thể đáp ứng được nhu cầu khác biệt của các hoạt động
này.
- Điều 13 pháp lệnh quy định “những thoả thuận về chất lượng sản phẩm
hàng hoá công việ trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với những quy định về chất
lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước” trên thực tế những quy định này được áp
dụng đối với những sản phẩm cuối cùng, chứ không phải cho các bán thành phẩm,
trong khi đó nhiều sản phẩm được giao dịch trong hợp đồng chỉ được sử dụng đầu
vào cho quá trình sản xuất. Vì thế quy định quá chặt chẽ về mặt chất lượng này sẽ

làm the hẹp phạm vi ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp.
- Các điều khoản chế tài trong pháp lệnh, cũng bó hẹp khả năng quyết định
của các doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng đặc biệt khoản phạt về thanh toán
chậm.
Mặc dù các nhà làm luật đã hết sức tích cực trong việc xây dựng nội dung
pháp lệnh. Song việc thực hiện pháp lệnh này trên thực tế không thu được kết quả
như mong đợi bên cạnh những điểm yếu về nội dung. Việc thực hiện pháp lệnh này
không phát huy được kết hiệu lực còn một số nguyên nhân sau:
- Ý thức chấp hành luật pháp của các tổ chức cá nhân còn thấp.
Một trong những mặt yếu ở quá trình chuyển đổi nền kinh tế là ý thức pháp
luật của người dân chưa cao. Hiện tượng lừa đảo hợp đồng, cố tình hay vô tình vi
phạm hợp đồng còn khá phổ biến. Bên cạnh đó sự cấu kết giữa một số quan chức
Nhà nước mà doanh nghiệp đã làm trái pháp luật không phải là ít.
- Cơ sở thông tin về thị trường, về doanh nghiệp còn quá yếm kém: Thông
tin về đối tác là cơ sở quan trọng để cho mọt doanh nghiệp nghiên cứu ký kết hợp
đồng. Hệ thống thông tin này chủ yếu dựa vào khâu hậu kiểm và phải được xây
dựng trên cơ sở kiểm toán, kế toán một cách hợp lý. Sự yếu kém của toàn bộ
những cơ sở này đương nhiên dẫn đến chất lượng kém của hệ thống thông tin trong
nền kinh tế. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp bị lừa và bị thiệt hại một cách
oan uổng.
- Tính ổn định của hệ thống chính sách chưa cao:
Việc thực hiện một số hợp đồng kinh tế bị cản trở còn có thể do tính bất định
của hệ thống chính sách kinh tế. Chính sách theo kiểu “dừng lại tiếp tục” trong thời
gian qua không cho phép các doanh nghiệp có thể lường trước được hiệu quả của
mối hợp đồng kinh tế. Bất kỳ một sự thay đổi nào về tỷ giá, chính sách ngoại
thương, thuế cũng có thể làm khả năng thực hiện hợp đồng và dẫn theo sự đổ vỡ
của nhiều doanh nghiệp khác.
b. Luật thương mại.
Luật thương mại được quốc hội nước XHCNVN thông quan ngày 10/5/97
và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/98. Luật đã cụ thể hoá và phân biệt rành mạch các

hành vi thương mại khác nhau với sự ban hành của luật thương mại thì giao dịch
của các thương nhân đã được điều chỉnh một cách cụ thể và chi tiết cho từng loại
hình. Một số điều khoản liên quan đến hợp đồng kinh tế đã được thay đổi hơn để
phù hợp với cơ chế thị trường. Ví dụ về trường hợp thoả thuận lãi phải trả trong
việc thanh toán chậm cho khách hàng. Thương nhân đã được tự do hơn trong việc
ra quyết định ký kết hợp đồng, đặc biệt nghị định 57/1999 đã cho phép tất cả mọi
doanh nghiệp đều được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Sự đổi mới này không
những là một bước tiến quan trọng và cơ bản cho quá trình tự do hoá thương mại
mà còn cải thiện một cách rõ rệt trong việc ký kết hợp đồng. Các doanh nghiệp có
thể trực tiếp và giao dịch ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với đối tác nước ngoài
chứ không phải thông qua uỷ thác, do đó họ có thể tiết kiệm được thời gian và chi
phí giao dịch.
c. Những tác động đến doanh nghiệp nhỏ và vừa
Cùng với một số luật khác, pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũng như luật thương
mại đã tạo thuận lợi cho các giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã tạo cơ sở pháp lý cho các giao dịch thương
mại trên thị trường, định quyền và trách nhiệm của các bên ký kết hợp đồng điều
này rất có lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nhỏ và
vừa.
- Nhà nước chính thức bảo hộ quyền lợi cho các bên tham gia ký kết hợp
đồng.
- Sự bình đẳng các giữa các pháp nhân và cá nhân được pháp luật khẳng
định bất kể quy mô nào hoặc thành phần kinh tế nào.
Cũng như ở nhiều chính sách kinh tế khác, sự ưu đãi của Nhà nước chủ yếu
được xác định theo thành phần kinh tế chứ không theo quy mô do đó doanh nghiệp
nhỏ và vừa cũng gặp một số khó khăn nhất định.
- Do quy mô nhỏ nên một số đối tác cung ứng cũng như tiêu thụ các doanh
nghiệp này cũng không lớn, thậm chí một số còn không có cả giấy phép kinh
doanh. Trong trường hợp này hoặc doanh nghiệp nhỏ và vừa phải ký kết hợp đồng
dân sự hoặc đối tác của họ phải nhờ tư cách pháp nhân của doanh nghiệp khác để

ký.
- Thông thường các doanh nghiệp nhỏ và vừa có ít mối quan hệ hơn so với
doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Sự hiểu biết về pháp lý của họ cũng bị hạn chế
hơn. Trong trường hợp có tranh chấp, khả năng theo đuổi quá trình khiếu nại của
họ sẽ khó khăn hơn đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa ở vùng núi và nông
thôn.
- Tiềm lực về tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất mong manh, ý
thức chấp hành trong pháp luật chưa cao, việc xử lý các vụ tranh chấp không
nghiêm minh do vậy khi hợp đồng của doanh nghiệp này bị huỷ bỏ, hay bị vi phạm
thanh toán chậm thì tình thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa rất nguy nan. Một số
doanh nghiệp bị phá sản “oan” chỉ vì những nguyên nhân này.
2.2. Chính sách cạnh tranh.
2.2.1. Quan điểm về cạnh tranh ở Việt Nam.
Theo quan điểm truyền thống trong thời kỳ kinh tế kế hoạch thì cạnh tranh
kinh tế thị trường luôn gắn với chủ nghĩa tư bản do vậy cạnh tranh được coi là hiện
tượng xấu xa, thiếu đạo đức “cá lớn nuốt cá bé”, là nguyên nhân dẫn đến các cuộc
khủng hoảng kinh tế và tệ nạn xã hội.
Trong nếp nghĩ của nhiều người thì thương nhân được đặt ở vị trí thấp nhất
trong xã hội do họ cho rằng thương nhân là lừa đảo, bóc lột sức lao động của công
nhân. Từ những quan niệm trên đã làm hạn chế cạnh tranh và bóp méo cạnh tranh
trên thị trường. Tuy vậy trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và để hội nhập với
nền kinh tế thế giới thì khái niệm cạnh tranh được nhìn nhận theo hướng tích cực
hơn. Cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp đều nhận thức rõ vai trò của cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường. Sự chuyển biến tích cực này đã tác động đến chất lượng
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như nội dung của nhiều chính
sách của Nhà nước, hỗ trợ bước đầu cho việc hình thành một môi trường cạnh
tranh lành mạnh ở Việt Nam.
- Trong khi chính phủ đang từng bước làm lành mạnh môi trường cạnh tranh
thì vấn đề độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước vẫn tồn tạo ở nhiều lĩnh
vực. Các doanh nghiệp Nhà nước độc quyền đã can thiệp quá sâu vào thị trường

dẫn đến hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh.
2.2.2. Các Công ty độc quyền phân chia và khống chế thị trường ở một số
lĩnh vực làm cho các Công ty tư nhân không thể xâm nhập vào được mặc dù các
Công ty này có đủ năng lực để đảm nhận công việc đó. Điều này đã làm hạn chế t
rong việc xây dựng thương hiệu và hình ảnh của các doanh nghiệp mà điều này lại

×