Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền đông nam bộ hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.63 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng (GDCT-TT) nói chung, công tác
GDCT-TT cho công nhân các khu công nghiệp (KCN) ở miền Đông Nam Bộ
(ĐNB) là một hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng (CTTT) của Đảng
nhằm truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (GCCN). Đây là hoạt động
có tính mục đích, mang tính chủ động, tích cực của các chủ thể nhằm tác động
đến ý thức cộng đồng, ý thức cá nhân của người lao động nhằm xác lập vị trí chủ
đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần
xã hội, góp phần nâng cao nhận thức/ kiến thức; thái độ, niềm tin và tính tích cực
chính trị - xã hội (CT-XH), hướng đội ngũ công nhân thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ chính trị của Đảng, chấp hành hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Từ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, trong đó có việc thành lập các KCN, khu chế xuất
(KCX), đã thu hút, tạo việc làm cho rất nhiều lao động. Từ đây, xuất hiện một bộ
phận công nhân mới: Công nhân trong các KCN.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vị trí và tầm quan trọng của
GCCN đối với sự phát triển của đất nước. Cùng với việc ban hành các chủ
trương, chính sách chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công nhân
trong các KCN, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn quan tâm đến công tác
GDCT-TT cho đội ngũ này, trong đó có công nhân các KCN ở miền ĐNB.
Trong những năm qua công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở nước ta
nói chung, ở các tỉnh miền ĐNB nói riêng đã có nhiều đổi mới và đã đạt nhiều
kết quả. Các chủ thể đã quan tâm nhiều hơn thể hiện bằng việc nội dung ngày
càng phong phú, đa dạng; phương pháp, hình thức, phương tiện được chú trọng
và tăng cường; các nguồn lực giành cho công tác GDCT-TT đã được huy động,
sử dụng cơ bản đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm; trình độ nhận thức chính trị của công
nhân các KCN trên địa bàn đã bước đầu được cải thiện…Tuy nhiên, hiệu quả
của công tác này xét trên bình diện nhiều mặt vẫn còn những hạn chế cần nhìn
nhận, đánh giá thật trung thực, khách quan cả từ lý luận đến thực tiễn để có các


giải pháp khắc phục. Những hạn chế, bất cập có thể kể tới là: Một bộ phận chủ
thể chưa nhận thức đầy đủ về công tác này và còn xem đó là việc của các cơ
quan tuyên giáo; trình độ học vấn, trình độ chính trị của một bộ phận công nhân
các KCN còn hạn chế; nội dung có nơi, có lúc còn dàn trải, ôm đồm, chưa xác
định rõ những nội dung cốt lõi cần chuyển tải trong khi nguồn lực, thời gian hạn
hẹp; một bộ phận chủ thể chưa được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng; phương
pháp, hình thức, phương tiện ở nhiều nơi chậm được đổi mới; việc huy động và
sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực ngày càng khó khăn nhưng vẫn chưa có
những giải pháp phù hợp để sử dụng hiệu quả…


2
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập
quốc tế, GCCN nói chung, công nhân trong các KCN vẫn được Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định là lực lượng quan trọng trong quá trình này. Trong bối cảnh
Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là Hiệp
định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với những quy
định ngặt nghèo về tổ chức công đoàn và vấn đề lao động, công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN càng trở nên quan trọng và bức thiết.
Trong công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN, một vấn đề quan
trọng hàng đầu cần phải lưu tâm là vấn đề hiệu quả. Nếu công tác này mang lại
những hiệu quả thiết thực chính là đã mang lại kết quả thực chất, hạn chế lãng
phí và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để công tác GDCT-TT cho công nhân
các KCN ở miền Đông Nam Bộ mang lại hiệu quả thiết thực, cần có những
nghiên cứu, bổ sung, phát triển cả lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết những
vấn đề mà cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hiệu quả công
tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền
Đông Nam Bộ hiện nay” để triển khai thực hiện Luận án tiến sĩ Chính trị học,
chuyên ngành CTTT.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để nâng cao hiệu quả của công tác GDCT-TT cho
công nhân các KCN ở miền ĐNB, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân về
chính trị - tư tưởng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên
quan đến đề tài; nhận xét khái quát về kết quả đã nghiên cứu và đề ra các hướng
nghiên cứu tiếp theo.
- Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả công
tác GDCT-TT cho công nhân các KCN.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công
nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay.
- Xác định những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền
ĐNB trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân
các KCN ở miền ĐNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT cho
công nhân làm việc trong các KCN; bao gồm cả công nhân làm việc trong các
KCX các tỉnh, thành ở miền ĐNB.


3
- Về không gian: Luận án khảo sát, lấy số liệu thực tế của 03 tỉnh, thành
có đông công nhân trong các KCN là: Thành phố (TP) Hồ Chí Minh, Đồng Nai
và Bình Dương.

- Về thời gian: Khảo sát, nghiên cứu từ năm 2014 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên các nguyên lý lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; các nhiệm vụ, giải pháp của các địa phương ở miền
ĐNB về CTTT, hiệu quả CTTT, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCTTT, công tác tuyên giáo, công tác GDCT-TT cho công nhân. Luận án kế thừa, có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được dùng để
nghiên cứu các công trình khoa học, sách, báo, sách chuyên khảo, báo cáo của
ban tuyên giáo (BTG), của Công đoàn các cấp để tìm hiểu những kiến thức lý
luận và thực tiễn phục vụ cho mục đích nghiên cứu của một đề tài chuyên ngành
CTTT.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để nghiên cứu các
chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; báo cáo
của BTG, Công đoàn các cấp của các tỉnh, thành trên địa bàn; các công trình
khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến Luận án.
Phương pháp lôgic và lịch sử: Sử dụng phương pháp lôgic để tìm ra mối
liên hệ bản chất, tính tất yếu, quy luật các nội dung có liên quan đến đề tài. Luận
án trình bày vấn đề theo trình tự các công trình nghiên cứu ngoài nước đến các
công trình nghiên cứu trong nước; trình bày theo trình tự thời gian để có cơ sở
tham chiếu sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển các quan điểm, quan niệm về các
nội dung có liên quan đến đề tài qua từng giai đoạn, thời gian.
Phương pháp thống kê, so sánh và quan sát: Thống kê các số liệu có
liên quan đến công tác tuyên truyền, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác
GDCT-TT cho công nhân các KCN ở các tỉnh, thành miền ĐNB với nhau; so

sánh đánh giá, nhận xét của chủ thể và đối tượng; so sánh, đánh giá, nhận xét của
các đối tượng công nhân các KCN khác nhau trên địa bàn về độ tuổi, trình độ
học vấn, quê quán...để vừa đảm bảo độ tin cậy của số liệu, vừa có đánh giá chính
xác nhằm đề ra các giải pháp phù hợp các đối tượng khác nhau...
Phương pháp tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận: Luận án tìm hiểu
những tài liệu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan và thực
tiễn công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN
làm cơ sở cho việc xây dựng khung lý thuyết cũng như đánh giá thực trạng và đề


4
ra giải pháp.
Phương pháp điều tra xã hội học: Luận án sử dụng phương pháp điều
tra bằng bảng hỏi nhằm đưa ra những chỉ số đánh giá về hiệu quả công tác
GDCT-TT theo các chỉ số từ: Tiếp cận, các chỉ số về nhận thức, kiến thức; niềm
tin, thái độ; hình thành tính tích cực xã hội. Thông tin thu thập được từ bảng hỏi
được mã hóa, nhập và xử lý bằng chương trình SPSS. Sau khi làm sạch các số
liệu, tiến hành biến đổi các số liệu để phục vụ cho việc lượng hóa các nhóm vấn
đề liên quan đến đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN
ở miền ĐNB. Kết quả cụ thể của việc nghiên cứu sẽ được phân tích sâu trong
chương 2 của Luận án.
Luận án khảo sát: 600 phiếu với đối tượng là CN các KCN ở miền
ĐNB.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đưa ra các khái niệm: Tư tưởng, hệ tư tưởng, chính trị,
GDCT-TT, GDCT-TT cho công nhân các KCN.
- Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về công nhân các KCN và
công nhân các KCN ở miền ĐNB; đặc điểm công nhân các KCN ở miền ĐNB.
- Luận án đưa ra quan niệm về hiệu quả công tác GDCT-TT; phân tích
nội hàm của quan niệm đó; nêu ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác

GDCT-TT cho công nhân các KCN.
- Từ tiêu chí phân loại hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác
GDCT-TT nói chung, nghiên cứu sinh đã cụ thể hóa vào đối tượng là công nhân
các KCN ở miền ĐNB; bổ sung một phần nhỏ về các tiêu chí đánh giá cho phù
hợp đối tượng là công nhân các KCN.
- Từ việc phân tích những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác GDCTTT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB, Luận án đã phân tích thực trạng hiệu
quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay.
- Luận án xác định được sáu vấn đề đặt ra và sáu nhóm giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB những
năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu góp phần luận giải rõ hơn về khái niệm, các tiêu
chí đánh giá hiệu quả tác GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các
KCN ở miền ĐNB.
- Với kết quả nghiên cứu đạt được, Luận án có thể cung cấp luận cứ
khoa học phục vụ cho lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh,
thành phố, đặc biệt là BTG Trung ương, BTG ở các địa phương ở miền ĐNB;
Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) các cấp, công đoàn các KCN ở miền ĐNB trong
việc nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân.
- Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
BTG, công đoàn các cấp; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập


5
những nội dung liên quan về CTTT, về vận động quần chúng, về vận động công
nhân.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục
và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có kết cấu 03 chương, 12 tiết.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị-tư
tưởng
Công trình nghiên cứu của nước ngoài:Đã có nhiều cuốn sách của các
tác giả nước ngoài bàn về GDCT-TT được dịch ra tiếng Việt như: Hoạt động tư
tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô do X.L Xu-rơ-ni-tren-cô (chủ biên); Phương
pháp luận công tác giáo dục tư tưởng của D.A. Vôn-cô-gô-nốp”…
Các tác giả Trung Quốc cũng quan tâm đến nội dung này và đã có nhiều
công trình nghiên cứu như: CTTT lý luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong
thời kỳ cải cách và mở cửa; Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới;
Phương pháp luận về GDCTTT đương đại…
Công trình nghiên cứu trong nước:Trong nước, có nhiều tác giả và
nhiều cuốn sách nghiên cứu liên quan đến đề tài. Có thể tên gọi khác nhau nhưng
các nhà khoa học trong nước đều thống nhất quan nhiệm công tác GDCT-TT
nhằm truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của
chủ thể (có thể là của một giai cấp, của một chính đảng, của một lực lượng)
trong quần chúng với mục đích giác ngộ, lôi kéo quần chúng đi theo thế giới
quan và niềm tin mà chủ thể mong muốn.
2. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho công nhân
Công trình nghiên cứu của nước ngoài: Nghiên cứu về công tác GDCTTT cho công nhân cũng đã được những tác giả nước ngoài quan tâm, trong đó
chủ yếu là các tác giả Trung Quốc. Về cơ bản, các nghiên cứu đều đề cập đến vị
trí, vai trò của công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh cũng như các giải pháp để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa chủ doanh nghiệp
và người lao động. Một trong những giải pháp được nhiều công trình đề cập là
định hướng về chính trị và khẳng định nếu các doanh nghiệp làm tốt công tác
GDCT-TT thì sẽ góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích của giới chủ và công nhân.
Công trình nghiên cứu trong nước:Trong nước, đây là nội dung được rất
nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Các tác giả đều cơ bản thống nhất cho
rằng cần nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị cho công nhân. Ngoài ra, trong

nhiều công trình nghiên cứu đã đề xuất các nhóm giải pháp về công tác GDCTTT cho công nhân.
3. Các công trình nghiên cứu về hiệu quả giáo dục chính trị - tư
tưởng


6
3.1. Nghiên cứu về khái niệm hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Công trình nghiên cứu của nước ngoài: Một số nhà khoa học nước
ngoài như Liên Xô và Trung Quốc đã bàn và nghiên cứu về hiệu quả công tác
GDCT-TT. Một số tác giả Liên Xô và Trung Quốc khi bàn về nội dung này đều
quan niệm đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT cần so sánh giữa kết quả với
mục tiêu và mục đích. Hoạt động thì so sánh với mục tiêu, song hiệu quả phải so
sánh với mục đích.
Công trình nghiên cứu trong nước: Các công trình nghiên cứu trong
nước về vấn đề này chiếm số lượng khá lớn. Mỗi tác giả có cách tiếp cận ở các
góc độ khác nhau, nhưng về cơ bản đều thống nhất quan niệm hiệu quả là tương
quan hoặc so sánh giữa kết quả với mục đích đề ra và chi phí để đạt mục đích ấy
trong những điều kiện nhất định.
3.2. Nghiên cứu về đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng
Công trình nghiên cứu của nước ngoài: Lênin đã bàn nhiều đến hiệu
quả trong GDCT-TT. Theo Lênin, để GDCT-TT có hiệu quả cần những chủ thể
có đủ phẩm chất, năng lực. Lênin cũng cho rằng, một trong những tiêu chí để
đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT là những chủ thể phải am hiểu tâm lý,
mong muốn, nhu cầu của đối tượng, gần gũi đối tượng. Nhà triết học nổi tiếng
người Pháp là Francois Jullien trong cuốn sách Bàn về tính hiệu quả cho rằng để
có hiệu quả cần tác động đúng thời điểm.
Các tác giả Trung Quốc như Tào Tổ Minh và Trần Đình trong bài viết
Đánh giá tính hiệu quả của công tác GDCTTT (tiếng Trung) cho rằng để đánh
giá hiệu quả công tác GDCT-TT phải xem xét hoạt động GDCTTT với việc phù

hợp mục tiêu dự kiến. Theo đó, để đánh giá hiệu quả công tác GDCTTT phải
dựa trên 03 căn cứ là xây dựng mục tiêu giáo dục, đánh giá mức độ văn minh
tinh thần của người dân và xác định chính xác vai trò của GDCTTT…
Một số nhà khoa học Trung Quốc còn đi vào nghiên cứu và phân tích
việc đánh giá số liệu GDCTTT và đề xuất những giải pháp nhằm đánh giá chính
xác số liệu như tác giả Vương Sa trong bài viết Đánh giá số liệu GDCTTT (tiếng
Trung); tác giả Tống Quảng Phát trong bài viết Phát triển công tác chính trị tư
tưởng tại các xí nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay như thế nào? (tiếng
Trung)…
Công trình nghiên cứu trong nước: Trong bài viết Người tuyên truyền
và cách tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem
một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Có nhiều nhà nghiên
cứu trong nước quan tâm đến tiêu chí đánh giá hiệu quả CTTT, công tác GDCTTT. Các tác giả đã cơ bản thống nhất đưa ra các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả
CTTT bao gồm: Hiệu quả trước mắt, hiệu quả trực tiếp và hiệu quả lâu dài. Các
tác giả trong nước cũng cơ bản thống nhất cách phân loại các tiêu chí đánh giá
hiệu quả công tác GDCT-TT.


7
3.3. Nghiên cứu về những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục chính trị - tư tưởng nói chung và cho công nhân các khu công nghiệp nói
riêng
Công trình nghiên cứu ở nước ngoài: Ở phương Tây đã có một số bài
viết, công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính
trị. Các tác giả này cho rằng để tuyên truyền có hiệu quả phải sử dụng các hình
thức khác khi tuyên truyền cho các đối tượng khác nhau và cần sử dụng nội
dung, ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu.
Đa số các tác giả Trung Quốc nêu trên đều thống nhấtquan niệm cho
rằng để nâng cao hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT nói
riêng cần đổi mới hình thức, phương pháp; xác định mục tiêu một cách sát hợp;

tác động để thay đổi môi trường xã hội, môi trường sống của đối tượng. Ngoài
ra, nội dung phải phải xuất phát từ nhu cầu xã hội, từ tình hình thực tế và từ nhu
cầu của đối tượng và phải chú trọng nâng cao trình độ của đối tượng tiếp nhận;
ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin…
Công trình nghiên cứu trong nước: Đây là nội dung được nhiều nhà
khoa học trong nước quan tâm và đề ra nhiều giải pháp. Mỗi tác giả tùy góc độ
khác nhau đưa ra những giải pháp khác nhau. Chẳng hạn, dưới góc độ truyền
thông, tác giả Lương Khắc Hiếu cho rằng yêu cầu của một thông điệp truyền
thông thay đổi hành vi hiệu quả bao gồm 07 tiêu chí. Ở góc độ tâm lý học tuyên
truyền, một số tác giả cho rằng cần vận dụng các hiện tượng, quy luật tâm lý
trong tuyên truyền. Tuy nhiên, có quan niệm cơ bản nhận được sự đồng tình cao
đó là trong cuốn sách Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả
Lương Khắc Hiếu khẳng định, để nâng cao hiệu quả CTTT cần thực hiện tốt 06
giải pháp, bao gồm: Thiết lập những điều kiện khách quan thuận lợi cho việc tiến
hành CTTT và cho sự hình thành ý thức XHCN; nghiên cứu nắm vững đặc điểm
đối tượng và xác định mục đích, nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức,
phương tiện phù hợp với đặc điểm đó; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước đối với CTTT; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư
tưởng; tăng cường phối hợp trong CTTT và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn
lực, khai thác triệt để công năng, tác dụng của các phương tiện vốn có của
CTTT.
4. Nhận định khái quát về kết quả đạt được và những vấn đề cần
nghiên cứu
4.1. Những kết quả đạt được
- Khẳng định vị trí, vai trò hết sức quan trọng của CTTT trong đó có
công tác GDCT-TT nhằm truyền bá tri thức chính trị, hình thành niềm tin và cổ
vũ tính tích cực CT-XH của đối tượng nhằm làm cho hệ tư tưởng của GCCN trở
thành hệ tư tưởng thống trị của xã hội.
- Cơ bản thống nhất với nhau ở quan điểm hiệu quả CTTT hoặc công tác
GDCT-TT được xem xét trong mối tương quan giữa kết quả với mục đích và chi

phí. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng cho rằng hiệu quả CTTT là sự


8
so sánh giữa mục tiêu và chi phí như của một số nhà khoa học Liên Xô và Trung
Quốc.
- Nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí hoặc tiêu chuẩn để
đánh giá hiệu quả CTTT và hiệu quả công tác GDCT-TT.
4.2. Những vấn đề đặt ra
- Có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều nhà khoa học có lúc còn đồng
nhất hiệu quả CTTT với hiệu quả công tác GDCT-TT.
- Mới chỉ có ít công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu
về hiệu quả công tác GDCT-TT, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu về
hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân nói chung, công nhân các KCN,
trong đó có công nhân các KCN vùng ĐNB nói riêng.
- Ngoài tác giả Lương Khắc Hiếu, Lương Ngọc Vĩnh, các tác giả khác
như đã nêu trên cơ bản thống nhất hiệu quả CTTT hoặc hiệu quả công tác
TGDCTTT là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và chi phí nhưng lại mới
chỉ dừng lại ở mức đánh giá tương quan giữa mục đích và chi phí về kinh phí mà
chưa tính tới chi phí về nguồn lực.
- Đa số các tác giả nước ngoài và một số nhà khoa học trong nước chưa
xem xét hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả và chi phí.
- Trong số các nhà khoa học ở Việt Nam cũng có sự khác nhau khi đưa
ra tiêu chí đánh giá hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT.
4.3 Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
- Nghiên cứu, kế thừa và bổ sung khái niệm hiệu quả công tác GDCT-TT
nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân, trong đó có công nhân
các KCN ở miền ĐNB nói riêng.
- Kế thừa, bổ sung và vận dụng tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác
GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các KCN ở miền ĐNB.

- Dự báo những yếu tố ảnh hưởng, phân tích các yếu tố chi phối hiệu
quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB; khảo sát, nghiên
cứu thực tiễn nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT trong công
nhân các KCN ở miền ĐNB.
- Xác định những vấn đề đặt ra, đề xuất những giải pháp mới nhằm nâng
cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNGCHO CÔNG NHÂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng
1.1.1. Các khái niệm có liên quan đến công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng
Khái niệm tư tưởng:Tư tưởng là hình thức tồn tại của ý thức con người,
là sản phẩm của tư duy. Tư tưởng bao gồm các quan niệm, quan điểm của con
người về sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh.


9
Khái niệm hệ tư tưởng:Hệ tư tưởng là hệ thống những tư tưởng và quan
điểm lý luận thể hiện sự nhận thức và đánh giá hiện thực xung quanh, xuất phát
từ những lợi ích xã hội nhất định của giai cấp cầm quyền; bao gồm các tư tưởng
và quan điểm về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, thẩm
mỹ, triết học...
Khái niệm chính trị:Chính trị là mối quan hệ giữa giai cấp này với giai
cấp khác trong xã hội, liên quan mật thiết đến quyền lực chính trị; là sự tham gia
của nhân dân vào các công việc của nhà nước; là những phương thức, phương
pháp, những hành động chính trị mà các giai cấp, các đảng phái thực hiện trong
việc giành, giữ, điều khiển hoạt động của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích cho giai
cấp mình.

1.1.2. Khái niệm công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
Công tác GDCT-TT là hoạt động truyền bá và lĩnh hội chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước; những tri thức chính trị của dân tộc và nhân
loại…nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin, nâng cao tính
tích cực CT-XH của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
1.2. Công nhân các khu công nghiệp và công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm công nhân các khu công nghiệp
Khái niệm giai cấp công nhân: GCCN Việt Nam là một lực lượng xã
hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc,
làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp…
Khái niệm công nhân: Công nhân là “người lao động chân tay làm việc
ăn lương trong các nhà máy, xí nghiệp, công trường.
Khái niệm khu công nghiệp: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định.
Như vậy, công nhân các KCN ở Việt Nam: Là những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp trong khu
vực có ranh giới và địa lý xác định.
1.2.2. Khái niệm, các yếu tố cấu thành công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho công nhân các khu công nghiệp
Khái niệm: Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các
khu công nghiệp là hoạt động truyền bá và lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước; những tri thức chính trị của dân tộc và nhân loại…nhằm nâng cao
nhận thức chính trị, hình thành niềm tin, nâng cao tính tích cực CT-XH, tự giác,
sáng tạo của người công nhân trong lao động, sản xuất và cuộc sống.



10
Các yếu tố của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân
các khu công nghiệp bao gồm: Một là, chủ thể và đối tượng; hai là, mục tiêu,
mục đích và nội dung; ba là, phương thức; bốn là, phương tiện; năm là, hiệu
quả.
1.3. Hiệu quả, phân loại và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo
dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp
1.3.1. Hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng và hiệu quả giáo dục chính
trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp
Hiệu quả công tác GDCT-TT: Là sự tương quan giữa kết quả thực tế đạt
được của quá trình GDCT-TT với mục đích của công tác GDCT-TT (được xác
định bằng việc đề ra và hoàn thành các mục tiêu cụ thể trong từng thời điểm cụ
thể, xác định) đề ra và với chi phí về nguồn lực hợp lý, tiết kiệm trong một điều
kiện xã hội nhất định nhằm trang bị kiến thức chính trị, hình thành niềm tin, cổ vũ
tính tích cực CT-XH cho đối tượng.
Hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN: Là sự tương
quan giữa kết quả thực tế đạt được của quá trình GDCT-TT cho công nhân các
KCN với mục đích của công tác GDCT-TT (được xác định bằng việc đề ra và
hoàn thành các mục tiêu cụ thể trong từng thời điểm cụ thể, xác định) đề ra và với
chi phí về nguồn lực hợp lý, tiết kiệm trong một điều kiện xã hội nhất định nhằm
trang bị kiến thức chính trị, hình thành niềm tin, cổ vũ tính tích cực CT-XH cho
công nhân các KCN.
1.3.2. Phân loại hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
công nhân các khu công nghiệp
Một là, phân loại theo phạm vi tác động: Có hiệu quả chung và hiệu quả
cụ thể.
Hai là, phân loại theo thời gian tác động: Có hiệu quả trước mắt và hiệu
quả lâu dài.
Ba là, phân loại theo lĩnh vực tác động: Có hiệu quả tinh thần và hiệu
quả thực tiễn.

Bốn là, phân loại theo tính hiện thực của hiệu quả: Có hiệu quả sơ bộ,
hiệu quả dự đoán và hiệu quả thực tế.
Năm là, phân loại theo mức độ đạt được so với mục tiêu, mục đích đặt
ra: Có hiệu quả trong dự định và hiệu quả ngoài dự định.
1.3.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho công nhân các khu công nghiệp
1.3.3.1. Nhóm tiêu chí về sự tương quan giữa kết quả với mục tiêu
Một là, các chủ thể có xác định mục tiêu đúng và trúng hay không.
Hai là, mục tiêu xác định có phù hợp hay không, tức có quá cao hoặc
quá thấp hay không.
Ba là, có thực hiện đạt và vượt mục tiêu đặt ra hay không.
1.3.3.2. Nhóm tiêu chí về sự tương quan giữa kết quả với mục đích


11
Một là, tiêu chuẩn về tri thức. Hiệu quả này được đánh giá bằng các tiêu
chí về nhận thức và kiến thức.
Về nhận thức: Mức độ thấp nhất để xem công tác GDCT-TT cho công
nhân các KCN có hiệu quả hay không là bản thân đối tượng có hứng thú, sẵn
sàng tiếp nhận các nội dung mà chủ thể truyền tải hay không. Người công nhân
có thật sự có mong muốn tìm hiểu, hiểu biết những vấn đề liên quan đến chính
trị như Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước hay không.
Về kiến thức: Mức độ hiểu biết của đối tượng về Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh; mức độ am hiểu về chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước nói chung và những chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp đến bản
thân người công nhân; về những tri thức mới tiếp nhận so với trước khi trở thành
công nhân ở mức độ nào; sau mỗi buổi, một đợt GDCT-TT tri thức mới tiếp
nhận của đối tượng tăng lên như thế nào.
Hai là, tiêu chuẩn về niềm tin: (1). Mức độ tin tưởng vào sự đúng đắn

của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tin tưởng vào sự đảm bảo công bằng
của các cơ quan công quyền. (2). Có khả năng định hướng và đánh giá đúng các
sự kiện, kiên định lập trường, quan điểm, nhất là trong các tình huống khó khăn.
(3). Có ý thức trong đấu tranh bảo vệ tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Min; chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và
Nhà nước. (4). Thể hiện ở bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước
mọi hoàn cảnh khó khăn, đấu tranh và tỏ thái độ trước các quan điểm sai trái, thù
địch về tư tưởng, chính trị; các biểu hiện tiêu cực trong trong xã hội và trong
cuộc sống.
Ba là, tiêu chuẩn thực tiễn: Được đánh giá ở tính tích cực CT-XH theo
trên các tiêu chí sau:
Một là, bản thân người công nhân các KCN có ý thức cao về nghĩa vụ
công dân, thể hiện ở việc gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân.
Hai là, tham gia tích cực, tự giác vào việc nghiên cứu, phát triển sáng
tạo, tuyên truyền, phổ biến Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, tham gia tích cực, tự giác vào các lĩnh vực khác nhau của công
tác xã hội; vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị đặt ra trước xã hội; vào việc
quản lý các công việc của Nhà nước, của tập thể, của các tổ chức CT-XH.
Bốn là, tham gia tích cực, tự giác vào việc xây dựng đường lối, chính
sách của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; tham gia bầu cử các cơ quan
chính quyền của Nhà nước; các tổ chức CT-XH; tham gia xây dựng Đảng…
Năm là, tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực trong đời sống chính trị như tệ quan liêu, vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, tham nhũng, thói thờ ơ chính trị…


12
1.4.3. Nhóm tiêu chí về sự tương quan giữa kết quả với chi phí

Một là, tiêu chí về sử dụng nguồn nhân lực trong công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp: Xem xét tính hợp lý và
tiết kiệm của việc sử dụng nguồn nhân lực cho toàn bộ hoạt động và cho từng
hoạt động GDCT-TT; quy mô huy động và cường độ sử dụng nhiều hay ít.
Hai là, tiêu chí về sử dụng kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện trong
công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp: Xem
xét tính hợp lý của việc phân bổ tài lực, vật lực cho từng hoạt động, cho các
khâu, các quá trình của công tác GDCT-TT. Đối với một hoạt động công tác
GDCT-TT, khi nào chi phí về tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện phải thấp
nhất, tức cùng một chi phí nhưng kết quả đạt được là cao nhất thì hoạt động này
đã đạt hiệu quả.
Ba là, tiêu chí về sử dụng thời gian trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp: Xem xét ở thời gian thực hiện các
mục tiêu công tác GDCT-TT có diễn ra đúng kế hoạch hay không? Sớm hay
muộn? Tổng thời gian giành cho từng hoạt động công tác và tổng thời gian giành
cho toàn bộ công tác này trong từng giai đoạn là nhiều hay ít. Tính hợp lý, tiết
kiệm của phân bổ khối lượng thời gian cho từng hoạt động cao hay thấp.
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM; NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG
NHÂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm; những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo
dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông
Nam Bộ hiện nay
2.1.1. Các khu công nghiệp và đặc điểm công nhân các khu công
nghiệp ở miền Đông Nam Bộ
Khái quát về các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ: ĐNB bao gồm
05 tỉnh thành: TP. Hồ Chí MInh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước,
Đồng Nai và Tây Ninh. Toàn vùng ĐNB hiện có 116 KCN, KCX, khu kinh tế đã
đi vào hoạt động với diện tích 37.946,29 ha. Số dự án còn hiệu lực là 4.937 với

vốn đăng ký 69.014.488 nghìn USD (ngoài ra còn 50.249.580 nghìn đồng).
Đặc điểm công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ: Vùng
Đông Nam Bộ hiện có 1.039.795 công nhân đang làm việc tại các KCN, KCX,
khu kinh tế. Riêng 03 địa phương mà đề tài tiến hành khảo sát là TP. Hồ Chí
Minh, Đồng Nai và Bình Dương, tổng số 748.078 người, chiếm 72,01% tổng số
công nhân trên địa bàn.
Công nhân các KCN ở miền Đông Nam Bộ có những đặc điểm, đó là:
Trên 95 % công nhân các KCN ở miền ĐNB làm việc trong các doanh nghiệp
ngoài Nhà nước. Đa số công nhân trong các KCN có trình độ học vấn hạn chế,
nhiều người trong số họ trước khi trở thành công nhân chưa có điều kiện tiếp cận


13
cơ bản các nội dung về chính trị - tư tưởng. Lao động nữ chiếm tỷ lệ cao trong
cơ cấu lao động chung của các KCN ở miền ĐNB. Đa số công nhân trong các
KCN ở miền ĐNB là người nhập cư và làm việc trong các doanh nghiệp thuộc
các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất công nghiệp. Công nhân trong các KCN ở miền
ĐNB làm việc trong các doanh nghiệp dưới sự quản lý của các chủ doanh nghiệp
mà nhiều nhất là Hàn Quốc, Đài Loan. Tất cả những đặc điểm trên của công
nhân các KCN ở miền ĐNB sẽ tác động không nhỏ đến hiệu quả công tác
GDCT-TT cả ở thuận lợi và khó khăn, tất nhiên mặt khó khăn là rất lớn.
2.1.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục chính trị
- tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ
2.1.2.1. Các yếu tố khách quan
Một là, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Đây là xu thế tất yếu của xã
hội và chắc chắn đã và đang tác động tới mọi lĩnh vực của đất nước, trong đó có
công tác GDCT-TT.
Hai là, cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức: Công tác
GDCT-TT cho công nhân sẽ có hiệu quả khi các tiện ích của công nghệ thông tin
được khai thác, áp dụng rộng rãi để chuyển tải nội dung một cách thuận lợi và

tiết kiệm. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất là trước bối cảnh toàn cầu hóa thông tin
hiện nay có thể sẽ tác động đến một bộ phận công nhân đó là các thông tin xấu,
thông tin độc hại trên mạng xã hội đang ngày càng lấn át các thông tin tốt đẹp,
thế nhưng bản thân người công nhân lại chưa có hiểu biết để “đề kháng”.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày
một từng bước hoàn thiện: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm nhiều hơn đến đội ngũ công nhân các
KCN nên đời sống của công nhân các KCN dần được cải thiện. Đội ngũ công
nhân có điều kiện để quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề chính trị của đất
nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN cũng đã xuất hiện những hạn chế, bất cập cần giải quyết. Công tác
GDCT-TT sẽ góp phần giải quyết những hạn chế, bất cập này.
Bốn là, môi trường làm việc và môi trường xã hội: Với một môi trường
làm việc dân chủ, minh bạch và được bảo vệ về quyền lợi, được chăm sóc, được
lắng nghe, được tự do bày tỏ quan điểm và chính kiến chắc chắn người công
nhân sẽ rất gắn bó với môi trường ấy và quan tâm nhiều hơn đến chính trị.
Năm là, điều kiện tự nhiên: Các điều kiện tự nhiên như địa hình, thời
tiết, dân cư…có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả công tác GDCT-TT.
Sáu là, điều kiện kinh tế - chính trị: Hệ thống chính trị vững mạnh thì
các thiết chế tư tưởng, các chủ thể CTTT được tăng cường, vững mạnh. Không
khí chính trị cởi mở, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người công
nhân được thể hiện bằng việc ban hành những chủ trương, chính sách đáp ứng
lợi ích thiết thực và chính đáng của người công nhân sẽ có tác dụng kích thích,
thúc đẩy tinh thần hăng say học tập và sáng tạo của họ, giúp họ tin tưởng, kỳ


14
vọng hơn vào chế độ và họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề thiết thân
cũng như những vấn đề về chính trị.
Bảy là, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công nhân:

Những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trườngđịnh hướng
XHCN, mở rộng và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế gắn với vị trí,
vai trò, nhiệm vụ to lớn của GCCN chính là cơ sở tạo điều kiện cho đội ngũ công
nhân ngày càng phát triển lớn mạnh và ngày càng nâng cao ý thức giác ngộ
chính trị.
2.1.2.2. Các yếu tố chủ quan
Một là, về năng lực lãnh đạo, quản lý và sự quan tâm của các chủ thể:
Việc quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện của các chủ thể thể hiện ở việc
vạch ra mục tiêu, xây dựng kế hoạch và xác định các biện pháp phù hợp để thực
hiện.
Hai là, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng: Số lượng và chất
lượng cán bộ tư tưởng là nhân tố đảm bảo mang lại hiệu quả.
Ba là, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện phù hợp, thiết
thực, hấp dẫn: Sự huy động và sử dụng nhiều phương pháp, hình thức, phương
tiện khác nhau sẽ giúp cho đối tượng có nhiều lựa chọn khác nhau để tiếp cận
nội dung và đó cũng là biện pháp giúp phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng trong công tác GDCT-TT.
Bốn là, tính đồng bộ, hiện đại và phương thức tiên tiến trong sử dụng
phương tiện, cơ sở vật chất: Phương tiện, cơ sở vật chất hiện đại, đồng bộ sẽ góp
phần hạn chế chi phí, tăng tính hấp dẫn của nội dung, giảm chi phí về nhân lực
của chủ thể.
2.2. Kết quả và thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho công nhân các khu công nghiệp miền Đông Nam Bộ
2.2.1. Kết quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân
các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ
Một là, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các
Nghị quyết của Đảng, các sự kiện chính trị: Trung bình mỗi năm có 68.28%
tổng số công nhân các KCN trên địa bàn được tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hai là, tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Trung bình mỗi năm có

69.89% tổng số công nhân các KCN trên địa bàn được tuyên truyền về pháp luật.
2.2.2. Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
công nhân các khu công nghiệp miền Đông Nam Bộ
2.2.2.1. Việc xác định và đề ra mục tiêu
- Thành tựu: Các chủ thể công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở
miền ĐNB đã quan tâm đến việc xác định mục tiêu hàng năm, nửa nhiệm kỳ và
cả nhiệm kỳ. Có những địa phương đã xác định mục tiêu bằng những con số cụ
thể.


15
- Những hạn chế: Mục tiêu là cái nhìn thấy, cái đo, đếm được. Đề ra
mục tiêu càng cụ thể, rõ ràng càng dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong cả ba địa
phương mà đề tài nghiên cứu, có những năm, có địa phương xác định mục tiêu
nhưng chủ yếu là định tính và còn nhầm lẫn mục tiêu với nội dung.
2.2.2.2. Nhận thức chính trị - tư tưởng của công nhân
Một là, về mức độ tham gia các quá trình truyên truyền, GDCT-TT: Kết
quả khảo sát của đề tài cho thấy, 50,5% ý kiến được hỏi cho biết đã thường
xuyên tham gia các buổi tuyên truyền, giáo dục về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Vẫn còn tới 49.5% ý kiến cho biết vẫn không thường tham
gia các buổi tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, về mức độ hứng thú: 39.16% ý kiến được hỏi trả lời có lúc hứng
thú và có lúc không; 50.33% ý kiến cho biết không hứng thú. Cũng vậy, về mức
độ hứng thú khi tham dự các buổi nghe tuyên truyền pháp luật vẫn có 20.83% ý
kiến cho biết lúc có, lúc không và 12% ý kiến cho biết không hứng thú.
Ba là, về mức độ mong muốn tìm hiểu: Đã có một bộ phận người lao
động có nhu cầu và mong muốn tìm hiểu về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh với 17.16% ý kiến. Tuy nhiên, mức độ mong muốn tìm hiểu về
pháp luật khá cao, với 67.16% ý kiến.
Bốn là, mức độ quan tâm đến những sự kiện, hiện tượng đang diễn ra:

Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy cơ bản công nhân các KCN trên địa bàn
quan tâm đến các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế với 74.16% ý kiến. Tuy
nhiên, vẫn có 18.83% ý kiến cho biết không quan tâm và 07% ý kiến khó trả lời.
2.2.2.3. Kiến thức chính trị - tư tưởng của công nhân
Một là, mức độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; chủ trương, nghị quyết của Đảng: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, đã
có một bộ phận công nhân các KCN ở miền ĐNB có những hiểu biết cơ bản về
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị quyết của Đảng
với 22.66% tự nhận có hiểu biết tốt và khá.
Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong công nhân các KCN trên địa bàn vẫn còn nhiều hạn
chế khi có tới 55.66% tự nhận chỉ có hiểu biết về nội dung này ở mức trung bình
và vẫn còn 21.67% tự nhận thức có hiểu biết kém.
Hai là, mức độ hiểu biết về chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là
những vấn đề liên quan trực tiếp đến bản thân người công nhân: Đến nay, đã
100% người sử dụng lao động được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và
các quy định pháp luật liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp, hơn 85% công
nhân được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động cũng như các quy định
pháp luật liên quan tới quyền và nghĩa vụ của công dân và người lao động.
Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, có 43.67% ý kiến cho biết bản thân
có hiểu biết tốt và khá về pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có tới 45.5% ý kiến tự nhận
có nhận thức trung bình và 10.83% tự nhận có nhận thức kém.


16
Ba là, về những tri thức mới tiếp nhận: Đa số công nhân khi được hỏi
trả lời họ có hiểu biết về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước
là sau khi vào làm công nhân (68.18%). Có 24.83% cho biết có hiểu biết trước
khi vào và 07% ý kiến cho là cả trước và sau.
2.2.2.4. Về niềm tin

Một là, mức độ tin tưởng vào sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, tin tưởng vào sự đảm bảo công bằng của các cơ quan công
quyền: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy có 63.67% số ý kiến được hỏi cho
biết tin tưởng và có lúc tin tưởng, có lúc không đối với Chủ nghĩa Mác - Lê nin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở mức độ không tin tưởng vẫn còn 24% ý kiến và có
12.23% ý kiến khó trả lời..
Về mức độ tin tưởng vào các chủ trương của Đảng và chính sách pháp
luật của Nhà nước hiện nay đối với người lao động: Đa số công nhân các KCN
trên địa bàn cho biết tin tưởng với 61% ý kiến và có 14.33% ý kiến cho biết lúc
có, lúc không. Tuy nhiên, vẫn còn 24.66% ý kiến cho biết không được quan tâm
và khó trả lời.
Hai là, mức độ định hướng và đánh giá đúng các sự kiện, kiên định lập
trường, quan điểm, nhất là trong các tình huống khó khăn
Về các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người lao động tại
các doanh nghiệp hiện nay: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy có 46,67% ý
kiến cho biết đã được quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn 40.83% cho biết ít được
quan tâm, 7.33% cho rằng không được quan tâm và 5.17% ý kiến cho biết khó
trả lời.
Về các chế độ, chính sách tại các doanh nghiệp: Có 48.5% ý kiến cho
biết đã được quan tâm. Thế nhưng, vẫn còn 42.83% ý kiến cho biết ít được quan
tâm, 4.67% cho biết không được quan tâm và có 04% khó trả lời.
Ba là, mức độ trong đấu tranh bảo vệ tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước
Kết quả khảo sát của đề tài cũng cho thấy đã có một số công nhân đã bắt
đầu có nhận thức và hành động trong việc tham gia đấu tranh, bảo vệ đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng. Có 11% ý kiến cho biết sẽ ra sức tranh luận và
tranh luận khi có một người cùng làm việc hoặc cư trú xuyên tạc chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tất nhiên, đây là một

vấn đề lớn đòi hỏi những người chủ động tham gia đấu tranh phải có trình độ
học vấn, trình độ lý luận nhất định. Vì vậy, kết quả khảo sát của đề tài cho thấy
có tới 85.83% ý kiến cho biết sẽ lắng nghe và không tranh luận…
Bốn là, về bản lĩnh chính trị, tham gia đấu tranh, bày tỏ thái độ trước
các quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng, chính trị; các biểu hiện tiêu cực
trong trong xã hội và trong cuộc sống


17
Đa số công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay đều chăm chỉ trong lao
động và đã có môt bộ phận công nhân tham gia vào các công việc quản lý của
cộng đồng. Một bộ phận công nhân đã tham gia vào các đội tự quản ở cộng đồng
dân cư, tham gia bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực dân cư và
trong khu vực các KCN. Ngày hội vì an ninh Tổ quốc được tổ chức hàng năm ở
các KCN thu hút rất nhiều công nhân tham gia.
2.2.2.5. Biểu hiện ở tính tích cực chính trị - xã hội
Một bộ phận công nhân các KCN vùng ĐNB đã có ý thức cao về nghĩa
vụ công dân, gương mẫu trong lao động và trong cuộc sống. Tuyệt đại đa số
công nhân chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trước đây, đã xảy ra tình trạng công nhân phản ứng cực đoan khi chủ doanh
nghiệp sỉ nhục; tuy nhiên gần đây, trước tình huống này, đa số họ đã chọn hình
thức báo cáo cho công đoàn và các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước.
Không những chỉ trong lao động, trong cuộc sống thường ngày, các công nhân ở
khu vực đã tham gia rất nhiều các phong trào tình nguyện vì cộng đồng như hiến
máu cứu người, đóng góp xây dựng quỹ tương thâm tương ái hỗ trợ những công
nhân không may bị tai nạn, bệnh tật…
Đã có một bộ phận người lao động (34.16%) cho biết có tuyên truyền về
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước cho người thân. Tuy nhiên, đây là công việc đòi hỏi cao về nhiều
mặt nên vẫn có tới 50.16% ý kiến cho biết không tuyên truyền và 15.67% cho

biết lúc có, lúc không.
Tuy nhiên, đa số ý kiến khi được hỏi cho biết sẵn sàng góp ý kiến đối
với các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nếu được các
cơ quan có trách nhiệm đề nghị với 62.83% sẵn sàng, chỉ có 19.5% không sẵn
sàng và 17.67% cho biết lúc có, lúc không.
Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 20162021, tỷ lệ công nhân các KCN ở miền ĐNB đi bầu cử rất cao (trên 98%). Kết
quả này cũng cơ bản trùng khớp với kết quả nghiên cứu của đề tài khi có tới
98.67% cho biết sẵn sàng tham gia bầu cử.
Đã có một bộ phận người lao động có hiểu biết về Đảng và có mong
muốn được kết nạp vào Đảng. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, có 25% số ý
kiến được hỏi cho biết có mong muốn được kết nạp vào Đảng. Tuy nhiên, vẫn có
36.33% ý kiến cho rằng lúc có, lúc không và 38.67% cho biết không có mong
muốn.
2.2.2.6. Về huy động và sử dụng nguồn lực phục vụ công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng cho công nhân
Một là, việc huy động nguồn lực con người
Kết quả: Trong những năm qua, các chủ thể đã chú trọng xây dựng và
kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên chính trị, pháp luật cho công
nhân nói chung, trong đó có công nhân các KCN. Ngoài ra, LĐLĐ các tỉnh,
thành còn tuyển chọn và bồi dưỡng được đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật là


18
công nhân để trực tiếp tư vấn và tuyên truyền pháp luật, chính trị cho công nhân,
nhất là tư vấn về pháp luật.
BTG các tỉnh, thành đã thường xuyên phối hợp với Trường Chính trị
tỉnh, Học viện Cán bộ Thành phố mở các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Ở các Trung tâm bồi dưỡng cấp
huyện các tỉnh, thành vùng Đông Nam Bộ thường xuyên mở các lớp về kỹ năng
tuyên truyền, vận động cho cán bộ công đoàn, đoàn viên nòng cốt.

Hạn chế: Trình độ và kỹ năng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
trong công nhân vẫn chưa đồng đều. Nhiều người chưa được đào tạo căn bản về
các kỹ năng tuyên truyền. Việc xã hội hóa, xây dựng lực lượng nòng cốt trong
công nhân trở thành báo cáo viên, tuyên truyền viên vẫn còn hạn chế. Công tác
phối hợp giữa các chủ thể trên địa bàn chưa ăn khớp...
Kết quả điều tra của đề tài cho thấy, có 32.66% ý kiến được hỏi cho biết
không hứng thú khi tham gia các buổi nghe tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng vì cách truyền đạt khô khan,
thiếu hấp dẫn. Tỷ lệ này ở nội dung khi tham gia các buổi nghe tuyên truyền về
pháp luật lên tới 75%. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, tính hấp dẫn, thuyết
phục khi tuyên truyền của các chủ thể hiện nay chưa tạo ra hứng thú cho đối
tượng.
Hai là, về huy động nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, tài liệu, phương
tiện
Mỗi năm, ngoài các tài liệu chung do Trung ương phát hành; mỗi tỉnh,
thành trong khu vực đã chi nhiều tỷ đồng cho công tác GDCT-TT bằng việc đầu
tư cho các tờ báo, tạp chí dành cho công nhân, chi cho các hoạt động GDCT-TT
khác. Hiện nay, tài liệu GDCT-TT cho công nhân các KCN trên địa bàn rất đa
dạng và phong phú, bao gồm các tài liệu do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
và do các cơ quan của các tỉnh, thành phát hành.
Được sự hỗ trợ của các doanh nghiệp và tổ chức đoàn thể, một số nhà trọ, khu
lưu trú công nhân gần các KCN đã được trang bị tivi, dàn karaoke, tủ sách nhằm tạo
điều kiện cho công nhân giải trí, có thêm thông tin, kiến thức xã hội. LĐLĐ các quận,
huyện trên địa bàn đã phối hợp với các chủ nhà trọ tổ chức sinh hoạt định kỳ với công
nhân về các vấn đề mà người công nhân quan tâm…
Tuy nhiên, với đội ngũ đông đảo trên một triệu người, việc huy động
nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện chính vẫn còn khó khăn
và là gánh nặng đối với ngân sách. Công tác xã hội hóa, nhất là đóng góp của
giới chủ doanh nghiệp cho công tác này chưa nhiều.
Ba là, về huy động, sử dụng thời gian
Nhiều hình thức GDCT-TT phong phú đã được các chủ thể sử dụng để

tiết kiệm thời gian. Chẳng hạn, hiện nay, chương trình “Đồng hành cùng công
nhân” của Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Dương được phát vào 12h30 ngày
thứ 5 hàng tuần và phát lại vào 9g30 chủ nhật hàng tuần, đó là những thời gian
thuận tiện để người lao động có thể nghe, nếu không kịp nghe vào trưa thứ 5 họ


19
vẫn có điều kiện nghe lại vào sáng chủ nhật...Thời gian được huy động nhiều
nhất là thời gian trong giờ làm việc 08 tiếng theo quy định của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các địa phương trên địa bàn đã làm việc với các doanh nghiệp để các
chủ sử dụng lao động tạo điều kiện cho công nhân tham gia. Tất cả thời gian
công nhân tham gia học đều được tính lương và các chế độ bảo hiểm xã hội theo
quy định. Trong các doanh nghiệp, đã có nhiều hoạt động văn hóa - văn nghệ
được các chủ doanh nghiệp tạo điều kiện cho công nhân tổ chức cả trong giờ làm
việc nếu trùng với các ngày lễ của đất nước.
Về cơ bản, việc huy động và sử dụng thời gian cho công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN trên địa bàn là khá hợp lý. Tuy nhiên, trong thực tế có
những nội dung tuyên truyền cần phải kịp thời thì khi được triển khai đến người
công nhân đã mất đi tính thời sự và có những vụ việc đáng tiếc đã xảy ra do hạn
chế này.
2.2.3. Sự tương quan giữa kết quả với mục tiêu, kết quả với mục đích
và kết quả với sử dụng nguồn lực
2.2.3.1. Sự tương quan giữa kết quả với mục tiêu
Về nội dung tuyên truyền, phổ biến các nghị quyết của Đảng, các sự
kiện chính trị: Mục tiêu đặt ra là 88.33%, kết quả đạt được là 68.28%.
Về tuyên truyền pháp luật: Mục tiêu đề ra là 88.33%, kết quả đạt được là
69.89%.
2.2.3.2. Sự tương quan giữa kết quả với mục đích
Về trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ trương, nghị quyết của Đảng: Kết quả có 68.28% công nhân trên địa bàn đã

được tuyên truyền. Khảo sát của đề tài cho kết quả có 78.32% ý kiến tự đánh giá
có trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, nghị quyết của Đảng, trong đó tự đánh giá mức tốt là 8.66%, khá 14%,
trung bình 55.66%. Có 21.67% tự đánh giá là kém.
Đối với nhận thức về pháp luật: Kết quả có 69.89% công nhân trên địa
bàn đã được tuyên truyền. Khảo sát của đề tài cho thấy có 11.67% tự nhận là tốt,
32% khá, 45.5% ở mức trung bình và chỉ có 10.83% tự nhận là kém.
Về mức độ tin tưởng vào sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; Chỉ có 10.67% tin tưởng, 53% cho biết lúc có lúc không.
Tuy nhiên vẫn có tới 24% cho biết không tin tưởng và 12.33% cho biết khó trả
lời.
Mức độ tin tưởng vào các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước đối với người lao động: Có 61% ý kiến cho biết tin tưởng; 14.33%
cho biết lúc có, lúc không: 14.33%. Chỉ có 8.33% cho biết không tin tưởng và
16.33% ý kiến cho biết khó trả lời.
Về tính tích cực CT-XH: Chỉ có 3.11% ý kiến cho biết sẽ ra sức tranh
luận, phản bác khi có một người nào đó xuyên tạc chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; 7.33% ý kiến cho biết có tranh luận


20
nhưng không đủ sức thuyết phục; 85.83% cho biết lắng nghe nhưng không tranh
luận và 3.17% cho biết sẽ có hành động khác.
Với câu hỏi về việc có ai đó rủ rê tham gia biểu tình, đình công, lãn
công trái pháp luật: 68.83% cho biết không tham gia; 5.5% ý kiến cho rằng sẽ
thuyết phục lại người rủ mình nên tham gia khi công đoàn tổ chức. Vẫn còn
17.67% cho biết sẽ tham gia và 8% cho biết khó trả lời.
Hiệu quả tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB được đo
từ phía đối tượng thông qua kết quả khảo sát về nhận thức/ tri thức; thái độ/ niềm
tin và tính tích cực CT-XH của đối tượng. Nếu so sánh kết quả khảo sát nêu trên

với kết quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN trên địa bàn cho thấy
hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân trên địa bàn đạt được là cơ bản ở
các bình diện nhận thức, tri thức; thái độ, niềm tin. Riêng tính tích cực xã hội
vẫn còn rất nhiều hạn chế.
2.2.3.3. So sánh kết quả với sử dụng nguồn lực
Từ sự so sánh kết quả với mục tiêu, với mục đích và với nguồn lực có
thể khẳng định: Kết quả đạt được chưa tương ứng với mục tiêu đề ra; so sánh
tương quan giữa kết quả và mục đích, về cơ bản đạt được mục đích đặt ra ở nhận
thức/kiến thức, thái độ/niềm tin nhưng chưa đạt hiệu quả ở việc phát huy tính
tích cực CT-XH (nội dung quan trọng nhất mà chủ thể kỳ vọng và mong muốn).
Riêng tương quan giữa kết quả với nguồn lực là khá cao.
2.3. Những vấn đề đặt ra về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay
Một là,mâu thuẫn giữa yêu cầu phải nâng cao trình độ, năng lực, phẩm
chất với hạn chế của các chủ thể hiện nay.
Hai là,mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN trên địa bàn với những hạn chế của đối tượng.
Ba là,mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới nội dung công tác GDCT-TT cho
công nhân trên địa bàn với những hạn chế bất cập của nội dung GDCT-TT hiện
nay đang sử dụng trên địa bàn.
Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới phương pháp, hình thức công
tác GDCT-TT cho công nhân với sự chậm trễ của công tác này; giữa yêu cầu sử
dụng các phương tiện hiện đại với sự lạc hậu của các phương tiện hiện nay.
Năm là,mâu thuẫn giữa tính thống nhất của hệ thống GDCT-TT với môi
trường, điều kiện diễn ra công tác GDCT-TT cho công nhân trên địa bàn.
Sáu là, mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng lớn với hạn chế về nguồn lực
hiện nay.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG

NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực của các chủ thể;
quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy, con người


21
Các chủ thể phải nhận thức rõ vị trí, vai trò của hiệu quả công tác
GDCT-TT để lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân.
Đặc biệt, các tổ chức Đảng, công đoàn trong các doanh nghiệp ở KCN phải thật
sự trở thành trung tâm đoàn kết, là nơi bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn
viên, hội viên, của người công nhân. Các chủ thể cần tạo môi trường chính trị
thuận lợi để công nhân các KCN tham gia vào các quá trình chính trị.
Ngoài ra, các chủ thể cần quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng tổ chức,
bộ máy, con người, đó làxây dựngcác thiết chế vàđội ngũ những người làm công
tác GDCT-TT, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên.
3.2. Nâng cao tính tự giác, chủ động của đối tượng; trình độ chính
trị và ý thức trách nhiệm của người công nhân
Mỗi người công nhân cần xóa bỏ lối suy nghĩ cho rằng chính trị là việc
của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Hiệu quả công tác GDCT-TT của công nhân
các KCN ở miền ĐNB thể hiện ở tính tích cực CT-XH của bản thân người công
nhân. Công tác GDCT-TT là một hoạt động chính trị rất quan trọng và cần thiết.
Để tham gia tích cực vào công việc này đòi hỏi người công nhân phải không
ngừng học tập nâng cao trình độ và hiểu biết về đường lối, chính sách; có hiểu
biết, có niềm tin sâu sắc vào những vấn đề này, có khả năng tuyên truyền cho
người khác.
Mỗi người công nhân cần nhận thức và có ý thức đầy đủ về vị trí người
chủ xã hội của mình. Đối với công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN hiện nay, người công nhân phải luôn kiên định với lý tưởng của Đảng,
ủng hộ và thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Cùng với đó, cần luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu

“diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch. Muốn thực hiện
quyền làm chủ tích cực, người công nhân phải có kiến thức pháp luật nhất định,
do đó phải không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật.
3.3. Nắm vững đặc điểm của công nhân các khu công nghiệp ở miền
Đông Nam Bộ để lựa chọn nội dung phù hợp
Các chủ thể cần nắm vững các đặc điểm về xã hội của công nhân như:
Nghề nghiệp, trình độ học vấn, quê quán, giới tính, độ tuổi...Việc nắm bắt đặc
điểm tâm lý này sẽ giúp chủ thể hiểu biết đối tượng, hiểu biết đặc điểm, nhu cầu
và khả năng tiếp nhận của họ để vạch ra mục tiêu, xác định mục đích cũng như
lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện phù hợp.
3.4. Lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện phù hợp
Một là, đa dạng hóa và lựa chọn phương pháp phù hợp: Cần chú trọng
lựa chọn phương pháp theo hướng đa dạng, phù hợp với đối tượng, địa bàn và
thời điểm. Lựa chọn phương pháp tuyên truyền phải phong phú, đa dạng, linh
hoạt; phù hợp điều kiện lao động, đặc điểm nhận thức, tư duy của mỗi loại, mỗi
nhóm công nhân khác nhau. Phương pháp tác động cần khéo léo, kiên trì và tế
nhị. GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB phải theo hướng thiết thực,
cụ thể gắn với những vấn đề liên quan mật thiết đến quyền, lợi ích chính đáng


22
của đối tượng; gắn với cơ chế, chính sách, bảo vệ lợi ích của người công nhân
một cách cụ thể, thiết thực, không giáo điều, lý luận suông, không gò ép…
Hai là, sử dụng đa dạng các hình thức: Để nâng cao hiệu quả công tác
GDCT-TT cho công nhân, các chủ thể trên địa bàn cần tiếp tục phát huy có hiệu
quả lợi thế của từng loại hình tuyên truyền, như: Tuyên truyền miệng; tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng; hội nghị; sách, ấn phẩm; nói
chuyện thời sự, giao lưu - đối thoại; các hoạt động văn hóa, văn nghệ…Sử dụng
linh hoạt các hình thức truyền thanh nội bộ, báo tường, phát tờ gấp tuyên truyền
trực tiếp tại dây chuyền sản xuất, khu nhà trọ…

Ba là, hiện đại hóa và ứng dụng các phương tiện hiện đại: Các cấp ủy
Đảng và chính quyền ở miền ĐNB cần chú trọng hiện đại hóa, chuẩn hóa hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật; đặc biệt ứng dụng công nghệ
thông tin trong GDCT-TT.
3.5. Quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
người công nhân, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
Một là, quan tâm chăm lo đời sống vật chất của công nhân: Chăm lo lợi
ích vật chất cho công nhân các KCN ở miền ĐNB trước hết phải bằng việc ban
hành và thực thi các chính sách về kinh tế đáp ứng lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của người công nhân, bao gồm: Lao động và việc làm; lương và phụ cấp;
khen thưởng và kỷ luật; bảo hiểm; chính sách y tế; chính sách giáo dục và đào
tạo...Các chính sách ban hành phải đảm bảo khuyến khích người lao động hăng
say lao động. Để làm tốt việc này, công đoàn các cấp cần theo dõi, giám sát việc
ký kết thỏa ước lao động tập thể, ký kết hợp đồng lao động dài hạn tại các doanh
nghiệp hiện nay. Các cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn cần theo dõi chặt
chẽ, kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp trong KCN thực hiện thời gian làm
việc, trả lương theo đúng quy định của Luật Lao động Việt Nam về làm thêm
giờ, đặc biệt là các chính sách về trợ cấp như phụ cấp nghề nghiệp, độc hại…
Hai là, chăm lo đời sống tinh thần cho công nhân bằng những việc làm
thiết thực: Các cấp ủy, chính quyền trên địa bàn cần đầu tư xây dựng các thiết chế
văn hóa phục vụ công nhân. Các chủ thể có trách nhiệm cần tiến hành đồng bộ
các giải pháp khác như tạo điều kiện về đất, vốn, thủ tục để tư nhân xây dựng
các khu văn hóa, vui chơi, giải trí, tập luyện thể thao cho công nhân. Quan tâm
xây dựng các thiết chế văn hóa dành cho công nhân ở nơi cư trú như: Nhà văn hóa;
sân, phòng tập thể thao; xây dựng tủ sách trong các khu nhà trọ...
Ba là, xây dựng môi trường lao động và môi trường xã hội lành mạnh,
văn hóa, hài hòa, dân chủ: Tạo điều kiện để người lao động được biết, được
tham gia ý kiến, được quyết định và giám sát những vấn đề có liên quan đến
quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ. Thiết lập mối quan hệ lao động
hài hòa, ổn định, góp phần ngăn ngừa và hạn chế tranh chấp lao động trong quá

trình sản xuấtkinh doanh.
Cấp ủy, chính quyền các cấp ở các địa phương có đông công nhân trong
các KCN cần tập trung rà soát, giải quyết những khó khăn, vướng mắc về đời


23
sống công nhân. Cần tập trung vào các vấn đề liên quan trực tiếp như: tiền
lương, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm, môi trường làm việc. Phối hợp các
địa phương nơi công nhân cư trú, xây dựng môi trường VH-XH lành mạnh, an
toàn, đẩy mạnh phong trào phát huy dân chủ ở cơ sở và xây dựng tuyến khu phố
văn hóa, gia đình văn hóa…
3.6. Huy động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực
Quan tâm tăng dần mức đầu tư về kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị
cho công tác GDCT-TT theo hướng hiện đại hóa, phù hợp với nhu cầu và trình
độ phát triển của xã hội hiện nay. Tỉnh ủy, Thành ủy, HĐND, UBND các tỉnh,
thành trong khu vực cần đưa vào chương trình hành động, kế hoạch công tác
hàng năm quy định về danh một khoản kinh phí trong ngân sách thường xuyên
cho công tác GDCT-TT cho công nhân. Chú ý huy động các nguồn lực xã hội
hóa và nêu cao trách nhiệm đóng góp của các doanh nghiệp cho công tác này.
Cần tính toán thời gian hợp lý cho các hoạt động GDCT-TT để việc sử
dụng ít thời gian hợp lý, tiết kiệm, phù hợp nhưng có thể chuyển tải được nhiều
nhất nội dung và giúp đối tượng tiếp nhận hiệu quả.

KẾT LUẬN
Hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT là vấn đề đã
được nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên, chưa có sự thống nhất cao về các nội dung, nhất là vấn đề tiêu chí hiệu
quả. Hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở vùng ĐNB lại là
vấn đề khá mới mẻ, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu, luận giải sâu sắc, toàn diện
dưới góc độ khoa học công tác tư tưởng.

Kế thừa và phát triển các công trình đã nghiên cứu về hiệu quả CTTT,
công tác GDCT-TT, vận dụng vào một đối tượng cụ thể là công nhân các KCN ở
miền ĐNB, tác giả Luận án đã đi sâu nghiên cứu, luận giải những vấn đề đặt ra
dưới góc độ khoa học CTTT.Nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT thực chất là
thực hiện có hiệu quả các quá trình của công tác tư tưởng bằng việc xác định các
mục tiêu phù hợp, hoàn thành các mục tiêu này; nâng cao hiểu biết về chính trị,
củng cố niềm tin và khơi dậy, phát huy tính tích cực xã hội của đối tượng.
Hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB đang
diễn ra trong bối cảnh có cả những thuận lợi và đan xen nhau; trong đó có nhiều yếu
tố tác động chi phối không ít khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, bằng sự quan tâm và nỗ
lực của các chủ thể, công tác GDCT-TT cho công nhân ở các KCN miền ĐNB đã có
những hiệu quả thiết thực. Thứ nhất, hiệu quả của công tác này được thể hiện ở việc
các chủ thể trên địa bàn đã xác định đúng, trúng các mục tiêu và thành cơ bản các
mục tiêu đã xác định. Hai là, nhận thức, kiến thức của một bộ phận công nhân đã
được nâng cao, nhất là so sánh với trước khi bản thân họ được tuyển dụng; thái độ,
niềm tin của một bộ phận công nhân đã ngày càng được củng cố. Ba là, Một bộ phận


24
công nhân đã thể hiện tính tích cực xã hội thông qua lao động, qua việc tham gia các
đoàn thể, qua đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mất dân chủ…trong doanh
nghiệp và ở nơi cư trú. Tuy nhiên, để công tác này ngày càng có hiệu quả thực chất
cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là khó khăn thách thức do
đời sống của một bộ phận công nhân trong các KCN trên địa bàn hiện gặp nhiều khó
khăn.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các
KCN trên địa bàn đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều giải pháp đồng bộ như đã đề
xuất ở chương 3. Hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT, nhất
là hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện là
vấn đề cần phải tiếp tục được quan tâm trong bối cảnh hiện nay. Kết quả nghiên

cứu của Luận án mới chỉ là những bước sơ khởi ban đầu, mang tính gợi mở
trong nghiên cứu hiệu quả GDCT-TT ở một đối tượng cụ thể, trên một địa bàn
cụ thể. Bối cảnh mới, tình hình mới của cả trong nước và quốc tế, nhất là việc
Việt Nam đã ký gia nhập CPTPP và cuộc cách mạng lần thứ 4 đang đến rất
nhanh, chắn chắn sẽ làm thay đổi mọi mặt của xã hội, trong đó đội ngũ những
người lao động, nhất là công nhân trong các KCN được dự báo là sẽ chịu ảnh
hưởng và tác động lớn nhất. Vì vậy, chắn chắn trong hiệu quả công tác GDCTTT tới đây cũng sẽ xuất hiện những vấn đề mới cần được tiếp tục nghiên cứu,
luận giải.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
1. Vũ Trung Kiên (2014), “Nâng cao nhận thức về chính trị và pháp luật
cho cán bộ công đoàn cơ sở, công nhân lao động ở Đồng Nai”, Tạp chí Lao động
và Công đoàn, số 554.
2. Vũ Trung Kiên (bút danh: Hồng Phúc), (2017), “Cơ hội và thách thức
đối với người lao động và tổ chức công đoàn Việt Namkhi gia nhập TPP”, Tạp
chí Lao động Bình Dương, số Xuân 2017.
3. Vũ Trung Kiên (2017), “Về tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo
dục chính trị-tư tưởng cho công nhân”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 8.
4. Vũ Trung Kiên (2017), “Về thuật ngữ giáo dục chính trị-tư tưởng”,
Tạp chí Giáo dục Việt Nam, số chuyên đề năm 2017.
5. Vũ Trung Kiên (2017), “Những vấn đề đặt ra về hiệu quả công tác
giáo dục chính trị-tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp miền Đông Nam
Bộ hiện nay”,Tạp chí Lao động Công đoàn, số 629.
6. Vũ Trung Kiên, (2017), “Đào tạo cán bộ tuyên giáo đáp ứng yêu cầu
xã hội hiện nay”, Hội thảo quốc gia do Ban Tuyên giáo Trung ương và Học viện
Báo chí Tuyên truyền tổ chức.




×