SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÁO DỤC DINH DƯỠNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6
TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG HÀNG NGÀY TẠI LỚP
A2 TRƯỜNG MẦM NON VĂN NHO – HUYỆN BÁ THƯỚC
Người thực hiện: Vi Thị Nội
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Văn Nho
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HOÁ NĂM 2019
Mục lục
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi thông qua hoạt động hàng ngày tại lớp A2 Trường Mầm non
Văn Nho - Huyện Bá Thước”.
2.3. Các giải pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
thông qua hoạt động hàng ngày tại lớp A2 Trường Mầm non Văn
Nho - Huyện Bá Thước”.
2.3.1. Giải pháp 1. Lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng cho trẻ
vào các môn học..
2.3.2. Giải pháp 2: Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua hoạt động
hàng ngày
2.3.2.1. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua
giờ đón trẻ
2.3.2.2. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua
hoạt động dạo chơi ngoài trời.
2.3.2.3. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua
hoạt động góc:
2.3.2.4. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua
giờ ăn
2.3.2.5 Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua
hoạt động chiều:
2.3.3. Giải pháp 3 : Phân loại trẻ trong lớp – Cung cấp vốn từ cho
trẻ.
2.3.4. Giải pháp 4 : Sưu tầm và sáng tạo một số trò chơi về giáo dục
dinh dưỡng để tổ chức cho trẻ trong các hoạt động.
2.3.5. Giải pháp 5 : Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh trong
hoạt động giáo dục dinh dưỡng cho trẻ.
2.3.6. Giải pháp 6 : Giáo viên tự học tập nghiên cứu để nâng cao
trình độ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
5
5
8
8
8
10
11
12
13
14
15
16
17
18
18
3.2. Kiến nghị
19
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của mỗi con
người. Trẻ em cần dinh dưỡng để phát triển thể lực và trí tuệ. Người lớn cần
dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc, ăn uống là nhu cầu sống hàng ngày,
nhu cầu bức thiết không thể không có.
Thức ăn cung cấp năng lượng axit amin, lipit, vitamin, chất khoáng cần
thiết cho sự phát triển của cơ thể duy trì tế bào tổ chức. Thiếu hay thừa các chất
dinh dưỡng trên đều có thể gây bệnh hay ảnh hưởng bất lợi đến sức khoẻ con
người
Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã từng nói :
“Trẻ em như búp trên cành.
Biết ăn, biết ngủ học hành là ngoan ”[1].
Quả đúng là như vậy: Trẻ em như búp non trên cành nếu được chăm sóc
cẩn thận thì chồi non đó sẽ phát triển. Cũng như con người nếu được chăm sóc
ngay từ khi mới sinh của người mẹ và gia đình cho đến khi đứa trẻ đó được tới
trường, tới lớp được sự chăm sóc chu đáo của cô giáo mầm non thì đứa trẻ đó sẽ
phát triển toàn diện về “ Đức, trí, thể, mỹ và lao động”. Muốn đứa trẻ phát triển
toàn diện thì điều đầu tiên chúng ta nhắc đến đó là “sức khoẻ” do đó dinh dưỡng
là nhu cầu sống hàng ngày của mỗi con người. Trẻ em cần dinh dưỡng để phát
triển về thể lực và trí tuệ và góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ,
người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc[2]
Dinh dưỡng học nghiên cứu mối quan hệ thiết yếu giữa thức ăn và cơ thể
con người, tất cả chúng ta đều thấy rõ tầm quan trọng của việc ăn uống là một
nhu cầu hằng ngày, một nhu cầu cấp bách bức thiết không thể không có. Tuy vậy
hiện nay có nhiều vấn đề nảy sinh như: chế độ dinh dưỡng không đầy đủ và
không hợp lý do con người mải lo công việc, do nguồn thực phẩm không đảm
bảo vệ sinh an toàn, nền kinh tế thị trường...vẫn là điều mọi người phải quan tâm
xem xét. Chúng ta biết rằng tình trạng dinh dưỡng tốt của mọi người nói chung,
trẻ em nói riêng phụ thuộc vào khẩu phần dinh dưỡng thích hợp, việc được chăm
sóc sức khoẻ đầy đủ có môi trường sống hợp vệ sinh.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của giá trị dinh dưỡng và điều
kiện kinh tế hiện nay, là một giáo viên mầm non tôi cần giáo dục dinh dưỡng
cho mọi người, nhất là đối với trẻ ngay ở độ tuổi mầm non.
Giáo dục dinh dưỡng là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch
đến tình cảm, lý trí con người nhằm làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành
động để đi đến tự giác chăm lo vấn đề ăn uống và sức khoẻ cá nhân, tập thể
cộng đồng[3].
Xuất phát từ tầm quan trọng đó của công tác giáo dục dinh dưỡng, nhưng
qua hoạt động hàng ngày tôi thấy chất lượng giáo dục dinh dưỡng chưa đạt kết
quả cao, tỷ lệ suy dinh dưỡng vẫn còn .Chính vì vậy, là một giáo viên mầm non,
năm học này tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công đứng lớp MG 5 – 6
tuổi, đã và đang trực tiếp làm công tác chăm sóc – giáo dục trẻ, đứng trước
nhiệm vụ trước mắt là thực hiện công tác giáo dục dinh dưỡng và sức khoẻ trong
1
Nhà trường mầm non Văn nho ngày càng có chất lượng và hiệu quả cao. trước
tình hình này tôi luôn trăn trở suy nghĩ mình phải làm gì? và làm thế nào để
cùng đội ngũ giáo viên trong nhà trường tìm ra giải pháp giáo dục dinh dưỡng,
sức khoẻ một cách phù hợp sẽ hạ thấp dần tỷ lệ suy dinh dưỡng hay tỷ lệ suy
dinh dưỡng không còn tại trường mình và nâng dần thể lực cho trẻ. Vì vậy tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài:“ Một số giải pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động hàng ngày tại lớp A2 Trường Mầm
non Văn Nho - Huyện Bá Thước”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại lớp
Mẫu giáo lớn A2 để tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất, phù hợp nhất để giáo dục
dinh dưỡng cho trẻ mầm non qua các hoạt động hàng ngày tại lớp mẫu giáo lớn
A2 trường mầm non Văn Nho – Huyện Bá Thước.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Lớp mẫu giáo lớn A2: 5 - 6 tuổi, Trường mầm non Văn Nho – Huyện Bá
Thước
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Tham khảo một số tài liệu có liên quan đến vấn đề.
* Phương pháp thống kê, sử lý số liệu:
Thống kê, sử lý số liệu trong bảng khảo sát trước và sau khi áp dụng các
giải pháp.
* Phương pháp quan sát:
- Quan sát giờ dạy đồng nghiệp.
- Quan sát các hoạt động khác của trẻ như:
+ Trong các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hàng ngày trẻ thích hoạt
động nào nhất
+ Khi vui chơi trẻ thích chơi gì ?
+ Khi ăn trưa trẻ thích ăn món gì ?
+ Khi ăn trẻ nào ăn nhanh, trẻ nào ăn chậm.
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin:
Khảo sát các hoạt động của trẻ trong lớp để nhận biết về khả năng tiếp thu
và nhận thức của trẻ về giáo dục dinh dưỡng
* Phương pháp nghiên cứu dùng lời:
Cô dùng lời nói để hướng dẫn trẻ trong các hoạt động.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Con người có sức khoẻ có muôn vàn ước mơ, người không có sức khoẻ chỉ
có một ước mơ duy nhất là “ Sức khoẻ”. Thật vậy “ Sức khoẻ” là vốn quý nhất
của con người, có sức khoẻ là có tất cả, là điều kiện quyết định đến sự nghiệp
tiền đề tương lai.
Hồ Chủ Tịch đã nói “ Muốn có xã hội chủ nghĩa phải có con người xã hội
chủ nghĩa”[4]. Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại hội nghị tổng
kết ngành thể dục thể thao 23/03/1973 có nói “ Con người xã hội chủ nghĩa là
2
con người khoẻ mạnh lúc nào cũng sung sức, cơ thể tốt, thần kinh, tinh thần
tốt”[5]
Để đạt được điều đó:
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây,
Vì lợi ích trăm năm trồng người”[6].
Trong văn kiện Đại hội lần thứ IV Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt
Nam khoá VII tháng 12/1993 khẳng định : “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội” Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và toàn dân[7].
Mục đích của nền giáo dục XHCN Việt Nam là đào tạo ra những con
người có kiến thức văn hoá, có sức khoẻ, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự
chủ sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có
cuộc sống lành mạnh đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Các cơ sở giáo
dục Mầm non có nhiệm vụ tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển hài hoà thể
chất và tinh thần, phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường, gia đình - xã hội để
chăm sóc giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi phát triển một cách toàn diện, đặt nền tảng đầu
tiên cho sự hình thành những phẩm chất con người mới XHCN
+ Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn cơ thể phát triển hoàn hảo cân đối.
+ Giàu lòng yêu thương, biết quan tâm, nhường nhịn giúp đỡ những người
gần gũi, thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên.
+ Yêu thích cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp và mong muốn tạo ra những cái
đẹp xung quanh.
+ Thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi, có một số kỹ năng sơ
đẳng ( quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận ) cần thiết để lên lớp một
và tiếp tục vào trường phổ thông, thích đi học.Như chúng ta đã thấy vấn đề dinh
dưỡng chiếm một vị trí rất quan trọng. Có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh
trưởng và phát triển. Lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng vào giảng dạy
cho trẻ mẫu giáo lớn nhằm giúp trẻ hiểu và nhận biết về lợi ích của vấn đề dinh
dưỡng đối với cơ thể con người và tạo ra sự liên thông về giáo dục dinh dưỡng,
liên tục từ lứa tuổi mẫu giáo đến lứa tuổi học đường, tiến hành giáo dục cho trẻ
mẫu giáo sẽ góp phần quan trọng trong chiến lược con người, tạo ra một lớp
người mới có sự hiểu biết đầy đủ về vấn đề dinh dưỡng, sức khoẻ. Biết lựa chọn
một cách thông minh, tự giác các cách ăn uống, để đảm bảo sức khoẻ của mình,
đẩy lùi bệnh tật, hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng ở lớp tới mức thấp nhất[8].
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
thông qua hoạt động hàng ngày tại lớp A2 Trường Mầm non Văn Nho Huyện Bá Thước”.
Năm học 2018 – 2019 tôi được nhà trường phân công giảng dạy tại lớp
MG lớn A2, Lớp có 35 cháu trong đó 14 cháu nữ và 21 cháu nam. 100% cháu là
con em dân tộc Thái ở nhiều thôn bản khác nhau.
Đầu năm học, qua việc cân đo trẻ, kết quả còn rất nhiều trẻ bị suy dinh
dưỡng, thấp còi. Tôi bắt đầu thực hiện nghiên cứu những biện pháp nhằm giáo
dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua các hoạt động hàng ngày trên đối tượng là
3
lớp do tôi chủ nhiệm. Trong quá trình thực hiện, tôi đã có những thuận lợi và
gặp phải một số khó khăn. Cụ thể:
2.2.1. Thuận lợi :
Cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà bếp phục vụ cho công tác bán trú tương
đối đầy đủ.Nhà trường có vườn rau sạch.
Trẻ lớp tôi cùng một độ tuổi, ăn bán trú tại trường 100%.
Một số phụ huynh của lớp tôi đã hiểu biết về tầm quan trọng của vấn đề
dinh dưỡng đối với sức khoẻ con người nói chung và con mình nói riêng.
Tài liệu có nội dung về giáo dục dinh dưỡng (Tranh, lô tô về 4 nhóm thực
phẩm…) tương đối đầy đủ.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sát sao về chuyên môn,
các điều kiện về cơ sở vật chất
- Đa số trẻ lớp tôi khỏe mạnh, nhanh nhẹn và hoạt bát, thích vận động,
thích đi học.
- Một số phụ huynh học sinh rất quan tâm đến công tác chăm sóc – giáo
dục và các hoạt động của lớp.
- Bản thân yêu nghề, mến trẻ và đã có thời gian công tác 15 năm, nên tích
lũy được khá nhiều kinh nghiệm chăm sóc – nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
+ Có nhiều nguồn thực phẩm sạch do nhân dân địa phương cung cấp.
2.2.2. Khó khăn:
Ngoài những thuận lợi đã có thì chúng tôi đã gặp không ít những khó
khăn khi giáo dục dinh dưỡng cho trẻ, như:
- Lớp tôi đa số bố mẹ các cháu đi làm ăn xa, các cháu ở nhà chủ yếu với
ông bà, nên việc phối hợp với phụ huynh về vấn đề dinh dưỡng còn hạn chế. Các cháu lớp tôi 100% là trẻ dân tộc Thái nên việc phát âm tiếng phổ thông
chưa chính xác dẫn đến việc tiếp thu kiến thức về dinh dưỡng ( 4 nhóm thực
phẩm) chưa chuẩn.
- Nhiều trẻ còn rụt rè chưa mạnh dạn tự tin trong hoạt động, khi được hỏi
cháu lúng túng thậm chí không trả lời được nên khi thực hành trẻ không thực
hiện được dẫn đến kết quả đạt được trên trẻ không cao
- .Công tác phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường còn nhiều hạn chế do
hoàn cảnh và điều kiện kinh tế của một số gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên
ít có thời gian chăm sóc con.
- Một số phụ huynh còn hạn chế về kiến thức giáo dục dinh dưỡng.
- Một số trẻ được nuông chiều qua mức, cha mẹ cho trẻ ăn theo ý thích
thậm chí còn cho trẻ ăn những loại thực phẩm trẻ rất thích ăn nhưng có hại cho
sức khỏe của trẻ. Ngược lại một số trẻ do điều kiện gia đình khó khăn, không có
điều kiện cho con ăn đủ chất. Bởi vậy, trẻ chưa thực sự biết được tầm quan trọng
của việc ăn uống đủ chất, không hiểu được những thực phẩm trẻ đang ăn cung
cấp cho trẻ chất gì.
- Giáo viên còn lúng túng khi tích hợp phần giáo dục dinh dưỡng qua các
môn học khác, chưa tổ chức được các hoạt động giáo dục dinh dưỡng cho trẻ
qua các hoạt động như: Hoạt động góc, hoạt động vui chơi ngoài trời hoặc ở mọi
lúc mọi nơi
4
- Việc tổ chức các trò chơi giáo dục dinh dưỡng trong các hoạt động còn
hạn chế về số lượng, nội dung trò chơi chưa phong phú.
=> Xuất phát từ nội dung giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6
tuổi. Tôi đã tiến hành khảo sát thực tế trên trẻ lớp do tôi chủ nhiệm được kết
quả như sau
Bảng 1: Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng các giải pháp
Tiêu chí
Đạt
Chưa
đạt
Tổng
Tốt
Khá
Trung
số trẻ
bình
Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ
trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ
%
%
%
%
Trẻ biết gọi tên các loại 35
10 28,5 12 34,2 8
22,8 5
14,
thực phẩm đơn giản
3
Trẻ phân loại, nhận biết,
35
8
22,8 11 31,4 9
25,7 7
20
phân biệt được 4 nhóm thực
phẩm thông thường
Trẻ biết ăn nhiều loại thức 35
19 54,2 9
25,7 4
11,4 3
8,5
ăn khác nhau
Trẻ biết hoạt động chế biến 35
15 42,8 8
22,8 7
20
5
14,
các món ăn đơn giản
3
Trẻ biết sử dụng dụng cụ ăn 35
15 42,8 11 31,4 8
22,8 1
2,8
uống đơn giản.
Xuất phát từ thực trạng và kết quả khảo sát trên tôi đã mạnh dạn đưa ra
Một số giải pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt
động hàng ngày tại lớp A2 Trường Mầm non Văn Nho - Huyện Bá Thước.
2.3. Các giải pháp giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông
qua hoạt động hàng ngày tại lớp A2 Trường Mầm non Văn Nho - Huyện Bá
Thước”.
2.3.1. Giải pháp 1. Lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng cho trẻ vào các
môn học..
Dinh dưỡng không phải là một môn riêng biệt như các môn học khác. Vì
vậy muốn trẻ tiếp thu được nội dung giáo dục dinh dưỡng cho trẻ một cách tốt
nhất, bản thân đã nghiên cứu và đưa vào các môn học để giúp trẻ hiểu sâu hơn
về dinh dưỡng.
- Thông qua hình thức tiết học củng cố, hệ thống hoá, chính xác hoá
những kiến thức về dinh dưỡng mà trẻ đã làm quen ở mọi lúc mọi nơi, phát triển
trí tuệ cho trẻ.
- Khi sử dụng các hình thức này cần đạt các yêu cầu sau:
+ Phát huy tính tự giác, chủ động của trẻ, đảm bảo không khí vui tươi
thoải mái nhẹ nhàng, không gò bó áp đặt.
+ Giờ học phải có trọng tâm, tránh dàn trải, lan man, cần biết phối hợp
các phương pháp một cách linh hoạt, hợp lý.
5
* Qua hoạt động Làm quen với Môi trường xung quanh
- Dạy trẻ biết tên gọi đặc điểm cấu tạo của đối tượng trẻ biết được thành
phần các chất và giá trị dinh dưỡng của đối tượng đó đối với cơ thể con người.
- Trẻ biết được tác dụng của các chất Prôtít, Lipít, Gluxít, Các loại
Vitamin và muối khoáng với cơ thể con người.
Ví dụ: Hoạt động học “Làm quen với một số con vật nuôi trong gia đình ”
Sau khi cho trẻ quan sát nhận xét về đặc điểm của con bò => Cô khái quát lại và
tích hợp giáo dục dinh dưỡng: Bò là động vật nuôi trong gia đình có 4 chân đẻ
con, bò có màu vàng, trên đầu có đôi sừng, có đôi mắt có mõm, đuôi bò dài , bò
thường hay ăn cỏ. Nuôi bò để kéo xe, lấy thịt, lấy sữa, thịt bò có nhiều chất đạm
ăn vào rất tốt cho cơ thể con người, sữa bò có nhiều canxi và các Vitamin. Các
loại sữa tươi sữa hộp mà ở nhà cũng như đến lớp các con được bố mẹ cô giáo
cho uống hàng ngày cũng được pha chế từ sữa bò. Vì vậy các con phải uống sữa
để giúp cho cơ thể khoẻ mạnh thông minh chóng lớn.
Sau khi cho trẻ quan sát và nhận xét về đặc điểm nổi bật của con gà cô tích hợp
giáo dục dinh dưỡng: Trong thịt gà, trứng gà có chất đạm, giúp cho cơ thể phát
triển cân đối khoẻ mạnh
Khi cho trẻ so sánh sự giống nhau của hai con vật nuôi trong gia đình. Ví
dụ: Gà và lợn giống nhau chúng đều là động vật sống trong gia đình, được con
người chăm sóc nuôi dưỡng, thịt của chúng đều giàu chất đạm.
Thông qua việc giáo dục đó giúp trẻ biết ích lợi của thực phẩm động vật
và trẻ có hứng thú về ăn các loại thực phẩm đó.
Ví dụ: Trong hoạt động Làm quen với một số con vật sông dưới nước. Cô
giới thiệu cho trẻ biết tên các con vật, cấu tạo, các con vật đó là nguồn thực
phẩm cung cấp chất gì? Cô khái quát lại và tích hợp giáo dục dinh dưỡng: Các
con vật sống dưới nước như: Cá, tôm, cua, ốc,.. là nguồn thực phẩm giàu chất
đạm ăn vào rất tốt cho cơ thể con người, các loại cua, ốc… có nhiều canxi giúp
cho xương chắc khỏe.
Hình ảnh 1: Cô và trẻ trong giờ hoạt động chung
Đề tài: “Một số con vật sống dưới nước”
6
* Qua hoạt động “Làm quen với tác phẩm văn học”.
Thông qua hoạt động “Làm quen với tác phẩm văn học” trẻ được học các
bài thơ, câu chuyện, bài vè, câu đố về một số loại rau, củ, quả hay những thói
quen văn minh trong đời sống sinh hoạt.
Ví dụ: Bài thơ: Hoa kết trái; Vè các loại rau; Bắp cải xanh; Vườn cây của ba;
Quả
Khi trẻ học bài thơ “Bắp cải xanh” trẻ biết rau bắp cải là rau ăn lá, cung
cấp nhiều vitamin và khoáng chất cho cơ thể nên trẻ biết phải thường xuyên ăn
rau và ăn đa dạng nhiều loại rau, củ khác nữa. Không những vậy trẻ còn học
được bài học yêu quý người trồng rau, bài học cần chăm sóc, tưới nước, bắt
sâu… thì mới có những loại rau củ quả ngon cho các con ăn hàng ngày.
Hay qua những câu truyện: Trái cây trong vườn; Sự tích cây thì là; Gói
hạt kì diệu… Đặc biệt còn có những câu chuyện giáo dục kĩ năng sống gần gũi,
góp phần hình thành thói quen văn minh, thói quen tự phục vụ cho trẻ như câu
chuyện “Vệ sinh buổi sáng” giáo dục trẻ biết đánh răng, rửa mặt vào sáng sớm
khi ngủ dậy.
* Qua hoạt động: Tạo hình
Trong hoạt động tạo hình, đề tài vẽ vườn cây ăn quả, cô có thể gợi ý để trẻ
vẽ cô sử dụng câu hỏi để trẻ nói được các loại quả cung cấp chất gì?
* Qua hoạt động: Âm nhạc
Thông qua các bài hát như: Quả, Mời bạn ăn…Cô trò chuyện với trẻ về
những loại quả, các loại thức ăn bé cần ăn hàng ngày như thịt, rau, trứng, đậu,
cá, tôm…Qua bài hát giáo dục trẻ ăn nhiều loại thức ăn để lớn nhanh, khỏe
mạnh.
* Qua hoạt động: Làm quen với chữ cái
Trong hoạt động làm quen với chữ cái, khi treo tranh để trẻ làm quen, cô
sẽ tùy thuộc vào tranh để khai thác
Ví dụ: Làm quen với chữ o, cô treo tranh chùm nho và hỏi trẻ để trẻ mô tả
về qủa nho, quả nho cung cấp chất gì và trước khi ăn nho phải làm gì.
Như vậy: việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong các tiết học đòi hỏi
giáo viên phải biết lựa chọn và sử dụng nội dung một cách hợp lý để đạt hiệu
quả cao nhất.
* Qua các hoạt động làm quen với Toán và âm nhạc
Trong hoạt động làm quen với toán, cô sẽ cung cấp kiến thức về dinh
dưỡng qua những đối tượng cô cho trẻ hoạt động
Ví dụ: Đề tài: số 6 tiết 1.
Để gây hứng thú cho trẻ vào bài học tôi đưa ra sự bất ngờ cho trẻ bằng
cách,giới thiệu các bác nông dân gửi tặng lớp mình một hộp quà. Để biết được
điều kỳ diệu gì nằm hộp đó cô mời lớp cùng khám phá nhé. 1.2.3 mở…………
Món quà gì đây? Các loại quả ạ. Cho trẻ đọc tên từng loại quả trong hộp quà.
Ví dụ: Đếm số lượng 1.2.3.4.5.6 quả cam.
Cam cung cấp chất gì cho cơ thể?
Cô lồng giáo dục dinh dưỡng và bảo vệ môi trường cho trẻ( ăn xong
không vứt vỏ ra ngoài lớp…)
7
* Đối với môn : Âm nhạc - Dạy trẻ hát bài hát: Đố quả. Ngoài việc dạy trẻ
hát đúng giai điệu, nhạc và vận động nhịp nhàng theo nội dung bài hát tôi còn
giúp trẻ hiểu được các loại quả cung cấp cho cơ thể nhóm chất vitamin giúp
cho da dẻ hồng hào, mịn màng và chống đỡ được bệnh tật.
VD: Cô cho trẻ hát bài “ Bắp cải xanh”, Trò chuyện về chất dinh dưỡng
trong rau bắp cải và tổ chức cho trẻ thực hiện bài tập phát triển chung theo nhạc
bài hát. Cô giáo dục trẻ chăm tập thể thao và ăn nhiều loại thực phẩm để có cơ
thể khỏe mạnh.
2.3.2. Giải pháp 2: Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua hoạt động hàng
ngày
2.3.2.1. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua giờ đón
trẻ
Vào giờ đón, trả trẻ tôi thường dùng các câu đố, bài thơ có nội dung về
giáo dục dinh dưỡng để đố hoặc đọc cho trẻ nghe.
Ví dụ: Quả gì năm múi
Cắt thành hình sao
Bé nếm thử nào
Chao ôi chua quá. (Quả khế).
Vậy quả khế cung cấp chất gì?( Chất vitamin…)
Tổ chức cho trẻ chơi vận động: Chọn thực phẩm theo yêu cầu của cô.
* Cách chơi: Cô chia lớp thành 4 đội, nhiệm vụ đội số 1: Chọn nhóm
thực phẩm giàu chất bột đường, đội số 2: Chọn nhóm thực phẩm giàu chất béo,
đội số 3: Chọn nhóm thực phẩm giàu chất đạm, đội số 4: Chọn nhóm thực phẩm
giàu chất vitamin và muối khóang. Khi lên chọn thực phẩm các thành viên phải
bật qua 3 vòng thể dục, thành viên thứ nhất chọn xong gắn vào bảng của đội
mình sau đó chạy về cuối hàng đứng, cứ tiếp tục đến hết. Thời gian trong 2 phút
đội nào chọn nhanh, chọn đúng đội đó sẽ thắng cuộc.
* Luật chơi: Khi lên chọn các thành viên bật không được chạm vào vòng,
nếu thành viên của đội nào chạm vào vòng thì thực phẩm của đội đó không được
tính.
Cô ra tin hiệu hết giờ, cô cùng các đội kiểm tra xem đội nào chọn được
nhiều và đúng thực phẩm theo yêu cầu của cô. Cô lồng giáo dục dinh dưỡng và
bảo vệ môi trường cho trẻ.
2.3.2.2. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua hoạt
động dạo chơi ngoài trời.
Không chỉ được học tập trong lớp trẻ còn được học xen kẽ chơi ngoài trời.
Một hoạt động tích hợp được nhiều lợi ích với trẻ mầm non trong đó có những
lợi ích nhất định về giáo dục dinh dưỡng.
Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường trẻ được tiếp xúc với không khí
trong lành, không gian rộng, thoáng đãng sau những giờ học trong lớp. Điều này
làm cho trẻ cảm thấy thoải mái hơn và trẻ được thư giãn nó có tác dụng tốt để trẻ
tiếp thu cái mới, dễ dàng ghi nhớ những cái học được.
- Thông qua một buổi dạo chơi vừa giúp trẻ nhận biết các đặc điểm cơ bản
của đối tượng, vừa giúp trẻ hiểu thêm về thành phần dinh dưỡng của đối tượng
8
- Cô cùng trẻ đi tham quan vườn rau nhà trường, trò chuyện với trẻ về các
loại rau trong vườn bằng hệ thống câu hỏi. Cụ thể: Cho trẻ kể tên nhóm rau ăn lá
( Rau đay, mùng tơi, rau ngót…), Nhóm rau ăn củ( Xu hào, cà rốt..), nhóm rau
ăn qủa( Cà chua, quả đậu,…). Qua đó cô giúp khắc sâu kiến thức về nhóm thực
phẩm giàu vitamin và muối khoáng có trong rau - Củ - Quả.
Từ đó cô giúp trẻ hiểu thêm vườn rau sạch, an toàn không bị ngộ độc là
vườn rau không dùng các loại thuốc bảo vệ thực vật….
- VD: Cho trẻ quan sát vườn rau của nhà trường (lớp Mẫu giáo lớn A2 )
a. Mục tiêu
* Kiến thức:
Trẻ nhận biết gọi được tên, đặc điểm, thành phần dinh dưỡng, của các loại
rau trong vườn rau.
* Kỹ năng:
Mở rộng hiểu biết, phát triển thể lực, ngôn ngữ cho trẻ
* Thái độ:
Trẻ biết tác dụng của rau đối với cơ thể từ đó trẻ có ý thức chăm sóc cây
trồng có ích và tăng cường ăn rau trong các bữa ăn
b. Chuẩn bị:
- Tư trang cho trẻ.
- Địa điểm quan sát, sạch sẽ, an toàn
c. Tiến hành:
- Cô kiểm tra sức khoẻ của trẻ, cô giới thiệu nội dung buổi quan sát (cô
cùng trẻ hát bài “đuổi chim[9] đến “vườn rau” Cho trẻ đứng ở vị trí phù hợp trò
chuyện cùng trẻ)
+ Cô con mình đang đứng ở đâu (Vườn Rau ạ.)
+ Ai có nhận xét về vườn rau (Vườn rau rộng, có nhiều luống rau, có nhiều loại
rau)
+ Trong vườn rau có loại rau gì?. rau cải trông thế nào?(bẹ lá to xanh, lá mọc từ
gốc mọc lên)
+ Rau rền đỏ trông như thế nào? (lá màu đỏ)
+ Rau đay trông như thế nào? ( Có cành cây, có thân cây lá nhỏ...)
+ Cây cà chua cho chúng ta ăn gì( Ăn quả)
+ Quả cà chua có vị gì? Dùng để nấu món gì? ( Có vị chua, Dùng để nấu canh...)
+ Những loại rau này dùng để làm gì?( ăn uống chế biến các món ăn)
=> Cô khái quát lại và giáo dục trẻ trong rau có chứa nhiều Vitamin và chất xơ,
muối khoáng cho nên các con cần ăn nhiều rau rất tốt cho cơ thể mình, vậy để có
rau ăn các con phải chăm bón, bảo vệ luống rau xanh tốt nhé.
* Kết thúc: Nhận xét – tuyên dương
- Hát em yêu cây xanh[9]
9
Hình ảnh 2: Cô đang trò chuyện cùng trẻ về một số loại rau
2.3.2.3. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua hoạt
động góc:
Hoạt động góc ở trường mầm non là hoạt động có ý nghĩa to lớn đối với
trẻ. Vì hoạt động góc chính là những dạng trò chơi bổ ích, thế giới người lớn
được tái hiện trong các trò chơi. Từ đó trẻ học được kinh nghiệm của con người
qua các vai chơi. Nhằm kích thích, thu hút, lôi cuốn trẻ tham gia giải quyết
những nhiệm vụ học tập như khám phá mối liên kết giữa hành vi và sức
khoẻ, củng cố sự hiểu biết của trẻ về giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe.
Tôi thường tổ chức cho trẻ chơi ở các góc và đặc biệt là góc: Phân vai tôi
luân phiên cho trẻ tham gia chơi ở góc “Bé tập làm nội trợ”, “Bán hàng các
nhóm thực phẩm”. Mục đích giúp trẻ nhận biết một bữa ăn phải đầy đủ 4 nhóm
thực phấm, ăn đủ chất đủ lượng sẽ giúp cơ thể khoẻ mạnh và thông minh…
10
Hình ảnh 3: Các bé đang chơi “ Nấu ăn”
2.3.2.4. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua giờ ăn.
Trong bữa ăn của trẻ tại trường hàng ngày trẻ được cô nhà bếp chế biến các
món ăn hợp khẩu vị của trẻ và thường xuyên thay đổi món ăn nên khi tổ chức
bữa ăn cho trẻ giáo viên kết hợp lồng ghép giáo dục dinh dưỡng cho trẻ.
Ví dụ: Trong giờ ăn trưa, trước khi ăn cô giáo giới thiệu các món ăn, sau đó giới
thiệu luôn giá trị dinh dưỡng của các món ăn đó như: Hôm nay cô cho các con
ăn món cá sốt cà chua. Trong Cá sốt cà chua có rất nhiều chất đạm ăn vào giúp
cơ thể các con khỏe mạnh, thông minh, chóng lớn. Trong cà chua có nhiều
vitamin A giúp cho da dẻ hồng hào, mắt sáng. Và các con còn được ăn món canh
rau cải nấu với tôm có nhiều vitamin C, giúp các con chóng lớn, thông minh và
bài tiết tốt. Vậy các con phải ăn hết suất của mình thì cơ thể mới khoẻ mạnh và
thông minh đấy.
Ngoài việc giáo dục cho trẻ ăn uống đủ chất vẫn chưa đủ mà chúng ta còn
phải giáo dục vệ sinh cho trẻ, phải rửa tay, trước khi ăn và rửa mặt sau khi đi
ngủ. Vào bàn ăn phải ngồi ngay ngắn, ngồi đúng nơi quy định, đúng chỗ của
mình ngồi. Chuẩn bị khăn lau tay, phải có đĩa đựng cơm rơi vãi, phải biết mời cô
mời bạn trước khi ăn. Trong khi ăn không đựơc nói chuyện, xúc cơm cẩn thận
không được rơi vãi ra ngoài, phải nhai kỹ, khi ho phải che miệng hoặc quay ra
ngoài, ăn uống từ tốn có nề nếp, khi ăn xong phải lau miệng, lau tay, không uống
nước lã.
11
Hình ảnh 4: Giờ ăn trưa của trẻ
2.3.2.5 Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua hoạt
động chiều:
- Tổ chức giáo dục dinh dưỡng cho trẻ vào các hoạt động chiều dưới hình
thức ôn luyện các kiến thức trẻ đã học, nhằm giúp trẻ khắc sâu được kiến thức
hơn.
- VD: Khi thực hiện chủ đề “Động vật sống dưới nước” thì vào buổi chiều
cô cho trẻ ôn luyện qua trò chơi “Đố vui” về các loại con vật sống dưới nước,
Cô trò chuyện, hỏi trẻ để trẻ được nói về các chất dinh dưỡng có trong cá, tôm,
cua, ... Cô nói cho trẻ biết có rất nhiều loại cá , tôm, cua, ốc... chúng sống ở khắp
nơi như ao, hồ, sông, suối, Trong thịt chúng chứa rất nhiều đạm, canxi là nguồn
thực phẩm rất tốt cho cơ thể con người, có thể chế biến rất nhiều món ăn, cho trẻ
kể các món ăn được chế biến từ cá, tôm, cua..., và giáo dục trẻ ăn thức ăn chế
biến từ cá, tôm, cua...
12
Hình ảnh 5: Cô hướng dẫn trẻ chơi trò “Đố vui về các loại thực phẩm”
2.3.3. Giải pháp 3: Phân loại trẻ trong lớp – Cung cấp vốn từ cho trẻ.
Sau khi tiến hành khảo sát xong, tôi đã tiến hành phân loại trẻ ( Như bảng
thống kê). Xếp chỗ ngồi tôi thường bố trí những cháu khá ngồi với trẻ yếu, trẻ
nam ngồi đan xen với trẻ nữ. Và tôi đặc biệt quan tâm đến những trẻ nói tiếng
phổ thông chưa thạo với trẻ nói chuẩn, những trẻ nhút nhán tôi xếp gần những
trẻ hiếu động và tôi thường xuyên gọi cháu nói tiếng phổ thông chưa thạo trả lời
câu hỏi của cô để giúp các cháu mạnh dạn và hiểu đúng nghĩa của từ hơn.
Ví dụ:Trong hoạt động chung: Tìm hiểu một số lương thực - thực phẩm.
Tôi đưa " Bắp ngô' hỏi trẻ; Trẻ nói " Phăc đưới". Hay " Con lợn" trẻ nói " Tố
mú", ….
Khi trẻ không nhớ được từ mới về 4 nhóm thực phẩm tôi đọc từ kết hợp
cho trẻ xem tranh minh hoạ, nếu trẻ chưa hiểu được, tôi phải dịch tiếng địa
phương cho trẻ hiểu. Sau đó dạy từ mới cho trẻ:
Cụ thể: Có thể nói gọn: Từ + Hình minh hoạ + Tiếng địa phương( Cô
thường xuyên chú ý đến những trẻ nói tiếng dân tộc).
Sau nhiều lần tiến hành dạy trẻ như vậy, tôi lại kiểm tra xem mức độ trẻ
tiếp thu kiến thức đến đâu.
Ví dụ: Con hãy kể cho cô nghe nhóm thực phẩm giàu chất đạm?
Hay: Thịt gà có thể chế biến được những món ăn gì?
13
Ăn nhóm thực phẩm giàu chất vitamin sẽ giúp cho cơ thể chúng ta
như thế nào?....
2.3.4. Giải pháp 4 : Sưu tầm và sáng tạo một số trò chơi về giáo dục dinh
dưỡng để tổ chức cho trẻ trong các hoạt động.
Đối với trẻ mẫu giáo hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi,
thông qua hoạt động chơi cô có thể cung cấp kiến thức cho trẻ để lĩnh hội và
khắc sâu kiến kiến thức dễ hơn. Đặc điểm tâm lý trẻ mầm non là dễ nhớ nhưng
lại mau quên. Vậy phải làm gì để trẻ nhớ lâu nhất những kiến thức cô đã truyền
đạt? Tôi nghĩ ngay đến hình thức trò chơi và tôi đã tiến hành sưu tầm những trò
chơi hay và phù hợp với trẻ để cho trẻ hoạt động và thấy trẻ rất hứng thú.
Trò chơi: Món ăn vui nhộn: Các cô có thể dùng những loại trái cây quen
thuộc để tạo nên những hình ảnh nhiều màu sắc. Các cô có thể để các bé tự làm
điều này trên phần ăn của mình. Trong quá trình sắp xếp các cô có thể dạy cho
bé về màu sắc, hình dáng và nguồn dinh dưỡng trong chính thực phẩm mà bé
đang ăn. Đó có thể là một bông hoa màu cam làm bằng cà rốt hoặc một cái cây
xanh được xếp từ rau súp lơ luộc
Trò chơi: “Từ điển” củ quả: Đây là một trong những trò chơi hết sức thú
vị đã được áp dụng thành công ở nhiều trường mầm non. Cách chơi: dùng giấy
bìa tạo hình các loại củ quả quen thuộc như: táo, cam, nho, dưa hấu… và dán
chúng lên bảng. Các bé sẽ có nhiệm vụ gọi tên các loại củ quả đó. Khi bé đoán
đúng phần thưởng sẽ chính là hình dán của quả và sự khen ngợi của cô và các
bạn. Tôi thấy đa phần các bé đều rất hào hứng với trò chơi này , chúng đang
nghiên cứu để đưa các loại củ quả thật vào trò chơi này”.
Trò chơi: Tháp dinh dưỡng: Với trò chơi này cô có thể chuẩn bị những
chiếc rổ khác nhau và phân loại: rau xanh, thịt cá… và một số loại thực phẩm
bằng nhựa thuộc các nhóm đó. Các bé sẽ được chia nhóm và đem bỏ các loại
thực phẩm cùng nhóm vào cùng một chiếc rổ. Trò chơi này sẽ tạo không khí vui
nhộn và giúp các bé nhận biết tên các loại thực phẩm sễ dàng hơn.
VD: Trong tiết học có đề tài “Làm quen với một số loại quả” sau khi đã
cung cấp kiến thức tôi đã sử dụng trò chơi đi siêu thị để trẻ biết cách chọn các
loại quả tươi, sạch và các chất dinh dưỡng có trong các loại rau đó.
Hoặc trò chơi với lô tô: Phân nhóm các loại thực phẩm theo các chất dinh
dưỡng vào các tiết học có chủ đề các con vật sống trong gia đình.
Ngoài ra còn cho trẻ được trải nghiệm thông qua trò chơi bé tập làm nội
trợ như: cho trẻ xếp lô tô theo quy trình pha nước cam... làm bánh, pha sữa, pha
nước cam, làm sinh tố hoa quả.....
Khi áp dụng các trò chơi trên vào trong các hoạt động tôi thấy trẻ rất
hứng thú và phát huy được tính tích cực của trẻ trong các hoạt động đạt kết quả
cao, đáp ứng được yêu cầu: “ Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”
VD: Pha nước cam không những trẻ biết làm công việc tự phục vụ cho
bản thân và người khác mà còn biết được giá trị dinh dưỡng trong ly nước cam
đó là có nhiều Vitamin uống vào giúp cơ thể sảng khoái, da dẻ mịn màng.
14
Hình ảnh 6: Cô tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Pha nước cam”
2.3.5. Giải pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh trong hoạt
động giáo dục dinh dưỡng cho trẻ.
Phối hợp với phụ huynh trong hoạt động giáo dục dinh dưỡng là rất quan
trọng, vì qua đó chúng ta biết được sở thích về các món ăn của trẻ ở nhà để có
cách giáo dục đồng nhất giữa gia đình và giáo viên
Ví dụ: Qua trao đổi với phụ huynh, tôi biết cháu Tú Nam ở nhà không
thích ăn canh bí mà ở trường lại rất thích ăn bởi vì ở trường các cô thái bí rất
nhỏ, dễ ăn, từ đó tôi trao đổi để phụ huynh cũng chế biến thức ăn theo cách của
nhà trường để trẻ thích ăn hơn.
Mặc dù phụ huynh lớp tôi chủ yếu là nông nghiệp, nhận thức của một số
phụ huynh về dinh dưỡng còn hạn chế, nhiều phụ huynh đi làm ăn xa vì vậy để
tuyên truyền đến các bậc phụ huynh tôi phải tìm mọi cách gặp gỡ phụ huynh để
trao đổi về tầm quan trọng của việc ăn đủ chất giúp cho cơ thể khoẻ mạnh, việc
đầu tiên tôi mời một số phụ huynh đến dự bữa ăn của trẻ. Trong bữa ăn tôi giới
thiệu cho phụ huynh biết về bữa ăn của trẻ cần đủ 4 nhóm chất dinh dưỡng, đó
là: Chất đạm, chất béo, chất bột đường và nhóm chất vitamin muối khoáng. Cần
cho trẻ ăn đủ chất, đủ lượng theo quy định của từng lứa tuổi giúp trẻ khoẻ
mạnh, nhanh nhẹn, thông minh và chống đỡ được bệnh tật.. Cần thay đổi các
món ăn để trẻ ăn ngon miệng, không bị nhàm chán, trẻ sẽ ăn hết xuất của mình.
Bên cạnh đó tôi còn tuyên truyền đến các bậc phụ huynh khi đi chợ mua
thực phẩm cần lựa chọn những thực phẩm tươi, ngon không bị dập nát......Cần
cho trẻ ăn chín, uống sôi, …
15
Giáo viên thực hiện tuyên truyền kiến thức khoa học về dinh dưỡng vệ
sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Trước
hết tạo niềm tin và uy tín đối với phụ huynh để họ yên tâm gửi con đi học. Qua
công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ làm cho phụ huynh thấy cần thiết
phải đưa con đến trường.
Để làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh tôi đã thực hiện theo các hình
thức sau:
*Giờ đón trả trẻ
Sau các đợt cân đo trẻ tôi tiến hành chấm biểu đồ theo dõi trẻ để biết được
kết quả về sức khỏe của trẻ để qua các giờ đón - trả trẻ giáo viên trao đổi trực
tiếp với phụ huynh về dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ tại gia đình và nhà trường
để kịp thời điều chỉnh chế độ ăn, chế độ sinh hoạt và các giải pháp giáo dục phù
hợp cho trẻ. Báo ngay cho những phụ huynh có cháu suy dinh dưỡng để cùng
nhau phối hợp và chăm sóc trẻ tốt. Từ đó cùng với nhà trường giảm tỷ lệ suy
dinh dưỡng ở trẻ xuống mức thấp nhất.
*Tổ chức các buổi họp phụ huynh
Giáo viên phổ biến kiến thức dinh dưỡng – sức khỏe, nuôi dạy con theo
khoa học. Phổ biến thực phẩm giàu chất đạm, chất béo, chất bột đường, chất
vitamin muối khoáng có sẵn tại địa phương đảm bảo rẻ tiền nhưng giàu chất
dinh dưỡng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phổ biến cách bảo quản thực phẩm sống, thực phẩm chín một cách an
toàn, tránh thực phẩm bị ôi thiu, nhiễm độc. Tuyên truyền đến các bậc phụ
huynh biết tầm quan trọng của việc cho trẻ ăn hết suất ăn, động viên trẻ trong
khi ăn giúp trẻ ăn ngon miệng hơn.
*Xây dựng góc tuyên truyền
Thông qua góc những điều cha mẹ cần biết và góc tuyên truyền của nhà
trường, giáo viên tuyên truyền cho phụ huynh biết “10 nguyên tắc vàng trong
chế biến thực phẩm”, “10 lời khuyên về dinh dưỡng hợp lý”, điển hình hay gặp
cho các bậc phụ huynh.
Thực hiện cân, đo trẻ theo định kỳ và báo cáo cho phụ huynh rõ về tình
trạng sức khỏe của trẻ qua góc tuyên truyền.
2.3.6. Giải pháp 6: Giáo viên tự học tập nghiên cứu để nâng cao trình độ.
Năng lực chuyên môn đối với giáo viên vô cùng quan trọng, giáo viên là
người trực tiếp hướng dẫn trẻ hoạt động. Trong khi tri thức luôn có sự thay đổi
nên bản thân tôi không ngừng phấn đấu học hỏi về chuyên môn và để nâng cao
trình độ cho bản thân.
Cùng với chị em giáo viên trong nhà trường tôi tích cực tham gia lớp bồi
dưỡng cho giáo viên do nhà trường, phòng, sở giáo dục tổ chức trong các đợt tập
huấn. Thông qua các buổi họp, trao đổi với chị em đồng nghiệp, qua các buổi
họp về chuyên môn hàng tuần, hàng tháng của tổ giáo viên.
Thường xuyên truy cập Internet trang giáo dục mầm non, sức khỏe gia
đình.
Trước mỗi chủ đề được thực hiện tôi xây dựng kế hoạch thực hiện chương
trình thực hiện cho cả chủ đề dựa vào nội dung giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe
16
đề ra đầu năm học. và sau mỗi chủ đề tôi ghi lại những vấn đề mà trẻ đã đạt
được hay những vấn đề trẻ chưa đạt được, cần dạy trẻ ở chủ đề sau.
Thăm dự một số hoạt động có tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng –
sức khỏe để rút ra cái được và cái chưa được khi tổ chức, nên lồng ghép thế nào
cho phù hợp. Nêu một số hoạt động để tổ chuyên môn cùng góp ý.
Trên cơ sở đó hiệu quả của công tác giảng dạy và tích hợp nội dung giáo
dục dinh dưỡng của tôi vào các hoạt động đã được nâng cao ngày càng rõ rệt.
Hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với Hội đồng giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
*. Kết quả đạt được
- Thông qua việc đưa nội dung giáo dục dinh dưỡng thông qua các hoạt
động hàng ngày tại lớp Mẫu giáo A2 ,Trường Mầm non Văn Nho, Tôi quan sát
thấy các cháu đã hiểu được giá trị dinh dưỡng của thực phẩm, ích lợi của lương
thực qua đó trẻ biết ăn uống đầy đủ, ăn hết xuất và biết ăn uống văn minh hợp vệ
sinh
- Việc giáo dục dinh dưỡng thông qua các hoạt động hàng ngày giúp trẻ
tiếp thu kiến thức về dinh dưỡng một cách nhẹ nhàng sâu sắc, từ đó các cháu đã
có những hiểu biết nhất định về dinh dưỡng, do đó trẻ đã có sức khoẻ tốt hơn.
- Cha mẹ trẻ nắm được kiến thức về dinh dưỡng và có sự phối kết hợp
chặt chẽ với giáo viên.
- Trẻ mạnh dạn và tự tin hơn trong các hoạt động.
Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các giải pháp
Tiêu chí
Đạt
Tổng
Tốt
Khá
Trung
số
bình
trẻ Số Tỉ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ
trẻ lệ trẻ % trẻ %
%
Trẻ biết gọi tên các loại 35
18 51,4 12 34,3 5
14,2
thực phẩm đơn giản
Trẻ phân loại, nhận biết,
35
17 48,6 11 31,4 5
14,2
phân biệt được 4 nhóm thực
phẩm thông thường
Trẻ biết ăn nhiều loại thức 35
20 57,1 13 37,1 2
5,7
ăn khác nhau
Trẻ biết hoạt động chế biến 35
17 48,6 9
25,7 8
22,8
các món ăn đơn giản
Trẻ biết sử dụng dụng cụ ăn 35
15 42,8 15 42,8 5
14,2
uống đơn giản.
Chưa
đạt
Số Tỉ
trẻ lệ
%
0
0
2
5,7
0
0
1
2,8
0
0
17
* Bài học kinh nghiệm
Từ thực tế 15 năm chăm sóc và giảng dạy trẻ mẫu giáo nói chung và chăm
sóc giảng dạy trẻ mẫu giáo lớn nói riêng. Bản thân tôi đã có những băn khoăn
trăn trở về công tác chăm sóc trẻ, làm thế nào để trẻ, những mầm non tương lai
của Đất nước có đặc biệt là vùng đất đang có cuộc sống vô cùng khó khăn này
có được thể lực và trí tuệ tốt nhất , tôi đã mạnh dạn đưa nội dung giáo dục dinh
dưỡng cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các hoạt động hàng ngày . Trong quá
trình nghiên cứu thực tế và áp dụng với chính trẻ do lớp tôi trực tiếp giảng dạy,
tôi đã rút ra cho mình bài học kinh nghiệm sau:
- Để giảm được tỷ lệ suy dinh dưỡng thì cô giáo phải làm được những vấn
đề sau:
+ Phải thực sự say sưa yêu nghề mến trẻ coi mình như người mẹ hiền thứ
hai của các con
+ Hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của dinh dưỡng, liên quan đến sức
khoẻ bệnh tật của trẻ, từ đó cô xác định trách nhiệm trong công tác chăm sóc về
dinh dưỡng cho trẻ.
+ Biết nhu cầu dinh dưỡng của trẻ theo từng độ tuổi biết khẩu phần ăn
như thế nào là đầy đủ các chất dinh dưỡng và hợp lý đối với một trẻ, biết giá trị
dinh dưỡng của các thực phẩm thông thường của các địa phương.
+ Gần gũi với trẻ nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, biết cách
chăm sóc cho trẻ biếng ăn quan tâm đến những trẻ ăn yếu, động viên trẻ ăn hết
xuất
+ Biết phối kết cùng cô cấp dưỡng xây dựng thực đơn khẩu phần ăn đủ
chất dinh dưỡng và cân đối giữa các chất.
+ Có hiểu biết những điều cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm, biết cách
chọn mua thực phẩm, bảo quản và chế biến thực phẩm.
+ Thường xuyên theo dõi sức khoẻ của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng, hiểu
được ý nghĩa mục đích của việc theo dõi sức khoẻ cho trẻ bằng biểu đồ tăng
trưởng.
+ Giáo viên biết vận dụng linh hoạt sáng tạo khi đưa nội dung giáo dục
dinh dưỡng cho trẻ một cách nhẹ nhàng sâu sắc, luôn lắng nghe, tự học tập bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, luôn mạnh dạn tham gia giảng dạy các chuyên đề
các cấp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
+ Phối hợp giữa gia đình và nhà trường, theo dõi sức khoẻ và khả năng
học tập của trẻ để cùng nhau giáo dục và chăm sóc trẻ theo khoa học, để đạt
được kết quả cao nhất.
+ Không bằng lòng với kết quả đạt được của bản thân mà phải luôn phấn
đấu vươn lên để đạt được những kết quả tốt hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
- Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ ở trường Mầm non, vấn đề giáo
dục dinh dưỡng là vấn đề quan trọng và cấp thiết .Khi trẻ hiểu được tầm quan
trọng và cần thiết của các chất dinh dưỡng đối với sức khoẻ và sự phát triển của
cơ thể thì lúc đó trẻ ý thức được việc cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể. trẻ
18
hiểu được thực phẩm nào có nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể.Từ đó
loại trừ được thói quen lười ăn kém ăn.
- Để giáo dục dinh dưỡng đạt kết quả tốt cô cần có sự kiên trì liên tục,
mọi lúc mọi nơi và lồng ghép có sáng tạo vào các môn học nhất là môn môi
trường xung quanh
- Qua môn môi trường xung quanh sẽ góp phần hình thành và phát triển
toàn diện về thể chất cũng như nhân cách của trẻ sau này, bộ môn này đã cung
cấp cho trẻ một số kiến thức đơn giản, nhưng vô cùng quan trọng đối với cả trẻ
em và người lớn.
- Trong quá trình công tác, tôi thấy vấn đề giáo dục dinh dưỡng cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi nói riêng và các lứa tuổi khác nói chung, Nhà trường đã áp
dung kiến thức khoa học trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo từng độ
tuổi và đã đạt được kết quả cao
- Là một giáo viên mầm non luôn phải đặt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục
trẻ lên hàng đầu, luôn coi trẻ như con và trở thành người mẹ thứ hai của trẻ.
Giáo dục trẻ thành những chủ nhân tương lai của đất nươc, có nền tảng vững
vàng về tri thức cũng như sức khoẻ để bước vào tương lai một cách tự tin hơn.
- Việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ không chỉ là nhiệm vụ của giáo viên
gia đình của trẻ mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội, để chuẩn bị cho thế hệ mới
phát triển đầy đủ sức khoẻ, nhân cách cũng như tri thức. Tôi đã áp dụng những
kiến thức đã được học để chăm sóc trẻ, có những cách tổ chức giáo dục dinh
dưỡng cho trẻ thật sự bổ ích để trẻ tiếp thu tốt từ đó phát triển tốt góp phần xây
dựng quê hương đất nước giàu đẹp.
3.2. Kiến nghị.
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu
đề tài. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong quá trình hướng dẫn trẻ làm quen môi trường xung
quanh tại lớp mẫu giáo lớn trường mầm non như sau:
*. Đối với Phòng Giáo dục.
Tôi xin được đề xuất với Phòng Giáo dục chon những sáng kiến kinh
nghiệm và phổ biến rộng rãi cho chúng tôi được tham khảo, học tập.
Tạo điều kiện cho giáo viên được đi thăm quan, học tập kinh nghiệm ở
các trường bạn
Mở các lớp tập huấn chuyên đề về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ cho giáo
viên học tập.
Tổ chức các hội thi về dinh dưỡng cho giáo viên được tham gia để bổ
sung thêm kiến thức về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
*. Đối với Ban Giám Hiệu.
Tạo điều kiện cho giáo viên được đi thăm quan, học tập kinh nghiệm ở
các trường bạn
Có sự chỉ đạo cụ thể, làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
cho giáo viên và có kế hoạch bồi dưỡng cho những giáo viên còn hạn chế.
Bổ sung các loại tài liệu về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ để giáo viên tham
khảo.
19
Tăng cường mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học.
Trên đây là một số kinh nghiệm giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua các hoạt động hàng ngày tại lớp mẫu giáo lớn A2 trường mầm
non mà tôi đã rút ra được trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo lớn ở
tường Mầm non Văn nho,nhằm giúp trẻ phát triển tốt cả trí và lực. Trong khuôn
khổ bài viết chưa thể bao quát được hết các vấn đề có liên quan, còn có những
hạn chế, thiếu sót nhất định, tôi rất mong nhận được sự góp ý xây dựng từ các
cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
Trịnh Thị Tân
Vi Thị Nội
20
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Báo Việt Nam độc lập – Ngày 21/09/1941
Tâm lý học trẻ em – Nhà xuất bản ĐHQG
Giáo trình Dinh dưỡng trẻ em – Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội
Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
Diễn văn của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng tại Hội nghị
tổng kết nghành Thể dục thể thao ngày 23/3/1973
“ Hồ Chí Minh – Tuyển tập”, Tập 2, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội – 1980
Văn Kiện Đại hội lần thứ IV, Ban Chấp Hành TW Đảng Công sản Việt Nam
khóa 7 tháng 12/1973
Sáng kiến kinh nghiệm, đề tài: “Một số giải pháp giáo dục dinh dưỡng – sức
khỏe cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non Hoàng Đan”
Tuyển tập trò chơi, bài hát, thơ, cao dao, câu đố 5 - 6 tuổi – Nhà xuất bản
Giáo dục
Mẫu 1 (2)
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Vi Thị Nội
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Mầm non Văn nho
Cấp đánh giá kết quả
Năm học
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá đánh giá
(Ngành GD cấp xếp loại
xếp loại
huyện/tỉnh; Tỉnh)
1
2
3
4
Một số giải pháp nâng cao
chất lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi
làm quen với Toán.
Nâng cao chất lượng giáo
dục Âm nhạc trong đời sống
hàng ngày cho trẻ ở Trường
Mầm non Văn nho
Một số kinh nghiệm nâng
cao chất lượng giáo dục cho
trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi
LQVT
Một số giải pháp giáo dục
dinh dưỡng cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi thông qua
hoạt động hàng ngày tại lớp
A2 Trường Mầm non Văn
Nho - Huyện Bá Thước
Ngành GD
huyện Thường
Xuân
Ngành GD
huyện Bá
Thước
(A,B hoặc
C)
2005 - 2006
C
2011 - 1012
C
Ngành GD
huyện Bá
Thước
C
2013 - 2014
UBND Huyện
Bá Thước
C
2018 - 2019