Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi dân tộc thiểu số tại trường mầm non lũng niêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.47 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng về lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 -5 tuổi dân tộc thiểu số tại
trường mầm non Lũng Niêm.
2.2.1. Thuận lợi trong giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 -5 tuổi dân
tộc thiểu số tại trường mầm non Lũng Niêm.
2.2.2. Khó khăn trong giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 -5 tuổi dân
tộc thiểu số tại trường mầm non Lũng Niêm.
2.2.3. Thực trạng về lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 -5 tuổi dân tộc thiểu số
tại trường mầm non Lũng Niêm trước khi áp dụng sang kiến kinh
nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên và phụ huynh là tấm gương cho trẻ noi
theo trong mọi hoạt động.

TRANG
2
2
4
4
4
4
4
5


5
6
6
7
7

2.3.2. Giải pháp 2: Giáo dục lễ giáo, nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo
dân tộc thiểu số.

9

2.3.3. Giải pháp 3: Lồng nghép hoạt động lễ giáo qua hoạt động học
2.3.4. Giải pháp 4: Giáo dục lễ giáo thông qua hoạt động vui chơi:

11
12

2.3.5. Giải pháp 5: Giáo dục lễ giáo qua việc giáo viên tuyên truyền với
phụ huynh.

13

2.3.6. Giải pháp 6: Giáo dục lễ giáo thông qua việc nêu gương đánh
giá, khích lệ tích cực của trẻ.
2.4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm đối với Hội đồng giáo dục, với
bản thân, đồng giáo dục và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.


15
14
17
17
18

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do lựa chọn đề tài:
Trẻ em là mầm xanh, là chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy việc chăm sóc
giáo dục trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo là nhiệm vụ hết sức cần thiết đối với người giáo
viên mầm non. Bên cạnh việc chăm sóc giáo dục trẻ thì việc hình thành nhân cách cho
trẻ là việc làm hết sức quan trọng. Giải quyết vấn đề này trong lĩnh vực đạo đức chính
là hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với truyền thống và yêu
cầu của thời đại. Trong các nhà trường nước ta hiện nay luôn lấy giáo dục con người
làm gốc, giáo dục đạo đức là hàng đầu, coi sự nghiệp trồng người là cơ bản của giáo
dục [1].
Nghị quyết của bộ chính trị về cải cách giáo dục đã ghi rõ: “ Giáo dục thế hệ trẻ
yêu quê hương tổ quốc, xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức làm chủ
tập thể, tính thật thà khiêm tốn, dũng cảm”. Do đó việc giáo dục lễ giáo cho thế hệ trẻ
là một quá trình lâu dài, xuyên suốt trong quá trình giáo dục. Đòi hỏi phải có sự chung
tay góp sức của gia đình và toàn xã hội. Muốn thế hệ trẻ có đủ - đức - trí - thể - mỹ thì
những lớp người đó không ai khác đó chính là thế hệ trẻ hôm nay. Trong thư gửi học
sinh nhân ngày khai trường đầu tiên Bác viết : “Non sông việt nam có trở nên vẻ
vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm
châu hay không chính là nhờ vào một phần lớn công lao học tập của các cháu”.
Khoa học cũng đã khẳng định rằng: “Nền móng đầu tiên của nhân cách, sự phát
triển về mặt nhân cách cho trẻ sau này đều mang rõ dấu ấn của thời thơ ấu. Vì thế lứa

tuổi này ta phải chăm lo phát triển toàn diện cho trẻ, trên cơ sở đó mà từng bước hình
thành nhân cách cho trẻ theo yêu cầu mà xã hội mới đặt ra”.
Tại trường nầm non việc giáo dục lễ giáo cho trẻ thông qua các chế độ sinh hoạt
hàng ngày của cô và trẻ như: Đón trẻ, thể dục sáng, hoạt động học, chơi hoạt động ở
các góc, hoạt động chơi ngoài trời, ăn trưa, ngủ trưa, hoạt động theo ý thích, nêu
gương và chuẩn bị ra về. Thông qua các hoạt động hàng ngày cô giáo giáo dục lễ giáo
cho trẻ có ý thức tự tin và tôn trọng mọi người xung quanh , giáo dục tinh thần tự
giác, ý thức kỷ luật trật tự trong sinh hoạt, hành vi văn minh, giữ gìn vệ sinh, giáo dục
tình thương, quan hệ đoàn kết thân ái với bạn bè, biết yêu mến và tôn trọng người lớn.
Giáo dục nề nếp cho trẻ còn thông qua trò chơi vì; Vui chơi là hoạt động chủ
đạo của lứa tuổi mẫu giáo. Các đặc điểm tâm lý mới, tính cách mới của trẻ được hình
thành chủ yếu trong hoạt động chủ đạo này. Vì vậy trong công tác giáo dục nề nếp cho
trẻ thông qua trò chơi là một phương tiện mạnh mẽ nhất .
VD: Trong khi chơi trẻ đã thể hiện rõ tính cách của trẻ qua nhân vật, cách đóng
vai, cách ứng sử với trẻ trong nhóm chơi.
Trò chơi phân vai theo chủ đề có mối quan hệ giữa trẻ với nhau và quan hệ giữa
các vai chơi với nhau. Khi chơi trẻ thể hiện tính cách của từng vai chơi vì vậy việc
nêu gương quan trọng ngay cả đối với trẻ dóng vai.
2


Giáo dục nề nếp lễ giáo cho trẻ còn thông qua hoạt động học tập nhằm trau dồi
tri thức cần thiết về cuộc sống xung quanh mà giúp trẻ gắn bó với quê hương, biết yêu
quý người lao động, có những hành vi văn minh, làm giàu vốn tri thức về cuộc sống
cho trẻ sau này.
Thông qua hoạt động học cô giáo từng bước giáo dục trẻ có ý thức kỉ luật, kĩ
năng, biết chủ động tự lực vượt qua những khó khăn để hình thành những công việc
từ đơn giản đến phức tạp.
Giáo dục nề nếp lễ giáo cho trẻ thông qua lao động vừa sức phù hợp với đời
sống sinh hoạt cũng là phương tiện giáo dục nề nếp cho trẻ. Thông qua lao động hình

thành những phẩm chất của người lao động trẻ tự giác, có tinh thần trách nhiệm
những công việc phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp trẻ cảm thấy mình tốt hơn đồng thời biết
quan tâm đến người khác.
Giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số vùng cao chính là một cơ sở giúp trẻ
phát triển toàn diện về nhân cách. Là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp học tập suốt
đời của trẻ.
Tuy nhiên một số gia đình thuộc dân tộc thiểu số vùng cao vẫn còn giữ những
thủ tục, tập quán ngày xưa, những quan niệm dân tộc ảnh hưởng không nhỏ đến việc
hình thành nhân cách, tình cảm cho trẻ. Vì vậy giáo dục lễ giáo chính là một giải pháp
đúng dắn cho trẻ dân tộc thiểu số vùng cao hiện nay nhằm mục đích tăng cường giáo
dục truyền thống đạo đức văn minh cho thế hệ trẻ.
Đây chính là nền móng đầu tiên quan trọng để phát triển nhân cách con người,
đặc biệt những bậc làm cha làm mẹ sẽ cảm thấy yên tâm biết bao khi con mình là
những đứa trẻ thông minh, nhanh nhẹn biết nghe lời bố mẹ, ngoan ngoãn lễ phép với
những người xung quanh, ở lứa tuổi này trẻ bắt đầu hình thành những quan niệm cho
chính mình.Trẻ hiểu và xác định được sự đánh giá , nhận xét của người lớn với trẻ.
Trẻ hiểu được cái tốt, cái xấu và biết tự điều chỉnh hành vi của mình và tuân thủ đúng
những nguyên tắc của người lớn yêu cầu. Bởi thế nếu không làm tốt việc chăm sóc
giáo dục trẻ trong những năm đầu đời thì việc giáo dục lễ giáo cho trẻ lại càng khó
khăn phức tạp hơn.
Bên cạnh đó cùng với sự phát triển chung của nền văn hoá xã hội trẻ chịu sự tác
động trực tiếp của nhiều tác động tâm lý bên ngoài xã hội, đó là tác động giáo dục
của người lớn. Chính vì vậy giáo dục lễ giáo cho trẻ nói chung và trẻ dân tộc tiểu số
trường mầm non Lũng Niêm nói riêng là một biện pháp mang tính cấp bách và rất cần
thiết cho sự hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ vùng đân tộc thiểu số sau này.
Chính vì vậy bản thân tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số giải pháp giáo dục lễ
giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi dân tộc thiểu số tại trường mầm non Lũng Niêm ”
để nâng cao chất lượng nề nếp cho trẻ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo

3


4 – 5 tổi dân tộc thiểu số ở Trường Mầm Non Lũng Niêm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Trẻ mẫu giáo lớp B3 4 – 5 tuổi Trường Mầm Non Lũng Niêm
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp dùng lời.
Phương pháp dùng trò chơi.
Phương pháp thống kê và sử lý số liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Đất nước Việt Nam dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một bản sắc phong tục khác
nhau và ngày nay khi đất nước đang trên đà phát triển hội nhập kinh tế, văn hóa,
tham gia các diễn đàn Quốc tế mở ra cho nước nhà nói chung và giáo dục nói riêng
những cơ hội cũng như nhiều thách thức mới sự giao lưu hội nhập các nền văn hóa thế
giới. Việc giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc càng được đề cao, việc chúng ta
hội nhập chứ không thể hòa tan, biết học hỏi, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của
nhân loại để làm giàu thêm nét bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Trước những
cơ hội và thách thức đó đất nước đang cần có những con người mới, xã hội chủ nghĩa
với những cá tính thông minh, năng động, sáng tạo. Giáo dục lễ giáo cho trẻ là một
phần quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ, là khâu đầu tiên hình thành nhân cách
cho trẻ đặc biệt là lứa tuổi mầm non. Vì vậy trong mục tiêu giáo dục đào tạo ghi rõ
hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới, xã hội chủ
nghĩa: khỏe mạnh, nhanh nhẹn phát triển hài hòa, cân đối, giàu lòng yêu thương .
Thực tế từ xưa đến nay người ta đã khẳng định vai trò to lớn của giáo dục tác
động đến việc hình thành và phát trển nhân cách của mỗi người đặc biệt với trẻ mẫu

giáo đân tộc thiểu số vùng cao hiện nay.
Cùng với sự phát triển của văn hoá kinh tế xá hội đạo đức trẻ đang bị xuống cấp
nghiêm trọng những lễ giáo lễ nghi hành vi ứng sử lối sống tốt đẹp đang bị bào
mòn ,hành vi đaọ đức sống lệch lạc ngày càng gia tăng. Còn đối với trẻ em đân tộc
thiểu số vùng cao thì Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.sao?
Trẻ còn mang nhiều hủ tục của người dân tộc thái. Như trẻ nói tiếng thái, khi trẻ đến
lớp chào cô, nói chuyện với cô và các bạn bằng tiếng thái. Hoặc trẻ trả lời và nói
những câu “cộc lốc” không có chủ ngữ vị ngữ.
VD1 : Coan chào cô! Hay khi muốn mách cô có bạn tè ra quần trẻ nói : Cô ơi
bạn Bắc éo sôống. Có nghĩa là ; Cô ơi bạn Bắc tè ra quần.
VD2: Trẻ muốn xin đi tè : Cô ơi á éo! có nghĩa là cô ơi con muốn đi tè
4


VD3: Khi muốn gọi bạn sang chơi trẻ gọi: Ma ní trăng ngan. Có nghĩa là sang
đây chơi với tao.
VD4: Khi ăn cơm trẻ muốn chan canh thì trẻ lại nói “Á chan canh” thay cho câu
“Thưa cô con muốn chan canh ạ! ”. Hoặc khi được người lớn hỏi trẻ vẫn trả lời “
Không hoặc có”.
Đó chính là điều mà nhiều giáo viên như tôi đáng phải lo ngại. Bởi trẻ khi giao
tiếp bằng tiếng dân tộc, tôi nghĩ phải làm thế nào để trẻ sưng hô với nhau một cách
lịch sự khi giao tiếp.
Vì những lý do đã nêu trên, với mục tiêu giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số.
Bản thân là một giáo viên mầm non lại sống và làm việc tại vùng cao nơi dân tộc thiểu
số chiếm phần lớn, nên tôi phần nào hiểu được tâm lý, phong tục của người dân tộc
vùng cao nơi tôi sinh sống.
Tôi bắt đầu nghiên cứu chọn đề tài này nhằm mục đích tự tìm ra những giải pháp
để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục lễ giáo cho trẻ nói chung và trẻ dân tộc thiểu
số trường mầm non Lũng Niên – Bá Thước nói riêng. Nhưng làm được điều này

không phải việc một sớm một chiều, nhất là trong lúc này tâm hồn trẻ đang ngây ngô
trong sáng như một tờ giấy trắng .Vì vậy cha mẹ phải là những người thầy đầu tiên
uốn nắn trẻ, và gia đình cũng là trường học đầu tiên của trẻ. Nhưng một gia đình của
trẻ dân tộc thiểu số thì sao?
Bước đầu trẻ đã có một số kĩ năng thói quen tích luỹ được từ thói quen lễ giáo
của vùng dân tộc tiểu số để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày bằng cách học mót,
bắt trước người lớn. Trẻ được trải nghiện được nhìn thấy, được nghe. Vì vậy giáo viên
và gia đình là người quan sát trực tiếp đến trẻ phải ngương mẫu, dạy và tập cho trẻ
những hành vi văn minh ở mọi lúc, mọi nơi nhằm hình thành những kĩ năng sống ban
đầu cho trẻ .
Giáo dục lễ giáo nói chung là giáo dục cách ăn nói lễ phép, có thưa, có gởi, chào
hỏi, dạ vâng, cảm ơn, xin lỗi; tư thế, trang phục, phong cách và tất cả những hành vi
ứng xử đối với những người xung quanh; tình yêu thương, sự kính trọng, lòng biết ơn
đối với ông bà, cô giáo, anh chị… và tình thân ái đối với bạn bè.
Đó là lý do thúc đẩy tôi bắt đầu triển khai áp dụng “ Một số giải pháp giáo dục
lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi dân tộc thiểu số tại trường mầm non Lũng
Niêm”nhằm hình thành và phát triển nhân cách lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số vùng
cao.
2.2.Thực trạng về giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi dân tộc thiểu số
tại trường mầm non Lũng Niêm.
2.2.1. Thuận lợi trong giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi dân tộc
thiểu số tại trường mầm non Lũng Niêm.
Trẻ trong lớp đều có chung một độ tuổi,có sự thồng nhất về phương pháp giáo
dục giữa 2 cô giáo.
Đa số trẻ đều hiểu tiếng việt khi giao tiếp.
5


Số trẻ đều được đi học từ nhà trẻ nên đã có một số thói quen lễ giáo.
Một số phụ huynh quan tâm đến việc giáo dục lễ giáo cho trẻ như tập nói đủ

câu, gọi dạ, bảo vâng, biết cảm ơn khi được giúp đỡ, biết xin lỗi khi làm sai...
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của nhà trường để giáo viên yên tâm công tác,
được dự giờ đồng nghiệp để học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
Phòng học và trang thiết bị đồ dùng đồ chơi đảm bảo theo yêu cầu cho việc dạy
và học, được tiếp thu các chuyên đề do phòng và nhà trường tổ chức đặc biệt là
chuyên đề “giao tiếp công sở”.
2.2.2. Khó khăn trong giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi dân tộc
thiểu số tại trường mầm non Lũng Niêm.
Một số phụ huynh chưa quan tâm rèn luyện cho trẻ nói đủ câu, còn để cho trẻ tự
làm theo ý của trẻ chưa cương quyết.
Trẻ có thói quen nói trống không, ra vào lớp tự do chưa có nề nếp thói quen,
chưa có thói quen xin đi vệ sinh đúng nhu cầu, có trẻ tự ra ngoài ,thấy bạn xin đi
cũng đi theo hoặc tè ra quần.
Nhiều trẻ chưa biết cảm ơn khi được người khác giúp đỡ, chưa biết xin lỗi khi
mắc lỗi, chưa biết xin bằng 2 tay khi người lớn đưa, chưa biết chơi với các bạn đoàn
kết, còn chanh dành đồ chơi của các bạn.
Mặt khác một số trẻ bố mẹ đi làm ăn xa ở miền nam và các tỉnh ngoài để con ở
nhà với ông bà và người thân nên không nhận được sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ,
do vậy việc phối kết hợp trong việc chăm sóc giáo dục trẻ còn hạn chế về mọi mặt.
Nhận thức phần lớn của phụ huynh còn xem nhẹ việc giáo dục lễ giáo cho con
mình ngay từ khi mới bập bẹ, trẻ tự học tự phục vụ mình một cách không có hệ thống,
không khoa học.
Nhận thức trẻ không đồng đều, tư duy còn chậm, trẻ còn hỏi và trả lời cô bằng
tiếng dân tộc và câu trống không.
Nhưng bên cạnh đó có gia đình nuông chiều con quá mức chỉ mải mê làm kinh
tế, sao nhã việc học hành ít quan tâm đến việc học hành của con.
Cũng do đời sống kinh tế khó khăn, đại đa số các gia đình vùng dân dộc thiểu số
vùng sâu vùng xa còn thiếu các phương tiện thông tin đại chúng, trình độ văn hoá của
các bậc cha mẹ còn thấp.
Đứng trước tình hình như vậy tôi lo lắng phải dậy trẻ như thế nào và bằng

những biện pháp gì? Để tất cả trẻ lớp tôi có những thói quen và hành vi đạo đức
chuẩn mực của xã hội. Tôi đã nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả các biện pháp mà tôi
đưa ra ngay trong lớp tôi phụ trách.
2.2.3.Thực trạng về lễ giáo của trẻ dân tộc thiểu số trường mầm non Lũng
Niêm trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian thực nghiệm và khảo sát ban đầu trên trẻ cho thấy kết quả ban
6


đầu của trẻ trên lớp được như sau:
Nội dung khảo sát

STKS

Kết quả khảo sát
Đạt
Chưa đạt
Số
%
Số
%
cháu
cháu
9
36
16
64
6
24
19

76

Trẻ biết chào hỏi xưng hô lễ phép
25
Biết cảm ơn xin lỗi nhận đồ vật bằng hai
25
tay
Ho, ngáp, hắt hơi, biết lấy tay che miệng
25
4
Mạnh dạn giới thiệu tên tuổi
25
9
Trẻ biết tự xúc để ăn
25
17
Thói quen chờ đợi đến lượt
25
8
Thực hiện các yêu cầu của cô và người lớn
25
9
Phân biệt được các hành vi tốt, xấu
25
10
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề :

16
36
68

32
36
40

21
16
5
17
16
15

84
64
32
68
64
60

2.3.1 Giải pháp 1: Giáo viên và phụ huynh là tấm gương cho trẻ noi theo
trong mọi hoạt động.
Các bậc phụ huynh và cô giáo có ảnh hưởng nhất tới sự phát triển nhân cách của
trẻ. Vì vậy để giáo dục được lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số trước hết phụ huynh và
giáo viên phải là tấm gương cho trẻ noi theo.
Đúng vậy cô giáo phải có phẩm chất của một nhà giáo là tấm ngương sáng để trẻ
noi theo. Khi sưng hô với trẻ cô luôn ân cần nhẹ nhàng. Khi giao tiếp với phụ huynh
trong giờ đón, trả trẻ cô luôn ân cần khiêm tốn lịch sự. Cháu hỏi gì tôi trả lời rõ ràng
tôn trọng ý kiến của trẻ.
Là người lớn luôn phải giữ đúng lời hứa để gương mẫu cho trẻ. Cha mẹ phải
làn gương cho trẻ, luôn luôn giữ mối quan hệ họ hàng một cách có hiệu quả để nuôi
dạy con cách sống, cách thể hiện tình cảm nhân cách sống với mọi người. Hãy làm

gương tốt cho trẻ vì lứa tuổi này trẻ bắt trước rất nhanh kể cả những thói sấu của
người lớn, chính vì thế ta phải dạy cho trẻ những đức tính tốt như; sự cảm thông, kiên
trì, an ủi, lòng bao dung để trẻ duy trì nuôi dưỡng phẩm chất tốt đẹp.
Bất kì lứa tuổi nào cũng thích được yêu thương gần gũi vì thế mọi biểu hiện của
cô giáo từ lòng nhân hậu vị tha công bằng sẽ để lại dấu ấn trong trẻ. Vì vậy khi giao
tiếp với bạn bè đồng nghiệp hay với phụ huynh trước mặt trẻ tôi luôn có chuẩn mực
trong giao tiếp. Đặc biệt tôi phải luôn chú ý đến trang phục ngọn ngàng, lịch sự,
không đi ngang qua mặt trẻ để trẻ học được cái hay cái đẹp từ cô. Có thể giáo viên áp
dụng các biện pháp sau:
Làm mẫu: Cô miêu tả hướng dẫn từ tình huống, câu nói mẫu với những trẻ chưa
thực hiện được ( cô gọi tên, làm mẫu cụ thể vd: Trong hoạt động tạo hình, cô nặn quả
cam thì yêu cầu các con phải nhào đất mềm, xoay tròn....để tạo thành quả cam)
7


Khi làm mẫu cô nói chậm, rõ ràng, chỉ dẫn ân cần để trẻ tri giác trọn vẹn, chính
xác kĩ năng cần hình thành, đồng thời giải thích cho trẻ vì sao phải làm như vậy. Ví
dụ; Ở hoạt động ngoài trời , nhặt sỏi xếp thành hình com mèo ,thì cô giáo phải miêu tả
cụ thể cho trẻ biết con mèo gồm có những bộ phận nào, xếp bộ phận nào trước bộ
phận nào sau?
Cô làm với những trẻ chưa thành thạo, cô làm cùng trẻ và chỉ dẫn các kĩ năng
cần rèn luyện để trẻ làm theo và nhắc lại kí năng cần rèn luyện. Ví dụ: Khi xây nhà thì
giáo viên phân công cho trẻ trong lớp cùng lúc làm nhiều nhiệm vụ khác nhau để
chuẩn bị cho thợ xây: lấy gạch, lấy cát, lấy xi, trộn hồ... dọn dẹp đồ khi xây xong
nhà...
Trong khi thực hiện tạo không khí thoải mái, vui vẻ, tin cậy để trẻ làm cùng,
không hối thúc trẻ, làm gương cho trẻ trong mọi tình huống ở trường để trẻ quan sát
thấy, để trẻ bắt trước và làm theo .Ví dụ: Ở hoạt động góc xây nhà, trong lúc trẻ thực
hiện cô cho trẻ vừa làm vừa hát bài cháu yêu cô chú công nhân để trẻ thêm hăng say
vui vẻ với việc đang làm...

Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm một cách hào hứng được tham gia các tình
huống . Ví dụ: Trong hoạt động học cô tổ chức theo hình thức hội thi, kết thúc hội thi
(tiết học) cô trao quà cho trẻ, trẻ được tặng quà phải biết xin và cảm ơn.

8


“Hình ảnh: Trẻ nhận quà bằng hai tay”
Nhìn chung để giáo dục cho trẻ dân tộc thiểu số có một lễ giáo văn hoá tốt đẹp
thì trước tiên cô giáo và phụ huynh phải là tấm gương tốt cho học sinh học tập và noi
theo.
2.3.2 .Giải pháp 2: Giáo dục lễ giáo, nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số.
Việc hình thành giáo dục lễ giáo thói quen cần giáo dục cho trẻ ở mọi lúc mọi
nơi để nhằm mục đích gúp trẻ dễ nhớ và khắc sâu được, nhưng trẻ rất dễ quên nên ta
phải uốn nắn sửa chữ hàng ngày cho trẻ.
Để đưa trẻ vào nề nếp trước tiên từ việc đón trẻ đến lớp và trả trẻ về. Trẻ đân
tộc vùng cao đến lớp chưa có nề nếp còn chào cô bằng tiến dân tộc, chào lí dí rụt dè.
Đặc biệt những ngày đầu tiên trẻ còn nhút nhát tôi đã gần gũi và trò chuyện với trẻ.
Trao đổi với phụ huynh để phụ huynh nhắc trẻ chào cô. Đặc biệt cô làm gương trước
cho trẻ bàng cách chào phụ huynh và chào trẻ của mình trước.
VD: Cô chào hai mẹ con! và ngay sau đó trong đầu trẻ đã nảy ra suy nghĩ về lý
do đó, kết quả của ngày hôm sau khi nghe cô chào: Cô chào hai mẹ con thì ngay lập
9


tức trẻ đã chào cô. Ngay sau đó tôi phải khen ngợi để trẻ thích thú, nhắc trẻ chào mẹ
vào lớp và chào các bạn.

“Hình ảnh: Trẻ đến lớp khoanh tay chào cô”

Đặc biệt khi đón trẻ tôi ân cần trò chuyện với trẻ và phải nghiêm túc trong việc
xưng hô với trẻ và phụ huynh của trẻ , tập cho trẻ đến lớp chào cô, sau đó là chào tạm
biệt người thân, chào các bạn, rồi xếp dép cất đồ dùng đúng nơi quy định. Đó là việc
rèn nề nếp khi trẻ đến lớp.
Từ đó rèn cho trẻ thói quen văn minh ở trường lớp. Giáo dục trẻ tinh thần tự
lực tự giác, ý thức kỉ luật trong sinh hoạt, giữ gìn vệ sin chung.
Giáo dục trẻ quan hệ đoàn kết nhân ái với bạn bè biết yêu mến và tôn trọng
người lớn. Có ý thức giữ gìn tài sản chung và tài sản riêng. Để giáo dục nề nếp thói
quen cho trẻ tôi thường xuyên nhắc nhở kiểm tra, để giúp trẻ có ý thức bảo vệ môi
trường , giữ gìn vệ sinh chung. Không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào đúng nơi quy định.
Kiểm tra việc giao tiếp ứng sử bằng ngôn ngữ của trẻ, tránh trường hợp nói tục
chửi bậy ở trẻ, vì thế tôi luôn kiểm tra chỉnh sửa để trẻ ứng sử một cách có văn minh.
10


Tôi thường xuyên giáo dục trẻ biết nói có chừng mực, từ tốn và cần giũ gìn vệ
sinh chung. Khi cho trẻ ăn bất cứ thú gì tôi cũng giáo dục trẻ bỏ rác đúng nơi quy
định.
Giáo dục trẻ biết xin lỗi, cảm ơn khi trẻ chơi tự do hay bất kì các hoạt động nếu
trẻ làm sai với các bạn.Với bản thân tôi việc phải làm ngay là phải giúp trẻ nhận ra lỗi
của mình và sửa sai. Sau đó việc tiếp theo nên làm là phải xin lỗi cô xin lỗi bạn. Nếu
ai cho thì phải biết xin và nói lời cảm ơn, nếu người lớn cho thì phải nhận bằng hai
tay
Giáo dục trẻ có lễ giáo trong việc doàn kết với các bạn, thương yêu mọi người
xung quanh qua tất cả các hoạt động trong ngày của trẻ.
Trước khi ăn tôi nhắc trẻ phải biết mời cô mời bạn, có khách đến phải biết chào
mời. Tôi nhắc nhở trẻ phải giữ gìn vệ sinh trước khi ăn và sai khi ăn, biết giữ gìn thân
thể sạch sẽ. Đặc biệt trẻ dân tộc thiểu số lớp tôi còn sử dụng rất nhiều tiếng dân tộc
hoặc nói chống không trong giờ ăn.
VD: Khi trẻ muốn chan canh thì trẻ chỉ dơ bát lên và nói “Á chan canh” hoặc

khi cô hỏi “ Con ăn no chưa” thì trẻ chỉ trả lời “ Rồi” hoặc “Chưa”.
Vì vậy trong giờ ăn ngoài việc phục vụ lấy cơm, lấy canh, khuyến khích động
viên trẻ ăn hết suất tôi con phải luôn luôn chú ý để sửa những lỗi trên cho trẻ bằng
cách tôi nói lại bằng câu đầy đủ cho trẻ nói theo.
Tất cả mọi hoạt động tôi đều có sự định hướng cụ thể để rèn cho trẻ nề nếp thói
quen tốt.
Hiểu được tâm lý tiếng dân tộc và những phong tục của người dân tộc địa
phương tôi đã giúp trẻ làm quen với những hoạt động, từng thói quen văn minh có
quy tắc .Từ đó trẻ hình thành những thói quen tốt.
Nhờ đó tôi đã làm thay đổi tất cả những hành vi thói quen của trẻ dân tộc thiểu
số lớp tôi. Từ việc uốn nắn kịp thời đúng độ tuổi, trẻ sẽ có một thói quen tốt.
2.3.3. Giải pháp 3: Lồng nghép hoạt động lễ giáo qua hoạt động học .
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non không có giờ đạo đức riêng, mà thông
qua sử dụng hình thức tích hợp, lồng ghép với nội dung bài dạy của các lĩnh vực để
dạy và hướng trẻ tới cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo. Đó là, trẻ được tham gia vào
nhiều hoạt động như: Hát- múa, đọc thơ, kể chuyện, làm quen môi trường xung
quanh, toán, chữ cái… Chính vì vậy, lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo vào các hoạt
động có nhiều ưu thế nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi lễ phép, có
văn hoá….

11


“Hình ảnh khi cô đang hoạt động chủ đích, cô đưa ra câu hỏi, lúc này trẻ muốn
nói lên ý kiến của mình trẻ sẽ làm gi?”
Thông qua hoạt động khám phá khoa học "Cây xanh và môi trường sống"
cô lồng ghép giáo dục lễ giáo cho trẻ. Chẳng hạn: Cô giáo có thể đàm thoại: “Cây
xanh để làm gì? Cây xanh có ích lợi như thế nào? muốn có nhiều cây xanh chúng ta
phải làm gì ?”Khi trả lời trẻ phải trả lời trọn câu: dạ có, dạ không, dạ thưa cô… không
trả lời trống không. Qua đó, cô đã giáo dục trẻ cách nói năng lễ phép. Đồng thời, qua

lợi ích của cây xanh cô giáo dục cháu yêu thiên, không ngắt hoa, Bẻ cành, mà phải
biết bảo vệ chăm sóc cây xanh để cây cho ta nhiều lợi ích.
Đối với hoạt động phát triển thể chất cô giáo dục trẻ siêng năng tập thể dục đều
đặn, thường xuyên giúp cơ thể khoẻ mạnh, rèn luyện tính kiên nhẫn, trong lúc tập
giáo dục trẻ không chen lấn, xô đẩy nhau… qua đó giáo dục trẻ có thói quen tốt,biết
nhường nhịn,biết chờ đợi. Trong cuộc sống hằng ngày giáo dục trẻ ăn, ngủ đúng
giờ…để hình thành thói quen tốt cho trẻ.
Bên cạnh, đó thì việc giáo dục trẻ tình yêu thương, kính trọng đối với ông bà,
cha mẹ, anh chị, biết nhường nhịn em bé… qua hoạt động tạo hình "Vẽ người thân
trong gia đình". Cô có thể đàm thoại cùng trẻ:
12


Gia đình cháu gồm có những ai?
Gia đình cháu thuộc gia đình đông con hay gia đình ít con?
Mọi người sống trong gia đình phải như thế nào với nhau?
Qua đó, giáo dục trẻ tình yêu thương, biết kính trên nhường dưới…
Hoặc thông qua hoạt động làm quen văn học qua câu chuyện "Tấm Cám".
Cô giáo dục trẻ lòng thật thà, chăm lo lao động, dạy cháu yêu cái thiện, ghét cái
ác, hình thành cho trẻ lòng nhân ái đối với mọi người xung quanh.
Đối với hoạt động làm quen chữ cái cô nhắc nhở trẻ ngồi ngay ngắn, khi học
xong cất đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp, biết giữ gìn bảo quản đồ dùng… đây là việc
làm rất nhỏ nhưng nó là cơ sở, là nền tảng ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách của trẻ
sau này.
Thông qua việc giáo dục lễ giáo cho trẻ qua các môn học trẻ cũng được học rất
nhiều điều hay, tuy đây chỉ là những việc làm rất đơn giản nhưng nó cũng đã góp một
phần nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ sau này.
2.3.4. Giải pháp 4: Giáo dục lễ giáo thông qua hoạt động vui chơi:
Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học theo phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học”.
Trong giờ vui chơi trẻ được thực hành, trải nghiệm nhiều vai chơi khác nhau trong

cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng giáo dục lễ giáo vào hoạt động vui chơi,
qua hoạt động này trẻ được giao tiếp, đối thoại những câu chào hỏi lễ phép, biết cảm
ơn, xin lỗi,trao nhận bằng hai tay…. Đây là hoạt động mà trẻ được hoạt động tích cực
và thể hiện rõ nhất tính cách của từng trẻ. Chính vì thế, tôi theo dõi quan sát lắng nghe
để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua đó, giúp trẻ hình thành
thói quen hành vi văn minh trong giao tiếp.
Khi tổ chức cho trẻ tham gia vào hoạt động vui chơi cụ thể là trẻ đóng vai y tá bác sĩ; chơi mẹ - con…Cô theo dõi trẻ chơi và hướng dẫn trẻ chơi, hướng dẫn trẻ cách
giao tiếp để qua đó giáo dục trẻ biết chào hỏi, xưng hô, ứng xử phù hợp với mọi
người xung quanh…Chẳng hạn, trẻ chơi góc Bác sĩ thì trẻ biết được công việc của bác
sĩ khám bệnh cho mọi người và cách nói năng, xưng hô với bệnh nhân như thế nào,
ân cần ra sao.Ví dụ:
Cô thấy đau ở đâu ạ!
Cô đau lâu chưa ạ!
Cô cứ yên tâm tôi sẽ khám và chữa cho cô khỏi bệnh.
Còn y tá phát thuốc thì dặn dò bệnh nhân uống thuốc ngày mấy lần, bệnh nhân
nhận thuốc, nhận đơn thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn đối với cô y tá, bác sĩ.
Đây là thuốc của cô.
Thuốc này uống trong hai ngày.
Mỗi ngày uống hai lần, uống sáng và chiều sau bữa ăn.
Mỗi lần uống hai viên.
13


Còn vai bệnh nhận khi đến phòng khám phải biết chào bác sỹ, phải biết nói
bệnh tình của mình, khi nhận thuốc phải biết nói lời cảm ơn.
Tôi chào bác sỹ!
Tôi thấy đau đầu ạ !
Khi nhận thuốc bệnh nhân phải nói: Tôi cảm ơn bác sỹ, bác sỹ cho tôi xin.
Bệnh nhân phải nhận thuốc bằng hai tay và chào bác sỹ: Tôi chào bác sỹ tôi về. Điều
quan trọng là việc xây dụng môi trường như thật để trẻ được trải nghiệm như một

phòng khám thật, một bệnh viện thực sự bên ngoài của người lớn đang diễn ra.
Nhìn chung, thông qua các hoạt động chơi ở các góc tôi thấy giúp trẻ ngày một
mạnh dạn hơn, đặc biệt với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số các cháu có quy tắc hơn
trong nề nếp, biết chào hỏi, biết xin, biết cảm ơn và đặc biệt biết biểu đạt tình cảm của
mình mạnh dạn hơn với cô và mọi người. Sự nhút nhát và dụt dè đã mờ dần ở trẻ, trẻ
đã cảm nhận được lễ giáo của văn hoá tốt đẹp qua hoạt động hàng ngày mà trẻ được
trải nghiệm. Trẻ đã vui tươi hơn trên khuôn mặt khờ khạo ngây ngô ban đầu của trẻ.
2.3.5. Giải pháp 5: Giáo dục lễ giáo qua việc giáo viên tuyên truyền với phụ
huynh
Trong trường mầm non góc lễ giáo của lớp không thể thiếu, đây là biện pháp rất
hữu hiệu đối với chuyên đề lễ giáo bởi lẽ trẻ có đặc điểm dễ nhớ nhưng lại mau quên.
Song, trẻ được trực quan bằng hình ảnh những tấm gương tốt hoặc qua thơ, chuyện thì
trẻ dễ tiếp thu, dễ phân biệt việc làm nào tốt, việc làm nào xấu.
Để có một kết quả tốt về giáo dục lễ giáo cho trẻ, đầu năm học tôi đã lên kế
hoạch giáo dục lễ giáo cho trẻ. Từng tháng tôi lên kế hoạch có yêu cầu nội dung cao
hơn, góc lễ giáo thường để ngoài cửa sổ để phụ huynh dễ nhìn, biết được kế hoạch
chăm sóc của nhà trường để có hướng nhắc nhở con cái thực hiện.
Ví dụ: Ở góc này tôi sưu tầm những tranh ảnh có nội dung giáo dục lễ giáo dán
vào cho trẻ xem, kèm theo một bài thơ hay nội dung phù hợp với hình ảnh, thời gian
rảnh tôi cho trẻ đến xem và trò chuyện, đàm thoại với trẻ những hành vi văn minh.
Hàng tháng tôi lên kế hoạch chủ đề lễ giáo và thay tranh ảnh bài thơ có nội
dung phù hợp với chủ đề.
Ngoài ra, tôi còn sưu tầm tranh truyện, sách báo nhi đồng có hình ảnh và nội
dung về lễ giáo làm một album có nội dung và hình ảnh phù hợp với trẻ, đến giờ hoạt
động góc trẻ về góc học tập có thể mở ra xem.
Đối với góc tuyên truyền tôi cũng dành một góc để tuyên truyền giáo dục lễ
giáo cho phụ huynh nắm, phụ huynh sẽ chú trọng đến việc giáo dục lễ giáo cho trẻ lúc
ở nhà. Từ đó, việc áp dụng với biện pháp này trẻ lớp tôi phụ trách trở nên ngoan hơn
và thực hiện một cách tự tin mạnh dạn hơn. Mặt khác, đa số phụ huynh lớp tôi nhận
thức còn hạn chế nên họ còn xem nhẹ đến việc học và chơi của con em mình, qua các

cuộc họp phụ huynh hoặc những buổi trò chuyện đầu giờ tôi luôn phổ biến và tuyên
truyền cách nuôi dạy con theo khoa học và cách giáo dục lễ giáo đối với trẻ lúc ở nhà.
Phụ huynh giành thời gian chăm sóc con cái như vệ sinh thân thể, chải răng đúng
cách, phụ huynh phải luôn mẫu mực trong giao tiếp ở nhà để trẻ noi theo. Đồng thời,
14


chú ý sửa sai trẻ kịp thời những thiếu sót trong giao tiếp đối với bạn bè, đối với người
lớn.
Ví dụ:
+ Tuyên truyền cho phụ huynh biết trẻ học rất nhanh thông qua người lớn. Vì
vậy, cha mẹ phải luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Cha mẹ phải luôn giao tiếp
với nhau và với trẻ một cách lịch sự, đúng mực, sử dụng câu “xin lỗi” “cảm ơn” đúng
lúc.
+ Khích lệ trẻ làm những công việc phù hợp, động viên khen ngợi trẻ khi trẻ làm
tốt một việc gì đó, uốn nắn trẻ kịp thời khi trẻ làm một việc gì đó chưa đúng và giải
thích cho trẻ hiểu.
+ Trong lúc ăn cơm ở nhà, phụ huynh cần tập cho trẻ thói quen mời người lớn
trước khi ăn. Khi ăn phải xúc cẩn thận không làm rơi vãi, không nhai nhồm nhoàm
trong miệng…Tôi luôn trao đổi với phụ huynh hằng tháng thông qua sổ liên lạc điện
tử về sự tiến bộ của mỗi cháu để phụ huynh kịp thời nắm bắt tình hình. Qua một thời
gian trẻ lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt như xưng hô lễ phép, lịch sự trong giao tiếp nhờ
sự giáo dục bằng phương châm "Trường học là nhà, nhà là trường học". Đặc biệt tôi
và phụ huynh luôn trao đổi với nhau về những khó khăn khi giáo dục lễ giáo cho trẻ.
Chẳng hạn những vấn đề mà tôi chưa thể thực hiện triệt để ở lớp thì tôi thường trao
đổi với phụ huynh về nhà tiếp tục thực hiện. VD: Một số trẻ nói trống không, tôi
thường trao đổi với phụ huynh về nhà chú ý sửa sai cho trẻ khi giao tiếp. Hoặc nhiều
vấn đề mà phụ huynh chưa giải quyết được thì cũng đến trao đổi vởi tôi . VD: Phụ
huynh chau A trao đổi “ Cô ơi! Cháu A đi học hôm nào qua quán bán đồ chơi cũng đòi
nua, tôi không mua là cháu khóc ăn vạ”. Qua đó tôi nắm được tình hình và tìm cách

giải quyết. Đối với trường hợp này tôi thường giải quyết bằng cách: Tôi chọn thời
điểm là giờ đón trẻ hoặc giờ chơi, tôi sẽ gọi cá nhân trẻ đến âu yếm và nhẹ nhàng hỏi
“ Cô Phượng xem camera thấy con đi học qua quán bán đồ chơi hay khóc và đòi bố
mẹ mua đồ chơi phải không?”. Và sau khi trẻ nhận tội tôi sẽ tiếp tục khuyên trẻ “ Từ
hôm sau con không được làm thế nữa vì làm thế các em nhỏ, các anh chị và mọi
người xung quanh nhìn thấy thì sấu hổ lắm. Nếu con thích thì con có thể nói nhỏ với
bố mẹ “ bố, mẹ ơi con thích đồ chơi này lắm”, nói thế nếu bố mẹ có tiền thì bố mẹ sẽ
mua cho con, còn nếu bố mẹ không có tiền mua thì con cũng phải biết chấp nhận và
không được khóc lóc mà sấu hổ nhé”. Sau khi nhắc nhở cá nhân trẻ, mỗi buổi chiều
tôi lại nhắc nhở chung chung cả lớp nội dung trên. Giải quyết theo cách này rất hiệu
quả, và kết quả là sau tết nguyên đán vừa qua có rất nhiều phụ huynh lớp tôi đến chia
sẻ rằng “ Nhờ có cô nhắc nhở như thế mà năm nay cháu đi chợ tết thấy rất nhiều đồ
như bóng bay, đồ chơi… nhưng không hề khóc và đòi mua như mọi năm”.
2.3.6. Giải pháp 6: Giáo dục lễ giáo thông qua việc nêu gương đánh giá,
khích lệ tích cực của trẻ.
Thông qua việc nêu ngương khi sử dụng hình thức khen chê bổ xung, sửa chữa
đúng lúc kịp thời, đúng nơi đúng chỗ nhằm mục đích biểu dương trẻ là chính.
15


VD: Khi biểu dương bé ngoan tôi biểu dương và khuyến khích trẻ trước lớp cho
các bạn học tập, noi theo và khen ngợi trẻ bằng cách cho trẻ cắm cờ lên bảng bé
ngoan. Trẻ sẽ rất vui và cảm thấy mình tự tin trước những bạn khác.

Hình ảnh bé được cắm cờ
Bên cạnh đó, tôi cũng có biểu hiện thái độ đồng tình hay không đồng tình về
những hành vi việc làn của trẻ từ đó đưa ra nhận xét của tôi với trẻ.
VD: Hình thức nêu ngương thông qua nêu ngương cuối tuần, bình bầu và phát phiếu
bé ngoan cho từng trẻ trong lớp. Tôi đã nêu ngương những bạn tốt, những bạn ngoan
đồng thời khích lệ trẻ tiếp tục phát huy hơn nữa những mặt tốt. Từ đó tôi khích lệ

được trẻ của mình ngày một tích cực hơn qua việc nêu ngương. Dưới đây là hình ảnh
minh hoạ về hình thức nêu gương khích lệ trẻ bằng hình thức phát phiếu bé ngoan.

16


Bé nhận bé ngoan cuối tuần
Từ việc phát phiếu bé ngoan tôi nhận xét từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể để
giúp trẻ nhận ra cái đã làm được, trẻ biết được cái mình làm là tốt hay chưa tốt và biết
noi ngương bạn tốt, rút ra kinh nghiệm cho bản than. Đồng thời trẻ cũng được nghe sự
tác động trực tiếp là một lời động viên khích lệ tác động cổ vũ mạnh mẽ cho trẻ tự tin
hơn.
2.4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm đối với Hội đồng giáo dục, với
bản thân, đồng giáo dục và nhà trường.
Qua một thời gian kiểm nghiệm và triển khai “ Một số biện pháp giáo dục lễ
giáo cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi vùng dân tộc thiểu số” bằng tất cả các nội dung
phương pháp đã triển khai trên trẻ và kết quả đã thu được như sau:
Kết quả khảo sát
Đạt
Chưa đạt
17


Số

Tỷ

Số

Tỷ lệ


Nội dung khảo sát

cháu lệ% cháu
%
Trẻ biết chào hỏi xưng hô lễ phép
25
25
100
0
0
SCKS
Biết cảm ơn xin lỗi nhận đồ vật bằng hai tay
25
25
100
0
0
Ho,ngáp,hắt hơi,biết lấy tay che miệng
25
25
100
0
0
Mạnh dạn giới thiệu tên tuổi
25
25
100
0
0

Trẻ biết tự xúc để ăn
25
25
100
0
0
Thói quen chờ đợi đến lượt
25
25
100
0
0
Thực hiện các yêu cầu của cô và người lớn 25
25
100
0
0
Phân biệt được các hành vi tốt ,xấu
25
23
100
0
0
Từ kết quả trên cho chúng ta thấy được sự tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp và
trong các hoạt động của trẻ vùng dân tộc thiểu số đã tăng lên đáng kể.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Qua quá trình triển khai và áp dụng những phương pháp trên tôi nhận thấy
những công dân mới và những chủ nhân tương lai của đất nước chỉ có thể hình thành
nhân cách văn hoa khi ngay từ tuổi mẫu giáo chúng ta biết phát huy thế mạnh của trẻ
để bổ xung ngay những lỗ hổng đúng lúc kịp thời sẽ phát huy bản năng chỗi dậy trong

con người trẻ.
3.1. Kết luận:
Qua những biện pháp đã nghiên cứu tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm
đó là:
Bản thân giáo viên phải biết tiếng dân tộc thiểu số để hiểu được nội dung trẻ nói
và ý nghĩa nội dung trẻ muốn diễn đạt trong mọi hoạt động, hiểu được phong tục tập
quán của vùng dân tộc thiểu số.
Bản thân tôi là một giáo viên từ vùng khác đến công tác nên tôi cần học hỏi và
luôn tìm tòi sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh, thơ ca, hò vè để góc lễ giáo ngày càng phong
phú hơn, thay đổi theo chủ đề để tạo sự mới lạ hấp dẫn phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Các tiết học có lồng ghép Chuyên đề “ tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc
thiểu số’’ các nội dung giáo dục lễ giáo dưới hình thức khác nhau để giáo dục trẻ, tạo
hứng thú cho trẻ phù hợp với điều kiện của lớp.
Phải thường xuyên thực hiện giờ nêu gương và kể chuyện hàng tuần hoặc tổ
chức văn nghệ để động viên tinh thần của trẻ.
Cô giáo phải chuẩn bị nhiều nội dung, hình ảnh về lễ giáo để trẻ tri giác trực
quan hằng ngày.
Góc âm nhạc có những bài hát về lễ giáo phù hợp.
Các góc tuyên truyền của lớp có nhiều bài viết và hình ảnh cho phụ huynh tham
khảo.
Gia đình của trẻ thật sự là mái ấm đầy tình thương, bố mẹ là những tấm gương
18


sáng và mẫu mực về hành vi ứng xử, chăm sóc, tinh thần trách nhiệm đối với trẻ.
3.2.Kiến nghị:
Để thực hiện tốt giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số hiện nay thông qua
việc thực hiện các biện pháp ở trên đã phần nào đẩy lùi những quan niệm tập tục của
người dân tộc thiểu số, hình thành cho trẻ thói quen hành vi văn minh đúng chuẩn
mực văn hoá lễ giáo. Để phát huy hơn nữa mặt tích cực và khắc phục những tồn tại

hạn chế góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu
số tôi có một số kiến nghị sau:
Đối với giáo viên cần tìm tòi những đặc điểm riêng của từng trẻ để có những
biện pháp giáo dục lễ giáo phù hợp, lấy những câu truyện những tấm gương gần gũi
giúp trẻ cảm nhận và tiếp thu trọn vẹn hơn.
Đối với nhà trường cần tổ chức cho trẻ được tham quan, tham gia nhiều hoạt
động tập thể để giúp trẻ mạnh dạn hơn, trẻ có cơ hội bộc lộ phẩm chất của mình từ đó
giáo viên nắm bắt được và có biện pháp giáo dục hợp lý.
Ban giám hiệu cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan trao đổi học hỏi kinh
nghiệm của đơn vị trong và ngoài huyện.
Mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số phù hợp
với đặc thù địa phương.
Trên đây là một số kinh nghiệm rút ra trong quá trình công tác của bản thân, để
có kinh nghiệm và phương pháp hiệu quả hơn tôi rất mong được sự góp ý của đồng
nghiệp và hội đồng khoa học để tôi có nhiều giải pháp hiệu quả và sáng tạo hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Lũng Niêm , ngày 3 tháng 4 năm
2019

................................................................
................................................................ Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
................................................................ mình viết, không sao chép nội dung của
................................................................ người khác
Người viết

Hà Thị Như
Nguyễn Thị Phượng


19



×