Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một vài kinh nghiệm trong giáo dục lất trẻ làm trung tâm cho trẻ 4 5 tuổi khu na tao, trường mầm non pù nhi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.53 MB, 15 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU...............................................................................................................
1
1.1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….........1
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………..…….2
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………….2
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM…………………………………….3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm………………………………...........3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm……………..3
2.3. Các giải pháp thực hiện………………………………………………………..5
2.3.1. Xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm……………………………………5
2.3.2. Xây dựng mục tiêu giáo dục…………………………………………………5
2.3.3. Xây dựng nội dung giáo dục…………………………………………………6
2.3.4. Tổ chức hoạt động lấy trẻ làm trung tâm…………………………………….8
2.3.5. Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm………………………14
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ………………………………………...18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………………….......19
3.1. Kết luận………………………………………………………………….........19
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………………...20
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….......21

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết trên thế gian này có bao nhiêu con người thì có bấy
nhiêu cá tính. Điều này không chỉ đúng với người lớn mà còn đúng với cả trẻ
em ngay khi trẻ còn rất bé. Mỗi em bé là một con người riêng biệt. Tâm lý học
cũng như những khóa học khác về con người đã nghiên cứu để rút ra những quy


luật chung của sự phát triển qua từng độ tuổi của đời người. Hiểu biết về những
quy luật chung đó là để giúp việc đào tạo nhân cách cho trẻ, làm cho trẻ phát
triển đúng thì đúng lứa để trở thành một thành viên nói chung của xã hội, biết
nhận thức thế giới và biết ứng xử với mọi người nhờ tiếp thu những kinh
nghiệm mà nhân loại đã tích lũy được. Tuy nhiên, đằng sau tất cả những quy
luật phát triển chung đó thì mỗi con người lại là duy nhất trong những hoàn
cảnh cụ thể của nó. Mỗi em bé sẽ trở thành người theo một con đường riêng, và
sống một cuộc đời riêng của mình với những đặc điểm mà chỉ riêng mình mới
có.
Vì vậy trong việc nhìn nhận “những bước phát triển của trẻ em, cũng
không nên quá lạc quan khi trẻ sớm đạt một thành công nào đó, hoặc quá bi
quan sốt ruột khi trẻ chậm làm được điều đó”.
Giáo dục theo lối áp đặt không mang lại hiệu quả gì tốt đẹp ngược lại
cách làm đó chỉ có thể làm thui chột đi cá tính của trẻ, biến trẻ thành những con
người “ngoan ngoãn” bề ngoài, dẫn tới lối sống thụ động, dựa dẫm vào số
đông, chẳng bao giờ dám nói ra ý kiến riêng dù là sáng kiến rất hay. Việc thay
đổi phương pháp dạy học là cần thiết và quan trọng để đáp ứng được mục tiêu
giáo dục hiện nay. Phương pháp dạy - học lấy trẻ em làm trung tâm là phương
pháp học tập tích cực, khác với phương pháp dạy học truyền thống. Giáo viên
được tập huấn cách thiết kế và giảng dạy theo phương pháp dạy - học tích cực,
lấy học sinh làm trung tâm, áp dụng các kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng
đặt câu hỏi, phương pháp đóng vai, tự làm đồ dùng đồ chơi bằng nguyên vật
liệu sẵn có, sử dụng trò chơi học tập… Bản thân là một giáo viên tôi hiểu rất rõ
về trách nhiệm của mình, tôi luôn muốn học sinh của tôi được trải nghiệm, tư
duy, được tìm tòi những gì mà trẻ còn chưa biết trong cuộc sống một cách thoải
mái, không gò bó. Vậy làm thế nào để có thể thực hiện điều đó? Tôi đã suy nghĩ
và trăn trở rất nhiều. Tôi phải làm thế nào để học sinh của tôi cảm thấy thoải mái
trong các hoạt động mà vẫn đạt được kết quả như mục tiêu đề ra. Và tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Một vài kinh nghiệm trong giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm cho trẻ 4-5 tuổi khu Na Tao trường Mầm non Pù Nhi huyện Mường Lát

tỉnh Thanh Hóa” để làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.

2


Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học cho trẻ mầm non,
đặc biệt là lứa tuổi 4-5 tuổi. Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, nêu lên
những ý kiến đề xuất góp phần khắc phục thực trạng giáo dục trẻ ở trường mầm
non hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giúp trẻ phát triển một cách toàn
diện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Những kinh nghiệm trên đây được tôi nghiên cứu và áp dụng thực tế tại
lớp 4-5 tuổi khu Na Tao Trường mầm non Pù Nhi.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận;
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn;
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin;
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt, thống nhất trong mọi hoạt động giáo dục trẻ trong trường Mầm non, có
hiệu quả, có chất lượng.
Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được thể hiện trong tất các các
yếu tố của quá trình giáo dục. Từ việc xác định mục tiêu, nội dung, phương
pháp giáo dục cho đến những hoạt động cụ thể của giáo viên như lập kế hoạch,
xây dựng môi trường giáo dục…Mọi hoạt động đều hướng tới từng trẻ cũng như
từng nhóm trẻ nhỏ và nhóm trẻ lớn để tạo cơ hội cho trẻ được học tập trong điều
kiện cụ thể nhằm hỗ trợ trẻ phát triển ở tất cả các lĩnh vực.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Thuận lợi :
Được sự quan tâm chỉ đạo của Phòng giáo dục và chính quyền địa phương,
của Ban Giám Hiệu nhà trường.
b. Khó khăn:
* Về phía trẻ:
- Đa số trẻ là người dân tộc thiểu số vì vậy môi trường giao tiếp của trẻ mẫu
giáo dân tộc thiểu số thu hẹp trong phạm vi trường lớp Mầm non. Trẻ ít được tiếp
xúc rộng rãi nên thường nhút nhát, thiếu tự tin khi đứng trước người lạ và chỗ đông
người.
* Về phía bản thân:
- Bản thân tôi còn lúng túng trong lựa chọn các biện pháp tổ chức các hoạt
động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

3


- Chưa thật sự sáng tạo trong sử dụng các nguyên liệu, phế liệu thiên nhiên
để giúp trẻ thực hành trải nghiệm.
* Về cơ sở vật chất:
Pù Nhi là một xã nghèo ở biên giới thuộc huyện Mường Lát, tỉnh Thanh
Hóa, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo trường đã được xây dựng khu nhà
kiên cố, khang trang, sân chơi rộng rãi. Nhưng cở sở vật chất của nhà trường
còn thiếu và đồ dùng đồ chơi cho các cháu hoạt động còn hạn chế.
c. Kết quả khảo sát đầu năm học:
* Bảng 1: Khả năng giao tiếp của trẻ:
Tổng số trẻ là: 24 trẻ
Mức độ thực hiện
Rất tự tin
Tự tin

Không tự tin
Số trẻ

2

8

14

Tỷ lệ %

8,3

33,3

58,4

Bảng 2: Mức độ tích cực của trẻ trong các hoạt động :
Tổng số trẻ là: 24 trẻ
Mức độ
Mức độ
Mức độ
Mức độ
thực hiện
tốt
khá
Trung bình

Mức độ yếu


Số trẻ

4

6

10

4

Tỷ lệ %

16,7

25

41,6

16,7

Từ thực tế khảo sát tôi thấy cần phải thay đổi cách nghĩ, cách nhìn nhận
về phương pháp dạy học “lấy trẻ làm trung tâm”. Làm thế nào để trẻ lớp tôi
luôn mạnh dạn tự tin nói lên những điều mình nghĩ, mình biết và giúp trẻ tích
cực hơn khi tham gia các hoạt động. Từ những suy nghĩ đó tôi mạnh dạn nghiên
cứu và áp dụng phương pháp dạy học “lấy trẻ làm trung tâm” vào công tác
chăm sóc giáo dục trẻ tại lớp Mẫu giáo 4-5 tuổi khu Na Tao trường Mầm non Pù
Nhi.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
2.3.1. Xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm.
Kế hoạch phải dựa trên quan sát của giáo viên và kiến thức của trẻ - phải

dựa trên sở thích của trẻ, kiến thức, khả năng, đặc điểm cá nhân và nhu cầu của
trẻ.
2.3.2. Xây dựng mục tiêu giáo dục.
4


Trước hết giáo dục hướng trẻ chuẩn bị sớm thích nghi với sự thay đổi của
môi trường, nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống. Tôn trọng nhu cầu và lợi ích,
tiềm năng của trẻ. Lợi ích và nhu cầu cơ bản nhất của trẻ là sự phát triển toàn
diện nhân cách cho mình, hình thành và phát triển bản thân. Tôi dựa trên nhu
cầu và nhận thức của trẻ lớp tôi để đưa ra mục tiêu phù hợp với khả năng của
trẻ. Trẻ của lớp tôi ở vùng sâu vùng xa nên hạn chế về mọi mặt. Tôi không thể
áp đặt các con phải đạt được những yêu cầu như trẻ thành phố hay thị trấn mà
đưa ra những mục tiêu quá với nhận thức của trẻ.
+ Tôi căn cứ vào đặc điểm của trẻ như: Khả năng, nhu cầu học tập, sở
thích của trẻ mà tôi đã quan sát được trong thời gian hai tuần đầu trẻ đến trường
để xác định mục tiêu cho phù hợp.
+ Tôi căn cứ vào nội dung giáo dục theo từng độ tuổi (trong chương trình
giáo dục mầm non) để xác định mục tiêu.
2.3.3. Xây dựng nội dung giáo dục.
Chương trình giáo dục không chỉ học để hiểu sự vật hiện tượng trong thế
giới xung quanh mà còn học để tự làm những việc gần gũi và phù hợp với trẻ. Ở
đây trẻ học cách làm như thế nào? (học cách tìm hiểu và khám phá, phát hiện ra
sự thay đổi của sự vật hiện tượng; học cách biểu đạt những suy nghĩ, hiểu biết
và cảm nhận của mình; học cách làm đồ dùng đồ chơi.
+ Tôi căn cứ vào nhu cầu học tập của trẻ, những điều kiện sẵn có ở địa
phương để lựa chọn nội dung cho phù hợp.
Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật - Tết và mùa xuân”, tôi chọn
những nội dung đơn giản gần gũi với trẻ như: “Vườn cây của bé” (phát triển
nhận thức cho trẻ thông qua hoạt động khám phá nhằm giáo dục trẻ biết vườn

cây mình trồng cây gì? trồng loại rau gì, nuôi con gì… và những sản phẩm chất
liệu này làm từ gì? Và nó gắn bó với người nông dân như thế nào? Từ đó trẻ biết
yêu lao động sản xuất, yêu sản phẩm của quê hương).

5


Ví dụ: Hoạt động làm quen với toán đề tài “so sánh chiều dài của 2 đối
tượng”.
- Mục đích yêu cầu: Trẻ nhận ra sự khác biệt về chiều dài của 2-3 đối
tượng. Tôi tổ chức cho trẻ tham gia “Hội chợ xuân Vùng cao” mà tôi chuẩn bị.
Tôi yêu cầu trẻ vào mua về những sản phẩm như: Bánh trưng, bánh dày, đỗ xào,
cà rốt, đậu đũa… được lấy từ vườn của bé về để bán ở “Hội chợ xuân vùng
cao” và tiến hành cho trẻ về nhóm thảo luận, mỗi nhóm là một loại bánh, rau
quả. Các con có thể tìm hiểu được những gì từ các loại bánh, quả này? Kích
thước của những loại bánh, quả này như thế nào? Cho trẻ đưa ra nhận xét về các
loại bánh, rau quả mà mình so sánh). Dù trẻ nói đúng hay chưa đúng tôi vẫn
khuyến khích trẻ nói và bằng những lời động viên của tôi giúp trẻ tự tin vào câu
trả lời của mình. Trẻ lớp tôi rất thích thú tham gia hoạt động và tích cực trao đổi
ý kiến, tiết học nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả đáng kể. Tôi cũng cảm thấy vui khi
trẻ của tôi ngày càng tiến bộ.
2.3.4. Tổ chức hoạt động lấy trẻ làm trung tâm.
Tôi tổ chức hoạt động luôn đặt trẻ vào trung tâm của quá trình giáo dục,
có nghĩa là tạo mọi cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động:
* Hoạt động trải nghiệm: Trẻ được học qua thực tế qua việc làm, qua
khám phá tìm tòi.
Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động cho trẻ tìm hiểu về “các loại quả gần gũi”.
Không thể thiếu trong ngày tết của “hội chợ xuân vùng cao”.

+ Mục đích yêu cầu: Trẻ biết tên gọi, đặc điểm, màu sắc, vị của một số

loại quả gần gũi.
+ Tiến hành:
* Gây hứng thú:
Cô cho trẻ quan sát mâm ngũ quả trong ngày tết (gồm quả chuối, cam,
bưởi, dứa…) và hỏi trẻ: Quả của cô như thế nào?
- Theo các con trên đĩa có những quả gì? Tại sao con biết?
6


* Quan sát và đàm thoại:
Để biết được điều đó, cô và các con cùng chú ý xem nhé!
+ Ai muốn ăn thử nào? (Cho mỗi trẻ một quả bất kỳ. Trẻ được cầm quả để
quan sát sau đó cho trẻ ăn và ngửi)
+ Con vừa được ăn muối quả gì? Hãy nói về muối quả mà mình được ăn
(trẻ tự nêu lên cảm nhận và phỏng đoán của mình )
+ Tại sao con biết muối quả con ăn là muối bưởi?
+ Tại sao con biết là miếng dứa?
+ Tại sao con biết miếng vừa ăn là miếng xoài?
Sau đó hỏi trẻ đặc điểm từng quả.
+ Theo con quả bưởi như thế nào?
+ Thế còn quả xoài thì sao?...
* Củng cố:
- Tôi đặt câu hỏi trẻ mang tính suy ngẫm và củng cố nội dung đã học.
+ Hôm nay chúng ta tìm hiểu những quả gì được trưng bày trong ngày tết
ở vùng cao?
+ Quả đó như thế nào?
+ Khi ăn quả, chúng ta phải làm gì với các quả đó?
Cô và các con cùng điền vào bảng này nhé! (Cho trẻ thực hiện bảng hệ
thống hóa các đặc điểm về quả).
+ Tôi đọc câu đố về một số loại quả để trẻ suy nghĩ và đoán biết xem đó

là quả gì?
Thông qua hoạt động giải câu đố trẻ được tư duy, tưởng tượng và phán
đoán. Nếu trẻ trả lời chưa đúng thì sẽ được nghe câu trả lời của bạn và điều đó
sẽ khắc sâu hơn cho trẻ kiến thức cần lĩnh hội.
* Kết thúc:
+ Hôm nay các con học được điều gì?
+ Chúng mình làm được những gì?
+ Ai thích điều gì nhất?
- Tôi đã gây hứng thú trực tiếp cho trẻ bằng trải nghiệm (quan sát, ngửi,
nếm).
- Trẻ được khuyến khích và chủ động nói ra những điều mình cảm nhận
được để nói lên nhận xét cá nhân.
- Tôi khuyến khích trẻ nói ra càng nhiều càng tốt, có thể đầy đủ hay chưa
đầy đủ; đúng hay chưa đúng không quan trọng mà chỉ cần trẻ dám nói và được
nói ra. Nhờ đó mà trẻ của tôi rất tự tin nói ra những điều mình suy nghĩ.
- Qua hoạt động này tôi muốn trẻ được tự điều chỉnh hiểu biết của mình
qua câu trả lời của bạn và qua việc trực tiếp được nhìn quả.
- Trẻ được tự suy ngẫm và đánh giá hiểu biết kỹ năng của mình.

7


- Thông qua trò chơi trẻ được củng cố lại hệ thống kiến thức mà trẻ đã
học nhằm khắc sâu cho trẻ kiến thức cần cung cấp mà không bị nhàm chán và
lặp lại.
Ví dụ: Trong chủ đề “nước và hiện tượng tự nhiên”, tôi cho trẻ được
làm thí nghiệm “Vật chìm vật nổi”, tôi phát cho trẻ các viên sỏi, miếng xốp,
thìa inox. Cho trẻ đoán xem khi thả các vật xuống nước vật nào sẽ nổi, vật nào
sẽ chìm? Và cô cho trẻ thảo luận xem tại sao lại nổi, vì sao lại chìm? Cho trẻ
làm thí nghiệm “chất nào tan trong nước”, tôi sử dụng đường, muối để cho trẻ

dự đoán xem chất nào tan trong nước.

* Hoạt động giao tiếp: Trẻ được chia sẻ với bạn bè và học từ mọi người.
Ví dụ: Trong chủ đề “giao thông” tôi chọn hoạt động Khám phá khoa
học: “Trò chuyện về những chiếc mũ bảo hiểm xinh xắn”
+ Tôi đặt câu hỏi: Vì sao chúng ta cần đội mũ bảo hiểm? Và khi nào thì
đội mũ bảo hiểm? Tác dụng của mũ bảo hiểm? chất liệu của mũ bảo hiểm? Chỉ
với những câu hỏi như vậy trẻ của tôi đã trả lời hăng hái và sôi nổi không mang
tính gò bó.
* Hoạt động suy nghĩ: Suy nghĩ và vận dụng những điều đã lĩnh hội
được vào việc giải quyết các tình huống.
Ví dụ: Tìm hiểu về nước và môi trường tự nhiên, tôi đưa ra đề tài mở để
trẻ trò chuyện:
“ Điều gì sẽ xảy ra nếu không có nắng? Điều gì xảy ra nếu cây không được uống
nước?...”
Tôi chia nhóm cho trẻ thảo luận sau đó cho trẻ nói lên phán đoán hoặc
suy nghĩ của mình, từ đó trẻ của tôi được thu hút vào việc suy nghĩ tìm nguyên
nhân.
* Hoạt động trao đổi: Diễn đạt chia sẻ suy nghĩ và mong muốn. Khi tổ
chức hoạt động lấy trẻ làm trung tâm tôi chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi
mở giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách nhẹ nhàng không gò bó cứng
nhắc.

8


Ví dụ: Tôi sử dụng những câu hỏi mở để kích thích óc suy nghĩ của trẻ:
Con sẽ làm gì khi con bị ốm? Con sẽ làm gì khi bạn khóc?
- Con nghĩ thế nào?
- Làm sao con biết?

- Tại sao con lại nghĩ như vậy?
- Nếu ..thì sao? Nếu không ….thì sao?
- Theo con điều gì/ cái gì sẽ xảy ra tiếp theo?
Tôi thấy trẻ của tôi đã biết suy nghĩ và trả lời câu hỏi một cách tự tin.
2.3.5. Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
+ Tôi xây dựng môi trường học tập bằng việc sắp xếp thành các góc chơi
để trẻ dễ dàng lựa chọn cũng như lấy đồ dùng thuận tiện. Các đồ dùng đồ chơi
trong các góc được sắp xếp những bài tập có tính mục đích rõ rệt, mà khi cầm
vào đồ dùng trẻ có thể tự tương tác và thực hành kỹ năng.

+ Trái lại với những tiết học ngày xưa tôi chỉ diễn ra trong lớp học thì nay
tôi cho trẻ được thay đổi môi trường như: ngồi dưới gốc cây, góc thiên nhiên,
hay ngoài hiên của trường giúp cho trẻ cảm thấy thoải mái khi được tham gia
vào các hoạt động.
+ Tôi sử dụng những nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên để thực hiện
các nội dung giáo dục:
* Lá cây: Tôi cho trẻ trò chuyện về thiên nhiên, cho trẻ nhặt lá cây từ
những lá cây đó tôi có thể cho trẻ phân biệt theo kích cỡ (to – nhỏ), chiều dài
(dài- ngắn), màu sắc (tối- sáng), hình dạng (tròn- thuôn), kết cấu bề mặt (rápmịn), công dụng của lá (có ích- không có ích).
9


- Xắp xếp mỗi nhóm lá cây theo thứ tự nhất định: từ tối nhất đến sáng
nhất, từ to nhất đến nhỏ nhất, từ dài nhất đến ngắn nhất…
- Gọi tên: Học nhận biết tên lá cây
- Xâu thành vòng.
- Dùng lá để tạo thành những đồ chơi: kết thành quạt, kèn, con vật…
* Cát: Khi được ra ngoài thiên nhiên, được chơi với nguyên vật liệu thiên
nhiên sẽ tạo cho trẻ hứng thú và dễ tiếp thu. Trẻ được thực hành trải nghiệm
như: xúc cát, gạt cát, rót cát.

* Nước:
- Đong nước, rót nước, vục nước.
- Nhận biết nước nóng, nước lạnh, nước mặn, nước ngọt.
* Vỏ ngao, sò, ốc, hến.
- Xếp tranh, hình, chữ, số…
- Sắp xếp theo trật tự nhất định.
Tôi nghĩ những vật liệu tuy đơn giản và rất dễ tìm trong cuộc sống hàng
ngày là những đồ chơi có giá trị giúp trẻ phát triển toàn diện. Chỉ cần giáo viên
chịu đầu tư thời gian tâm huyết thì những vật vô tri vô giác sẽ trở nên có hồn và
thu hút trẻ tham gia khám phá.
Ví dụ: Với phương châm “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm’, lớp học thân thiện và giúp trẻ đến lớp luôn thích thú yêu trường yêu
lớp, yêu thầy cô giáo và bạn bè.
Với câu khẩu hiệu “Niềm tin của mẹ - Niềm vui của bé”

Tôi bố trí các góc hợp lý, tạo không gian để trẻ có thể đi lại trao đổi giữa
các góc, nhóm chơi, để trẻ có thể thể hiện và phối hợp hành động chơi, đồ dùng
có số lượng khác nhau, với chủng loại đa dạng và đẹp mắt.
+ Đồ dùng chưa nhiều tôi đã huy động phụ huynh thu gom phế liệu để cô
và trẻ cùng làm những đồ chơi tự tạo phục vụ cho việc dạy và học để các con
được cùng cô làm đồ dùng đồ chơi trẻ rất vui và cảm thấy tự hào vì mình đã góp
phần nhỏ bé để tạo ra sản phẩm: Cùng cô làm tranh tường (nguyên liệu từ báo
10


cũ), những đồ chơi từ nắp chai (tạo lỗ trên nắp chai và xâu dây thành vòng….)
Chỉ những việc đơn giản như vậy thôi những nó cũng góp phần vào phát triển
toàn diện cho trẻ.
+ Tôi luôn tạo môi trường thân thiện tạo cho trẻ một tâm thế thoải mái, trẻ
cảm thấy được tôn trọng và tự tin khi giao tiếp trong khi trẻ chơi; sự giao tiếp

giữa trẻ với trẻ là sự bình đẳng và thân thiện với nhau. Khi đó tôi đóng vai trò
như những người bạn tâm sự cởi mở gần gũi với trẻ tạo cho trẻ cảm giác thoải
mái tự tin vào bản thân. Tôi thấy trẻ rất cởi mở khi được trò chuyện với cô
giống như một người bạn và nói ra cảm nghĩ của mình một cách vô tư và hồn
nhiên nhất.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Bằng sự tìm tòi nghiên cứu, áp dụng những biện pháp trên. Tôi thấy kết
quả đạt được đáng kể như sau:
- Trẻ tích cực hơn trong các hoạt động một cách hào hứng tự nguyện.
- Phát huy được tính tích cực của trẻ, khả năng tư duy, óc quan sát và đưa
ra ý kiến của bản thân về vấn đề bàn luận.
- Phát huy tính tích cực của trẻ khi trẻ được trải nghiệm với môi trường tự
nhiên cũng như môi trường xã hội.
- Trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với cô và mọi người xung quanh, tự tin vào
bản thân khi trả lời câu hỏi.
* So sánh và đối chiếu:
* Bảng 3: Khả năng giao tiếp của trẻ:
Tổng số trẻ là: 24 trẻ
Mức độ thực hiện
Rất tự tin
Tự tin
Không tự tin
Số trẻ

20

4

0


Tỷ lệ %

83

17

0

11


* Bảng 4: Mức độ tích cực trong các hoạt động của trẻ:
Tổng số trẻ là: 24 trẻ
Mức độ
Mức độ
Mức độ
Mức độ
thực hiện
tốt
khá
Trung bình

Mức độ yếu

Số trẻ

16

6


2

0

Tỷ lệ %

67

25

8

0

Từ những kết quả trên đã cho tôi thấy được áp dụng phương pháp dạy học
lấy trẻ làm trung tâm là cần thiết. Việc áp dụng phương pháp dạy này giúp trẻ
được trải nghiệm, được tham gia vào các hoạt động, được nói ra những phán
đoán, nhận xét của mình về môi trường xung quanh. Trẻ được nói ra những điều
trẻ nghĩ, trẻ thích một cách tự nguyện, được thảo luận theo nhóm. Từ đó giúp trẻ
có những kỹ năng trong cuộc sống, tự tin trước mọi người xung quanh. Từ đó
giúp trẻ phát triển toàn diện.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc vận dụng sáng tạo quan điểm “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” vào
công tác giảng dạy là cần thiết. Đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình
dạy học, xem mỗi cá nhân người học - với những phẩm chất năng lực riêng của
mỗi người vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quá trình đó. Sử dụng phương
pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả
giáo dục, thúc đẩy quá trình học tập của học sinh dẫn tới giải quyết tốt vấn đề

nhân lực đầu ra, đáp ứng được nhu cầu cần thiết của xã hội hiện nay.
3.2. Kiến nghị.
Qua những kết luận trên tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Ban giám hiệu cần có những giờ dạy mẫu để giáo viên có cơ hội học hỏi
thêm nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động lấy trẻ làm trung tâm.
- Các cấp, các ngành trang cấp thêm thiết bị dạy và học, đồ dùng, đồ chơi.
- Trên đây là một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm mà tôi đã nghiên
cứu và thực hiện cho trẻ lớp mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi tại trường Mầm non Pù Nhi.
Tuy là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi nghiên cứu và áp dụng tương đối
có hiệu quả đối với trẻ của lớp tôi, song cũng không tránh khỏi những điều bỡ ngỡ
và tồn tại. Rất mong được sự góp ý bổ sung của đồng nghiêp, hội đồng khoa học
các cấp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn./.

12


Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 04 năm 2018
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
TÔI CAM KẾT KHÔNG COPPY

Trịnh Thị Mai

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu đào tạo giáo viên Mầm non (Dự án tăng cường khả năng sẵn sàng đi
học cho trẻ Mầm non.)

2. Tạp chí giáo dục mầm non số 4- 2013.
3. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Mầm non.
4. Tập san và tạp chí giáo dục mầm non.
5. Tham khảo trên mạng internet những vấn đề về giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm.

14


Mẫu 1 (2)

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Mai
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Mầm non Pù Nhi – Mường Lát

TT

1.

Tên đề tài SKKN

Một số kinh nghiệm giúp trẻ
vùng dân tộc thiểu số làm quen
Tiếng Việt Tại khu Pù Toong –
Trường Mầm non Pù Nhi –
Mường Lát


Cấp đánh giá xếp loại
(Ngành GD cấp huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá xếp
loại

Năm học đánh
giá xếp loại

(A, B, hoặc C)

Hội đồng sáng kiến
kinh nghiệm ngành
giáo dục tỉnh; tỉnh
Thanh Hóa

B

2014 - 2015

----------------------------------------------------

15



×