Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi, trường mầm non ngọc phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC CHO
TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
NGỌC PHỤNG

Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN Ngọc Phụng
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

MỤC LỤC

THANH HOÁ, NĂM 2019


STT
1
Mục lục

CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN

TRANG

2


1. Mở đầu.

1

3

1.1.Lý do chọn đề tài.

1

4

1.2.Mục đích nghiên cứu.

2

5

1.3.Đối tượng nghiên cứu.

2

6

1.4.Phương pháp nghiên cứu.

2

7


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

8

2.1. Cơ sở lý luận.

2

9

2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.

3

10

2.3. Một số biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

5

11

2.4. Hiệu quả sáng kiến

16

12


3. Kết luận, kiến nghị.

18

13

3.1. Kết luận.

18

14

3.2.Kiến nghị.

19

15

Tài liệu tham khảo

20


1.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”
Tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng,
liên quan chặt chẽ tới những thế hệ kế thừa và tiếp nối. Vì vậy, nâng cao trách
nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên và nhi đồng là trách nhiệm của toàn xã
hội. Chúng ta phải coi trọng công tác chăm sóc và giáo dục, tạo mọi điều kiện để

trẻ có thể phát triển tốt nhất. Trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non
thì Bộ giáo dục luôn đưa ra những đổi mới về chương trình để có thể phù hợp
với thực tiễn. Đối với trẻ mầm non việc cho trẻ “Khám phá khoa học” là tạo
điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng
nhân ái, tình cảm yêu thương mọi sự vật và hiện tượng của cuộc sống xung
quanh trẻ. Không những thế, trẻ còn biết yêu quý và bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ
những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao
động tự làm ra.
Vì vậy, ở trẻ trường mầm non chính là cái nôi nuôi dưỡng đầu tiên tạo
điều kiện đặt nền khơi gợi phát triển những khả năng đang còn tiềm ẩn trong
lòng trẻ. Nên việc giáo dục trẻ ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc sống
là rất cần thiết.
Trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ ngây, hồn nhiên như tờ
giấy trắng. Mọi hoạt động học tập và vui chơi trong quá trình chăm sóc giáo dục
trẻ ở trường mầm non đều đem lại cho trẻ những điều kỳ lạ, thần tiên.
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, trẻ thấy mọi thứ xung
quanh trẻ thật mới lạ. Hoạt động khám phá khoa học là chiếc cầu nối, là phương
tiện dẫn dắt khám phá thế giới xung quanh trẻ. Biết những điều đơn giản đến
những điều phức tạp. Khám phá khoa học là phương tiện hữu hiệu trong việc
giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, tình yêu mến bạn
bè, với những người thân, biết được việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, trẻ nhận thấy
thế giới xung quanh trẻ thật kỳ diệu và đầy thú vị. Vì thế, “Khám phá khoa học”
là một hoạt động không thể thiếu được ở tuổi mầm non, vì thông qua các hoạt
động khám phá khoa học trẻ sẽ hiểu hơn về thế giới xung quanh mình. Từ đó,
phát triển tính tư duy, sáng tạo, thích khám phá... là cánh cửa mở ra chân trời
nhận thức về thế giới quanh trẻ.
Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi
việc đều đã bắt đầu; bắt đầu nghe, nhìn, tư duy và vận động bằng đôi chân, đôi
tay của mình... trẻ 4 – 5 tuổi đang ở những bước phát triển mạnh về nhận thức,
tư duy, về ngôn ngữ, về tình cảm, thẩm mỹ, về thế giới khách quan xung quanh

thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và còn có bao lạ lẫm khó
hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá, cho nên giáo dục mầm non đã
góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ. Chính vì vậy, vai trò và trách
nhiệm của mỗi giáo viên là yêu cầu không thể thiếu trong công tác chăm sóc
giáo dục trẻ, cô giáo phải rất linh hoạt nhạy bén kịp thời, có năng lực và có tính
chủ động sáng tạo.
1


Khoa học không chỉ là kiến thức mà còn là quá trình, là con đường tìm
hiểu, khám phá thế giới vật chất. Khoa học với trẻ nhỏ là quá trình tìm hiểu,
khám phá tự nhiên và là quá trình tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu
thế giới tự nhiên. Khả năng nhận thức của trẻ được phát triển qua việc tiếp xúc
tìm hiểu các đồ dùng, đồ chơi và các nguyên vật liệu.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động khám phá khoa học trên
thực tiễn tôi đã nghiên cứu để trẻ tìm hiểu và thích khám phá với thế giới tự
nhiên một cách say mê và thật yêu thích. Bản thân tôi đã trau dồi, học hỏi các
đồng chí, đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng chí đã có nhiều kinh nghiệm thông
qua các buổi học chuyên đề, họp chuyên môn, dự giờ và tham khảo tài liệu để
tìm ra phương pháp, hình thức, tốt nhất, giúp trẻ khám phá khoa học đạt được
hiệu quả cao và cụ thể là áp dụng cho lứa tuổi mẫu giáo 4 - 5 tuổi. Chính vì thế,
để đạt được mục đích của hoạt động “Khám phá khoa học”, bản thân tôi đã
nghiên cứu, suy nghĩ, tìm ra “Một số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức
hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi” ở Trường mầm non
Ngọc Phụng.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, nhằm tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong
quá trình tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. Từ
đó, đề ra những biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động khám phá
khoa học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tại Trường mầm non Ngọc Phụng.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: Trẻ 4-5 tuổi Trường mầm non Ngọc Phụng
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Qua thực tế giảng dạy và làm đề tài bản thân đã sử dụng một số phương
pháp sau:
Nhóm Phương pháp thực hành trải nghiệm.
Phương pháp trực quan, minh họa.
Phương pháp quan sát và đàm thoại
Phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ.
Phương pháp nêu gương, đánh giá.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của giáo dục Singapo đã chỉ ra rằng Giáo dục không phải là đổ
đầy dầu một cái bình mà là thắp sáng lên ngọn lửa. Điều đó có nghĩa là dạy trẻ
không nghĩa là cứ nhồi nhét khối lượng kiến thức vô bờ bến cho trẻ mà là dạy
trẻ cách học, cách tư duy, nuôi dưỡng lòng ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám
phá. Hay nói cách khác, giáo dục mầm non không nhằm cung cấp một khối
lượng kiến thức mà nhằm hình thành các chức năng tâm lý, các cơ sở ban đầu
cho sự phát triển nhân cách sau này. Trẻ em lứa tuổi mầm non có tính tò mò
khám phá bẩm sinh. Đó là mầm mống của việc tự khám phá, tự học. Nếu chúng
không được nuôi dưỡng sẽ mai một và biến mất hoàn toàn. Các hoạt động khám
2


phá khoa học là con đường ngắn nhất để giúp trẻ sử dụng các giác quan của cơ
thể, vận dụng những hiểu biết của bản thân để tìm hiểu sự vật, hiện tượng, đòi
hỏi trẻ phải có cơ hội khám phá khác nhau, khi đó việc phát triển kỹ năng, năng
lực sẽ đóng vai trò chủ đạo. Chính vì vậy nên hoạt động khám phá khoa học
không thể thiếu trong trường mầm non. [5]
Nhà tâm lý học lỗi lạc Jean Piaget đã giải thích tính ham hiểu biết của trẻ

và khát vọng hành động của trẻ trong môi trường bởi quá trình tự điều chỉnh hay
còn gọi là sự cân bằng. Trẻ từ 3 – 6 tuổi quá trình tư duy của trẻ có nhiều thay
đổi từ giai đoạn cảm giác vận động đến giai đoạn tư duy tiền thao tác, kèm theo
tư duy tượng trưng để trẻ tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh. [3]
Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo đó là:
Thích các hoạt động chân tay và khám phá bằng các giác quan.
Hay đặt câu hỏi nhưng không phải lúc nào cũng hiểu câu trả lời.
Bắt đầu hiểu thí nghiệm là gì và trở nên có chủ định cũng như sáng tạo
hơn trong việc khám phá.
Thường dành nhiều thời gian và chú ý hơn vào các hoạt động mà trẻ thích.
Thích chơi theo nhóm 5 - 6 trẻ và thích trao đổi trong nhóm nhỏ.
Có thể làm một số thí nghiệm do cô hướng dẫn và có thể giải thích theo
nhiều cách khác nhau.
Bắt đầu đưa ra những dự đoán dựa trên những gì trẻ được trải nghiệm.
Thích nghĩ ra các lời giải thích về những gì quan sát được, thường thêm các chi
tiết tưởng tượng vào các sự sự việc.
Có thể nắm bắt các khái niệm trừu tượng nhưng trẻ vẫn cần các sự việc có
thực để giải thích các khái niệm đó.
Trẻ bắt đầu suy nghĩ lập kế hoạch cho một hoạt động, chẳng hạn như nghĩ
về việc gieo hạt trước khi trẻ thực hiện hành động thực tế. Chính vì vậy, được
trực tiếp thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là một điều thích thú đối
với trẻ.
Việc thực hiện đề tài trên là nhằm tổ chức cho trẻ phát huy được tính ham
hiểu biết, thích khám phá điều mới lạ thú vị ở cuộc sống quanh trẻ mà trẻ chưa
biết. Đòi hỏi mỗi giáo viên chúng ta cần phải nghiên cứu và tìm ra giải pháp tốt
nhất để tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ phù hợp với từng lứa tuổi.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Thuận lợi:
Nhà trường luôn quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và chuyên môn, bồi
dưỡng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non,

tạo mọi điều kiện giúp tôi nâng cao kỹ năng sư phạm, đổi mới phương pháp dạy
học, chỉ đạo hướng dẫn tìm tòi những nguyên vật liệu để làm đồ dùng phục vụ
dạy học và đồ chơi cho trẻ.
Bản thân thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, tạp chí, thông tin trên
mạng có liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm
sóc giáo dục trẻ hàng ngày.
3


Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, được tiếp xúc với trẻ hằng ngày, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong việc tìm hiểu tâm sinh lí, cử chỉ, hành vi và đặc thù
của từng trẻ. Để việc chăm sóc, giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao tôi luôn tìm tòi,
học hỏi, sáng tạo tìm ra những giải pháp, những sáng kiến mới áp dụng vào việc
tổ chức các hoạt động cho trẻ.
Khó khăn:
Ngoài những thuận lợi trên thì việc khám phá khoa học cho trẻ ở trường
mầm non Ngọc Phụng nói chung và lớp mẫu giáo 4-5 tuổi C mà tôi phụ trách
còn gặp không ít khó khăn đó là:
Trên thực tiễn hiện nay các tiết học “ Khám phá khoa học ” cho trẻ 4-5
tuổi còn nhiều hạn chế các tiết dạy phần lớn còn thụ động, dập khuôn theo gợi
ý hướng dẫn của chương trình nên trẻ chưa hứng thú học tậpvà khả năng sáng
tạo của trẻ.
Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm nhiều đến việc trẻ học ở trường
Vốn hiểu biết về môi trường tự nhiên và xã hội của trẻ còn hạn chế.
Kết quả khảo sát thực trạng.
Qua thực tiễn một số năm được phân công đứng lớp mẫu giáo đặc biêt tôi
đã được đứng lớp 4 - 5 tuổi hai năm học liên tiếp, tôi nhận thấy các hoạt động
“Khám phá khoa học” cho trẻ mẫu giáo còn chưa linh hoạt, đổi mới, sáng tạo để
gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó đồ dùng đồ chơi để cho trẻ khám phá ít về số
lượng, chưa đẹp về hình thức. Một số giáo viên còn hạn chế trong việc sáng tạo,

gây hứng thú cho trẻ. Vì thế, dẫn đến kết quả chưa cao.
Xuất phát từ thực trạng trên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát
chất lượng trên trẻ, kết quả đạt được như sau:
Kết quả khảo sát
Tổng
Số trẻ Tỷ lệ
Nội dung khảo sát
số Số trẻ Tỷ lệ
chưa
trẻ
đạt
( %)
(%)
đạt
Trẻ có khả năng tìm tòi, khám phá
35
22
63
13
37
đối tượng
Khả năng nhận biết tên gọi, tính
chất, đặc điểm rõ nét của đối tượng
21
60
14
40
35
làm quen
Biết so sánh nhận xét một số đặc

điểm giống và khác nhau của 2 đối 35
20
57
15
43
tượng
Phân nhóm, phân loại theo dấu
35
22
63
13
37
hiệu rõ nét
Suy luận, giải thích được mối liên
hệ đơn giản của hiện tượng sự vật 35
19
55
16
45
xung quanh
4


Từ kết quả trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để tổ
chức hoạt động khám phá khoa học đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó, nâng dần khả
năng quan sát, so sánh và phân loại cho trẻ, làm phong phú biểu tượng về môi
trường xung quanh trong mỗi trẻ.
Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm
ra một số biện pháp sau:
2.3. Các biện pháp để giải quyết vấn đề

Trong công tác giáo dục trẻ thì việc cho trẻ hoạt động khám phá khoa học
ở trường mầm non là hoạt động vô cùng quan trọng, phát triển cho trẻ ở nhiều
mặt như: ngôn ngữ, trí tuệ, thể lực, thẫm mỹ, giáo dục đạo đức mở rộng vốn hiểu
biết về thế giới xung quanh… Căn cứ vào tầm quan trọng của hoạt động khám phá
khoa học, căn cứ vào tình hình thực tế ở lớp, tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Tạo môi trường cho trẻ khám phá
Quá trình khám phá khoa học có đạt đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó môi trường xung quanh trẻ giữ một vị trí quan trọng. Nó
chứa đựng các phương tiện cần thiết để tổ chức cho trẻ khám phá. Trẻ mầm non
phần lớn sống trong gia đình và trường lớp mẫu giáo. Vì vậy, việc taọ môi trường
cho trẻ thực hiện các hoạt động khám phá là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Đồ dùng, trực quan, đồ chơi phục vụ hoạt động khám phá khoa học như:
Bàn, ghế, bảng, tranh, mô hình, các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu... Cần phải
đầy đủ cho cô và trẻ cùng hoạt động.
Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích
thích hứng thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ.
Đặc biệt, tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả
hạt… Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách (có que chỉ
cho việc đọc sách). Đọc sách theo từng chữ, từng dòng, tôi sắp xếp các hộp
đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hột hạt… Có gắn nhãn mác và hình ảnh
rõ ràng để trẻ rễ nhận thấy, trẻ được chơi và làm được những sản phẩm từ những
đồ chơi ấy. Ngoài ra, tôi cũng dùng vỏ hến, ốc, trai, sò, vỏ trứng được vệ sinh
sạch sẽ vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm.
Các tranh, lô tô đều được phân loại để ở giá vừa dễ lấy, dễ tìm.
Ví dụ: Tôi phân loại lô tô:
- Lô tô con vật xếp vào một ô.
- Lô tô các loại quả xếp vào một ô.
Đối với tranh đều có chữ cái tương ứng ở dưới cũng được phân loại xếp
gọn gàng và rễ tìm và dễ lấy với trẻ.
Dựa vào yêu cầu thực tế dạy trẻ, tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở

địa phương như: vải vụn làm dối, cọng rơm khô làm mái nhà, sưu tầm lá khô với
nhiều màu sắc, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm tranh ảnh cho tiết dạy. Sưu tầm các
loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò... để bổ xung gian đồ chơi của trẻ.
Từ những nguyên vật liệu phế thải và thiên nhiên trẻ tạo ra được bát, cốc,
bàn ghế, ấm chén từ vỏ sữa su su... Với các chủ điểm thế giới động vật trẻ làm
5


con cua từ vỏ chai chai, con cá từ vỏ con ngao, con gà trống từ vỏ can dầu rửa
bát, con lợn từ vỏ váng sữa chua, con thỏ, con gấu từ vỏ sữa su su. Với chủ điểm
thế giới thực vật trẻ xé dán hoa lá từ lá cây mít khô, lá cây cảnh có màu đỏ, vàng
và hột hạt để làm tranh tổng hợp và hạt đỗ đen, hạt na làm mắt các con vật.
Trẻ rất hứng thú khi đến hoạt động làm đồ chơi và trẻ phấn khởi khoe với
bạn bè và bố mẹ mình đã tạo ra được sản phẩm.
Tôi sưu tầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau đó dùng hình
ảnh minh hoạ và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình ảnh vừa để trẻ
rèn luyện ngôn ngữ. Từ đó, tư duy của trẻ cũng phát triển…
Với những đồ dùng, đồ chơi được phát và tự làm khi tôi đưa vào sử dụng
trong tiết dạy môi trường xung quanh, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú học,
trẻ hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so sánh
và phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc rất
nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa, các
loại quả... Tư duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn.
Biện pháp 2: Xây dựng nề nếp của trẻ trong hoạt động khám phá khoa
học.
Xây dựng nề nếp tốt trong giờ học ngay từ những ngày đầu năm học là
một vấn đề rất cần thiết vì trong giờ học các cháu phải thực hiện điều đầu tiên là
phải có nề nếp, cùng thực hiện theo những qui định chung mà cô cùng các bạn
thống nhất, tích cực tham gia các hoạt động thì tiếp thu bài mới tốt.
Ở lớp tôi, khi ngồi học cũng như khi chơi vì số trẻ nam đông hơn trẻ nữ

nên các cháu còn rất hiếu động, không chú ý lên cô, một số cháu nữ còn nói
chuyện riêng... Tôi chia ba tổ xen lẫn nhau. Cháu nam và cháu nữ, cháu học khá
và học trung bình, rèn các cháu nề nếp ngồi học ngay ngắn, khi giơ tay, một tay
để vuông góc một tay để ngang đỡ cùi tay, khi đứng dậy phải nói đủ câu “con
thưa cô” tay thả xuôi. Khi ngồi học không được quay ngược quay xuôi phải chú
ý lên cô, lúc đầu trẻ chưa quen nên cô chưa thể gò ép trẻ vào ngay khuôn khổ, cô
nghiêm khắc nhưng vẫn gần gũi động viên trẻ, lôi cuốn trẻ vào các hoạt động tập
thể, để dần thích nghi, trẻ tự thấy mình có nhu cầu cần được tham gia vào hoạt
động cùng các bạn.
Ví dụ: Trong giờ ăn:
Ngay từ đầu dạy cho trẻ, biết cách ngồi cho phù hợp biết mời cô, mời bạn
trước khi ăn. Ăn uống phải sạch sẽ, không làm rơi vãi, nhặt cơm rơi vào đĩa.
Trước khi ăn phải rửa tay sạch sẽ …
Ví dụ: Trong giờ thể dục sáng
Nhắc trẻ xếp hàng đúng, thẳng hàng, đứng ngay ngắn và chú ý lắng nghe
bài hát để tập đúng nhịp bài hát, tập xong trẻ đi nhẹ nhàng lên lớp, tránh tình
trạng xô đẩy nhau.
Tôi đã thành công trong việc rèn nề nếp của lớp trong những tháng đầu, các
cháu đã có một nề nếp học tập tốt, học không gò bó, thoải mái như khi chơi, từ đó
là tiền đề để cho tôi thực hiện hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả tốt nhất.
6


Để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động cho trẻ khám phá khoa học tôi
đã tự mình nghiên cứu tìm tòi, học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Vì cô giáo
là người đóng vai trò quan trọng, do đó việc học hỏi, đọc tài liệu, tham khảo ý
kiến đồng nghiệp, rèn luyện tay nghề, đặc biệt là với hoạt động khám phá khoa
học là một hoạt động tương đối khó, vì đối tượng cho trẻ khám phá rất phong
phú vì thế cô giáo phải luôn thay đổi hình thức, và đòi hỏi nghệ thuật của cô
giáo phải thu hút được sự chú ý của trẻ từ đầu đến cuối hoạt động.

Biện pháp 3: Nâng cao cho trẻ kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại
về các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.
Biết được kỹ năng và nghệ thuật dạy trẻ khám phá khoa học chưa thật
sáng tạo, nên bản thân tôi khắc phục bằng cách. Thường xuyên học tập bạn bè
đồng nghiệp, luyện tập giọng nói sao cho thật truyền cảm, tác phong dạy sao cho
nhẹ nhàng, linh hoạt.
Về kiến thức phải nắm vững phương pháp dạy, cung cấp cho trẻ kiến thức
dù đơn giản nhưng cũng phải thật chính xác. Tận dụng mọi thời gian để tự rèn
luyện mình, dù ở lớp hay ở nhà.
Sử dụng bộ tranh cho trẻ khám phá khoa học, theo nội dung từng bài, theo
đúng chương trình, kế hoạch đã xây dựng.
Luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhận xét, của BGH của tổ chuyên môn
sau mỗi lần tổ chức các hoạt động, để từ đó phát huy những mặt tốt, khắc phục
những hạn chế.
Về cách tiến hành: Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen,
tôi tìm những cách vào bài khác nhau để gây sự chú ý, tò mò của trẻ, có thể
dùng câu đố, bài hát để trẻ nhận biết đối tượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật
và mô hình.
Với mỗi đối tượng trẻ được làm quen, trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết
đưa ra ý kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi
lần làm quen như vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những
hiểu về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng.
Sau khi trẻ được làm quen 4 - 5 đối tượng (trong 1 bài) tôi cho trẻ so sánh
2 đối tượng một, để trẻ có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ phân loại trong các
trò chơi.
Ví dụ: Trong hoạt động khám phá khoa học về các con vật sống trong
rừng (con voi, con khỉ, con hổ, con gấu....)
Tôi đã thực hiện hoạt động này trên PowerPoint rất sinh động và hấp dẫn
thu hút được sự tập trung của trẻ. Hiệu ứng lần lượt các con vật sống trong rừng,
có tiếng động, hình ảnh đẹp. Cho trẻ quan sát và nhận xét về các con vật, so

sánh các con vật với nhau. Để giúp trẻ phân biệt được tên gọi các con vật đó tôi
đã cho trẻ quan sát kỹ cấu tạo từng con, cho trẻ so sánh giữa các con vật đó với
nhau đế làm nổi bật đặc điểm của chúng. Trẻ được quan sát, so sánh, được phân
tích kỹ trên PowerPoint nên trẻ đã phân loại được đặc điểm, tích cách, thức
ăn...Với các con vật khác tôi cũng tiến hành tương tự. Sau đây là một ví dụ khi
tôi soạn giáo án PowerPoint hoạt động khám phá khoa học về các con vật sống
trong rừng, qua bài giảng tôi không chỉ cung cấp thêm cho trẻ những kiến thức
7


về các con vật sống trong rừng đó mà còn giúp trẻ mở rộng thêm vốn tư duy trực
quan hình tượng qua những hình ảnh, video mà trẻ được quan sát.

Ảnh: Trẻ chú ý quan sát qua bài giảng powerpoint mà cô sử dụng
Tổ chức các trò chơi trong mỗi hoạt động tôi tổ chức đan xen trò chơi động
với trò chơi tĩnh, làm cho không khí tiết dạy vui nhộn, hào hứng và hiệu quả.
Trong các hoạt động khác tôi cũng lồng ghép kiến thức khám phá khoa
học để củng cố vốn hiểu biết về biểu tượng đã có của trẻ.
Không những thể hiện bằng hình ảnh trình chiếu trên PowerPoint mà còn
tăng cường cho trẻ quan sát vật thật để phát triển các giác quan, khắc sâu nhận
thức về đối tượng tìm hiểu.
Các sự vật, hiện tượng trong môi trường thiên nhiên và xã hội xung quanh
chúng ta rất đa dạng và phong phú vì vậy tôi cần lựa chọn các sự vật hiện tượng
gần gũi với trẻ để trẻ khám phá. Ở lứa tuổi này trẻ thích tò mò, ham muốn hiểu
biết các sự vật hiện tượng, đứng trước các sự vật cụ thể trẻ rất hiếu động, trẻ
muốn tự tay mình sờ mó, nâng niu các đối tượng cần quan sát thì những thông
tin mà cô giáo cần truyền đạt đến trẻ được tiếp thu một cách đồng bộ dễ dàng.
Trẻ khám phá khoa học thông qua các giác quan. Nếu sử dụng tranh ảnh
chỉ giúp trẻ quan sát, tìm hiểu bề ngoài (các bộ phận, màu sắc, hình dáng, công
cụ…) của các sự vật, hiện tượng chủ yếu bằng mắt nhìn. Để hoạt động khám

phá thêm sinh động ngoài quan sát bằng tranh ảnh, tôi luôn tranh thủ lựa chọn
những đề tài có thể sử dụng được vật thật nhằm giúp trẻ có thể tận dụng tất cả
các giác quan trong quá trình quan sát. Khi thực hiện cho trẻ quan sát bằng vật
thật bao giờ trẻ cũng rất thích thú và trẻ không những được nhìn, được nghe
tiếng kêu của con vật mà trẻ còn được sờ mó vào đồ vật, con vật nhằm giúp trẻ
tiếp nhận, mở rộng hiểu biết của mình một cách đầy đủ về đối tượng.
8


Ví dụ: Chủ thề Thế giới Thực vật “Tìm hiểu một số loại hoa, để giúp trẻ
quan sát ,sờ,ngửi bằng vật thật. Tôi chuẩn bị lẳng hoa tươi cho trẻ quan sát xem
lẳng hoa có những loại hoa gì? màu sắc làm sao cho tự tay trẻ được sờ vào từng
cánh hoa xem cánh hoa mềm hay cứng...., và cho trẻ ngửi và cảm nhận xem mùi
của các loại hoa đó như thế nào . Vì thế mà giờ hoạt động khám phá khoa học
của tôi rất thành công, qua hoạt động khám phá trẻ rất hứng thú và tham gia hoạt
động rất tích cực.
Ví dụ: “Tìm hiểu về các con vật sống dưới nước”. Tôi cho trẻ quan sát cá,
tôm, cua, ốc…còn sống, thả vào chậu hoặc bình thuỷ tinh để trẻ dễ quan sát nên
trẻ rất thích thú.

Ảnh : Trẻ hứng thú quan sát một số con vật sống dưới nước
Với mỗi con vật cô và trẻ cùng đàm thoại về con vật để trẻ biết được hình
dạng, môi trường sống, thức ăn và cách vận động của nó.
Trong hoạt động khác của trẻ, tôi có thể cung cấp kiến thức cũ, tận dụng
mọi lúc, mọi nơi để giáo dục trẻ.
Trong hoạt động góc, trẻ được chơi ở góc thiên nhiên trẻ tưới cây, nhặt lá
bắt sâu, xem sách về khám phá khoa học. Đặc biệt trẻ được chơi nhiều đồ vật
thật khi được hoạt động nhiều với đồ vật thật, trẻ được nhìn, sờ, nắn, ngửi. Từ
đó, có hình ảnh trọn vẹn về những gì xung quanh trẻ, không những thế mà tôi
còn phát huy tính sáng tạo của trẻ bằng cách cho trẻ làm tranh từ nguyên liệu

thiên nhiên: Hoa, lá ép khô, vỏ cây, cọng rơm, vỏ hải sản ....
Qua các buổi dạo chơi, tham quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại khi trẻ
quan sát tôi hướng cho trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn
đối tượng đó.
9


Ví dụ: Cô và trẻ quan sát cây hoa hồng, hướng trẻ nhận biết màu sắc cánh
hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn, các mép của lá có răng cưa, hoa
ngửi có mùi thơm .
Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ
so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh .
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để trẻ khám phá
thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo
vệ môi trường, luôn chú ý kiến thức xã hội của trẻ về công việc của mỗi người,
mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục BVMT với trẻ, tạo
cho trẻ thói quen và ý thức khi tham gia các hoạt động như; không được vứt rác
bừa bãi, không hái hoa, bẻ cành, phải chăm sóc cây, bắt sâu, nhổ cỏ....
Biện pháp 4: Thực hiện đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức thông
qua hoạt động khám phá khoa học
Trước khi tổ chức một hoạt động cần phải nghiên cứu kỹ bài soạn, chuẩn
bị tốt đồ dùng đồ chơi cho hoạt động mà trẻ sắp khám phá, nên sử dụng như thế
nào để giúp cho trẻ có hứng thú hơn trong giờ học, đảm bảo tính tích cực, tự
giác, chủ động của trẻ, trên cơ sở cung cấp, mở rộng thêm kiến thức thì cô giáo
cần phải củng cố lại kiến thức mà trẻ đã biết về thế giới xung quanh.
Tổ chức khám phá khoa học tôi thường căn cứ vào từng chủ đề để chọn
đồ dùng đồ chơi cho tiết học được phù hợp.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với một số “đồ dùng nấu ăn trong gia đình”
với màu sắc rực rỡ, đa dạng, hấp dẫn, thì yêu cầu trẻ cần phải nêu được đặc
điểm cấu tạo, màu sắc hình dạng của từng đồ dùng và biết được công dụng của

từng đồ dùng đó. Cháu có nhận xét gì về đồ dùng này? Dùng để làm gì? Nó làm
bằng chất liệu gì?...
Đối với lời giảng giải đòi hỏi phải tìm những lời ngắn gọn, dễ hiểu nhưng
chủ yếu phải đủ ý. Mặt khác tôi thường thấy rằng hoạt động khám phá về đồ
dùng đồ chơi này thì tư thế ngồi cũng rất quan trọng, nó tạo sự thoải mái để trẻ
tập trung quan sát được chính xác hơn. Do vậy, mà tôi đã chú ý về vấn đề này
trước khi cho trẻ khám phá .
Đồ dùng, đồ chơi chuẩn bị cho hoạt động khám phá khoa học phải được
trẻ yêu thích và phù hợp với trẻ mẫu giáo nhỡ.
Ví dụ: Quả cam, con cá, cái bút thì phải đảm bảo tính sư phạm và tính
thẩm mỹ. Nếu đối tượng làm quen là tranh vẽ, tranh ảnh, tranh có nội dung phản
ánh sinh hoạt hoặc các hiện tượng thiên nhiên, tranh phải vừa tầm với trẻ, không
quá to hoặc quá nhỏ. Nội dung bức tranh không có quá nhiều chi tiết, gây ảnh
hưởng đến thị hiếu thẩm mỹ của trẻ.
Lời giới thiệu bài khi vào tiết học để trẻ hứng thú và chú ý cũng góp phần
quan trọng trong hoạt động này.
Ví dụ: Trong hoạt động “làm quen với một số loại quả”, trước tiên tôi cho
trẻ đi tham quan vườn cây ăn quả của trường hoặc bằng mô hình, thì trẻ cảm thấy
rất hào hứng, nhiệt tình quan sát, trẻ sẽ ghi nhớ lại trong đầu những gì mình đã
thấy được để khi trẻ giơ tay phát biểu được chính xác. Trẻ biết được đặc điểm,
hình dạng, mùi vị của từng loại quả. Khi cô cho trẻ quan sát nên chọn vật thật, và
10


giáo dục cho trẻ biết lợi ích của từng loại quả sau đó so sánh hai quả một với
nhau để làm nổi bật đặc điểm riêng của từng loại quả. Khi cho trẻ so sánh cô cho
trẻ quan sát trên hình ảnh để trẻ khắc sâu, sau đó cho trẻ tự so sánh với nhau.
Hết phần làm quen, tôi chuyển sang phần trò chơi để củng cố nội dung.
Trong quá trình chơi, đưa ra hình thức thưởng phạt để khích lệ trẻ và gây hứng
thú cho trẻ tham gia vào trò chơi.

Ví dụ: Trò chơi “gắn quả lên cây” nếu trẻ gắn quả cam lên đúng cây cam
thì sẽ được cả lớp khen, còn nếu không gắn được hoặc gắn sai thì phải nhảy lò
cò hai vòng về chỗ đứng, sau mỗi lần chơi, nên đổi quả cho nhau và động viên
khuyến khích trẻ, cho trẻ vừa đọc thơ hoặc hát về các loại quả, khi nào nghe
hiệu lệnh của cô thì tìm về đúng cây của mình. Trong khi chơi nên xen lẫn cả trò
chơi động và trò chơi tĩnh để trẻ được thay đổi trạng thái.
Khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học, cô phải quan sát lớp và xử lý
nhanh, nhạy những tình huống xảy ra và giữa các phần phải chuyển tiếp một
cách khéo léo linh hoạt, nhẹ nhàng để trẻ không bị gò ép cứng nhắc. Khi hướng
dẫn cô phải linh hoạt, sáng tạo để tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với môi trường
thiên nhiên, xã hội xung quanh trẻ. Tôi luôn nghĩ đồ dùng, đồ chơi là phương
tiện trực quan tốt nhất trong quá trình giúp trẻ nhận thức, phát triển ngôn ngữ và
làm giàu vốn từ. Ngoài ra còn giúp cho giáo viên hướng dẫn trẻ khám phá khoa
học đạt chất lượng cao.
Để giúp trẻ khám phá khoa học, cô giáo không nhất thiết phải dạy hoặc
giải thích những kiến thức cho trẻ mà chủ yếu là giúp trẻ suy nghĩ nhiều hơn về
những gì mà chúng nhìn thấy và đang làm, kích thích trẻ quan sát, xem xét,
phỏng đoán các sự vật, hiện tượng xung quanh, chia sẻ những điều trẻ nhìn thấy,
điều trẻ nghĩ hoặc còn băn khoăn, thắc mắc. Cô giáo chủ động, linh hoạt, tạo cơ
hội cho trẻ thực hành các kỹ năng quan sát, so sánh phân loại, dự đoán, thử
nghiệm. Trẻ được hoạt động và làm những công việc phục vụ cho bản thân vì
những công việc đó có thể sẽ là bài học và trải nghiệm tốt cho trẻ về khoa học.
Cô nên cho trẻ so sánh những nét giống nhau và khác nhau của sự vật,
hiện tượng. Cho trẻ quan sát, phỏng đoán các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.
Dành thời gian cho trẻ trải nghiệm và chia sẻ, bày tỏ ý kiến của mình với bạn và
cô giáo. Khích lệ trẻ suy nghĩ về những gì chúng đang nhìn thấy, đang làm và phát
triển những suy nghĩ, ý tưởng của mình, nên sử dụng câu hỏi gợi mở để giúp trẻ
suy nghĩ và đưa ra những ý kiến nhận định của cá nhân.
Tạo cho trẻ môi trường hoạt động khám phá khoa học phong phú, hấp dẫn
với các đồ dùng, đồ chơi, các nguyên, vật liệu khác nhau.

Ví dụ: Chủ đề “Bản thân” cô cùng trẻ trò chuyện về các bộ phận trên cơ
thể người, cho trẻ quan sát các giác quan và các bộ phận bằng cách soi gương.
Tổ chức các trò chơi: Tay phải, tay trái; hay tôi buồn, tôi vui; hoặc hát các
bài hát nói về các bộ phận trên cơ thể như; cái mũi cho trẻ thảo luận về các bộ
phận trên cơ thể và chức năng của chúng.
Tổ chức hoạt động khám phá khoa học: “Quan sát, thảo luận các hiện
tượng thời tiết mùa hè”
11


* Hoạt động 1:
Cho trẻ chơi cùng cô trò chơi: 4 mùa.
Hỏi trẻ: có mấy mùa? đó là những mùa nào? Bây giờ là mùa nào? (mùa hè)
Tại sao lại biết đó là mùa hè ? (nắng, nóng)
* Hoạt động 2:
Cho trẻ quan sát, nhận xét, thảo luận về thời tiết, con người và cảnh vật
trong mùa đông. Cô cho cả lớp ra ngoài trời quan sát bầu trời cảnh vật mùa hè.
Hỏi trẻ: Hôm nay chúng mình thấy bầu trời như thế nào? Cây cối như thế
nào ? (xanh tốt, nhiều hoa quả)
Mùa hè mọi người ăn mặc như thế nào ?
Cô cho trẻ dự đoán, thảo luận với nhau vì sao mọi người phải mặc quần
áo thoáng mát trong mùa hè.
Các hoạt động khám phá khoa học có thể tận dụng những tình huống mọi
lúc, mọi nơi, trong tất cả các chủ đề khác nhau. Cô có thể cho trẻ quan sát gọi
tên các sự vật, hiện tượng, hiện tượng tự nhiên xung quanh trẻ.
Để cho trẻ yêu thích môn khám phá khoa học, cô giáo dùng nhiều cách,
nhiều thủ thuật để trẻ thích khám phá những điều mới lạ. Cô dùng những hình ảnh
đẹp, cô có thể cho trẻ xem băng về các hiện tượng tự nhiên, về các sự vật, hiện tượng xung quanh để trẻ suy nghĩ, quan sát, phỏng đoán các sự vật, hiện tượng đó,
hay dạy trên máy chiếu.., cô dành nhiều thời gian cho trẻ tự khám phá, trải
nghiệm và chia sẻ, bày tỏ ý kiến của mình, cô sử dụng câu hỏi gợi mở để giúp

trẻ phát triển suy nghĩ của mình.
Tạo cho trẻ được khám phá khoa học, phong phú, hấp dẫn với các đồ
dùng, đồ chơi, các nguyên vật liệu khác nhau.
Ví dụ: Hoạt động “Khám phá điều thú vị của nam châm”
Cô cho trẻ xem các nam châm và làm mẫu cho trẻ thấy rằng các nam
châm này có thể hút dính một số đồ vật và sau đó cho mỗi trẻ một nam châm và
yêu cầu trẻ kiểm tra xem những vật nào mà nam châm có thể hút được và cho trẻ
nhận xét những vật mà nam châm không thể hút được, khuyến khích trẻ tìm các
đồ vật khác trong lớp mà nam châm hút được, cô cho trẻ đủ thời gian thử
nghiệm với những thứ có ở xung quanh trẻ. Sau đó, cho trẻ đưa ra nhận xét
những đồ vật bằng chất liệu nào thì nam châm hút được, cuối cùng cô là người
kết luận lại.
Biện pháp 5: Lồng ghép hoạt động khám phá khoa học vào các hoạt
động trong ngày
Trong quá trình tổ chức các hoạt động trong ngày ở trường tôi thường tích
hợp hoạt động khám phá khoa học một cách hợp lý, bằng hình thức đàm thoại
hay khám phá
Ví dụ: Trong hoạt động chung: Tạo hình “Vẽ con cá” thì ngay phần hoạt
động 1: cô lồng khám phá khoa học cho trẻ quan sát bể cá cảnh, qua đó trẻ sẽ
được tận mắt nhìn thấy con cá nó bơi, nó ăn , cá có những phần nào, thông qua
các câu hỏi của cô. Các cháu thấy các con cá này bơi ở đâu? nó ăn gì? cá gồm
12


mấy phần?.., từ đó trẻ sẽ hiểu hơn về con cá, tưởng tượng lại con cá mình vừa
được tận mắt quan sát vào trong bài vẽ của mình.
Mặt khác, thông qua các hoạt động ngoài trời, cô nên thường xuyên tổ
chức cho trẻ ra ngoài quan sát, tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh mình
để trẻ tư duy, và hiểu hơn về mọi sự vật hiện tượng xung quanh. Sau đây, tôi xin
đưa ra một tình huống xảy ra ở lớp tôi như sau: Khi tổ chức hoạt động ngoài trời

“Quan sát các cây trong sân trường cô nói: Cây rất cần nước, nếu thiếu nước cây
sẽ chết héo. Trong lớp có 1 cháu lại nói. Cây không cần nước vẫn sống được,
giống như cây bàng trước nhà cháu mẹ cháu không tưới nước mà cây vẫn sống
và ra hoa, kết quả. Tôi đã giải thích cho trẻ hiểu: có những cây còn nhỏ, yếu ớt,
như các loại rau ăn lá, cây ăn củ, quả .. thì rất cần nước, nếu không tưới nước
thường xuyên cây sẽ chết. Còn có những cây đã to rễ ăn sâu xuống lòng đất thì
không cần tưới thường xuyên vì rễ cây đã hút nước ở lòng đất để nuôi cây rồi,
hôm sau tôi cùng cả lớp làm thí nghiệm “Sự phát triển của hạt đậu xanh” cho trẻ
quan sát sự nảy mầm của hạt đậu xanh, hạt đậu xanh ngâm nước rồi đem ủ bình
bằng các lá tre, được tưới nước hàng ngày và sau vài ngày hạt đậu xanh đã nảy
mầm thành cây giá đậu. Tôi nhận thấy rằng với những thí nghiệm trẻ được tham
ra trẻ rất hứng thú và kiến thức đó sẽ được trẻ khắc sâu.

Ảnh cho trẻ quan sát sự nảy mầm của hạt đậu xanh
Không những thế vào những giờ giải lao để cho trẻ yêu thích môn khám
phá khoa học, cô giáo dùng nhiều cách, nhiều thủ thuật để trẻ thích khám phá
những điều mới lạ. Cô dùng những hình ảnh đẹp, cô có thể cho trẻ xem băng về
13


các hiện tượng tự nhiên, về các sự vật, hiện tượng xung quanh để trẻ suy nghĩ,
quan sát, phỏng đoán các sự vật, hiện tượng đó.
Cô dành nhiều thời gian cho trẻ tự khám phá, trải nghiệm và chia sẻ, bày tỏ ý
kiến của mình, sử dụng câu hỏi gợi mở để giúp trẻ phát triển suy nghĩ của mình.
Biện pháp 6: Sử dụng PowerPoint vào hoạt động khám phá khoa học
Thay bằng những tranh ảnh vẽ bằng màu, hoặc sa bàn tôi đã đưa hình thức
dạy trên PowerPoint trong việc tổ chức hoạt động Khám phá khoa học. Tôi
nhận thấy điểm khác biệt rõ nét đó là, tiết học trở nên hấp dẫn, sinh động, thú vị
hơn, do đó mà kết quả đạt được rất cao .
Ví dụ: Trong hoạt động Khám phá khoa học “Về các con vật nuôi trong

gia đình”
Tôi đã cho trẻ xem một đoạn Slidea về các con vật nuôi trong gia đình.
Các con vật trên màn hình di chuyển, có âm thanh tiếng động, Gà thì gáy ò ó o..,
Lợn kêu éc éc. Chó sủa gâu, gâu... kết hợp lồng ghép các đoạn đối thoại sáng
tạo, trẻ thích thú, say sưa theo dõi, lắng nghe.

Ảnh minh hoạ: Giờ học “khám phá khoa học” bằng giáo án điện tử
Để trẻ hiểu sâu về cấu tạo, đặc điểm, môi trường sống của các con vật của
các con vật tôi đã dùng hiệu ứng để trẻ quan sát nhận xét về các con vật.
14


Ví dụ: Hình ảnh con gà tôi đã hiệu ứng con gà di chuyển từ trái qua phải
vừa đi, vừa mổ thóc
Hỏi trẻ: Đây là con gì ? Các con có nhận xét gì về con gà ? (trẻ nhận xét
trên màn hình)
Cô khái quát cho trẻ xem từng bộ phận của con gà bằng hiệu ứng trên
màn hình và hỏi trẻ:
Đầu gà? Có dạng hình gì? (trên màn hình xuất hiện đầu gà)
Thân gà? Có dạng hình gì? (trên màn hình xuất hiện thân gà)
Mỏ gà? Như thế nào? (trên màn hình xuất hiện mỏ gà)
Bạn nào có nhận xét gì về mỏ gà nào? (trẻ nhận xét)
Cô cho cả lớp quan sát mỏ gà dài đồng thời quan sát con gà đang bới đất
tìm giun, hỏi trẻ: Vì sao gà lại có mỏ dài ? (trẻ trả lời rất nhanh và chính xác).
Bởi nhờ vào những hình ảnh mà trẻ quan sát trên màn hình trẻ đã tư duy và hiểu
rõ được câu trả lời.
Đến con vịt cô cũng cho trẻ quan sát đàn vịt bơi dưới ao, có tiếng động
của nước, tiếng kêu của vịt, hình ảnh không gian đẹp đã thu hút sự chú ý của trẻ
Cô hỏi: Đây là con gì? Các bạn có nhận xét gì về con vịt? (trẻ nhận
xét,đầu, mình, thân, chân...) Cô cho cả lớp quan sát kỹ chân của vịt và hình ảnh

vịt đang bơi dưới nước
Cô hỏi: Tại sao chân vịt lại có màng? (lúc này trẻ nhanh chóng tư duy lại
những hình ảnh vừa quan sát và đưa ra câu trả lời rất chính xác và nhanh). Với
các con vật khác tôi đã đưa ra các thủ thuật khác nhau trên PowerPoint.
Tôi nhận thấy rằng việc đưa PowerPoint vào các giờ học rất bổ ích. Trẻ
tận mắt được xem các hình ảnh vui nhộn, sống động, được quan sát, khám phá
sâu hơn, kỹ hơn, đã làm cho trẻ hứng thú tham gia hoạt động, do vậy mà kiến
thức mang lại cho trẻ rất cao.
Biện pháp 7: Phối kết hợp với các bậc phụ huynh.
Đối với các bậc phụ huynh: Thành lập chi hội phụ huynh của lớp. Bàn và
thống nhất với cha mẹ về nội dung hoạt động của lớp và tôi có đưa ra một số vấn
đề để phụ huynh cùng thực hiện như:
Đưa đón trẻ đúng giờ, động viên con đi học đều, và thường xuyên quan
tâm đến con em mình.
Trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập, sức khoẻ của các cháu ở lớp
cũng như ở nhà.
Ngoài việc trang bị đầy đủ đồ dùng cần thiết cho trẻ, ở mọi lúc, mọi nơi
tôi khuyến khích động viên các bậc cha mẹ sưu tầm các đồ dùng đồ chơi sẵn có
hoặc các nguyên vật liệu phế thải để làm đồ dùng đồ chơi cho các cháu và động
viên cho trẻ được vẽ trên nền sân, đất ở nhà.
Ví dụ: như bố cháu Bình An làm nghề sửa chữa xe máy nhờ anh sưu tầm
những cục nam châm những hòn bi sắt để cho trẻ làm thí nghiệm, bố Nguyên Vũ
làm thợ mộc nhờ bác sưu tầm các khối gỗ để làm đồ chơi xếp nhà, xếp ô tô. Mẹ
15


cháu Tường An làm thợ may nhờ mẹ cháu sưu tầm cho ít vải vụn vải thừa làm
rối tay, may quần áo búp bê....Hàng ngày trước khi dạy một bài tìm hiểu môi
trường xung quanh nào tôi thường xuyên trao đổi với cha mẹ/người chăm sóc trẻ
về bài học ngày hôm nay về nhà cùng trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể

cung cấp cho trẻ một số kiến thức để cho trẻ học tập tốt hơn.

Ảnh: Trao đổi với cha mẹ/người chăm sóc trẻ
Tóm lại: Công tác phối hợp với các các bậc cha mẹ/người chăm sóc trẻ
có ý nghĩa rất to lớn, nó giúp chia sẻ kinh nghiệm hỗ trợ lẫn nhau, trong quá
trình chăm sác ,giáo dục trẻ đáp ứng kịp thời những nhu cầu phát triển của trẻ về
các mặt: Vật chất và tinh thần nhận thức, tình cảm, thẩm mỹ, ngôn ngữ, giao tiếp
ứng xử.... Qua đó để biết rõ công việc của người giáo viên để tạo điệu kiện cho
tôi hoàn thành công việc được tốt hơn.
Như vậy, với giải pháp trên tôi đã giúp các bậc cha mẹ nhận thức đúng
đắn về tầm quan trọng của môn học từ đó tôi đã khuyến khích, nhắc nhở cha mẹ
trẻ hãy luôn tạo điều kiện, động viên khuyến khích trẻ kịp thời ....
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
16


Qua việc vận dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học tôi nhận thấy
hoạt động “khám phá khoa học” trở nên sinh động hơn, hấp dẫn, trẻ hứng thú
khi tham ra các hoạt động, thích khám phá, tìm tòi thế giới xung quanh trẻ.
Những kết quả mà tôi đã đạt được sau khi thực hiện các biện pháp gây hứng thú
cho trẻ hoạt động, góp phần vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ. Tôi đã thu được
kết quả cao so với đầu năm học:
*Kết quả khảo sát sau khi trẻ được trải nghiệm:

Kết quả đạt được
Nội dung khảo sát

Tổng
số trẻ


Trẻ có khả năng tìm tòi, khám phá
đối tượng

35

35

100

0

0

Khả năng nhận biết tên gọi, tính
chất, đặc điểm rõ nét của đối tượng
làm quen

35

35

100

0

0

Biết so sánh nhận xét một số đặc
điểm giống và khác nhau của 2 đối
tượng


35

35

100

0

0

Phân nhóm, phân loại theo dấu hiệu
rõ nét

35

34

97

1

3

Số trẻ Tỷ lệ
Số trẻ Tỷ lệ
chưa
đạt
( %)
(%)

đạt

Suy luận, giải thích được mối liên hệ
đơn giản của hiện tượng sự vật xung
35
34
97
1
3
quanh
So với kết quả đầu năm trước khi áp dụng sáng kiến, kết quả của trẻ cuối
năm đã có sự chuyển biến rõ rệt, trẻ mạnh dạn tự tin trong hoạt động khám phá
khoa học. Tôi thấy rằng việc áp dụng các biện pháp này đã đem lại hiệu quả rất
cao trong việc dạy trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi phát triển tốt các biện pháp phát triển
khám phá khoa học cho trẻ ở Trường mầm non Ngọc Phụng.
Đối với bản thân:
Qua thực hiện một số biện pháp mới tôi đã đạt được kết quả như sau: Bản
thân tôi linh hoạt, tự tin hơn khi tiến hành hoạt động, bên cạnh đó tôi được trau
dồi kiến thức, kỹ năng giúp trẻ khám phá khoa học một cách toàn diện.
Tạo được môi trường học phong phú với nội dung của từng chủ đề, đồ
dùng đồ chơi và trang thiết bị cũng đã được trang bị đầy đủ hấp dẫn trẻ.
Luôn nghiên cứu để sử dụng các thủ thuật và biện pháp hứng thú, thu hút
sự tập trung của trẻ, luôn tạo cho giờ học một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Cho trẻ tiếp xúc nhiều đồ dùng, đồ chơi tranh ảnh, mô hình để tích luỹ
về thế giới xung quanh làm phong phú khả năng nhận thức của trẻ về môi
trường xung quanh.
17


Ngoài việc dạy trẻ trong tiết học, cần phải cho trẻ làm quen với môi

trường xung quanh ở mọi lúc mọi nơi, chơi mà học, học mà chơi.
Bằng nhiều hình thức cô phải biết phát huy hết tính tích cực của trẻ,
không nên gò bó áp đặt trẻ.
Có sư kết hợp giữa nhà trường và gia đình.
Cùng với sự đi lên của ngành học thì giáo viên phải ứng dụng công nghệ
thông tin vào các hoạt động giáo dục, thay đổi hình thức tổ chức để nâng cao
hiệu quả.
Đối với cha mẹ và người chăm sóc trẻ
Các bậc cha mẹ, người chăm sóc trẻ đã nhận thức rõ được tầm quan trọng
của việc dạy trẻ khi tham gia hoạt động khám phá khoa học, cùng phối kết hợp
với cô giáo tạo điều kiện cho trẻ hoạt động đạt kết quả cao nhất, điều đó cũng đã
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua kiểm tra đánh giá quá trình thực nghiệm, kết quả thực nghiệm chứng
tỏ việc sử dụng các biện pháp trên đã giúp trẻ học môn khám phá khoa học có
tiến bộ rõ rệt.
Đối với bản thân qua nghiên cứu tài liệu, qua sự học hỏi kinh nghiệm từ
các đồng nghiệp tôi đã có thêm kinh nghiệm và kiến thức trong việc giảng dạy.
Là một giáo viên mầm non phải có tâm hồn cao đẹp, trái tim nhân hậu,
yêu nghề, mến trẻ. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ cũng như đặc điểm
nhận thức từng lứa tuổi để từ đó xây dựng được những giáo án mang tính sáng
tạo khoa học, phù hợp với từng lứa tuổi.
Ngoài ra cô giáo phải đầu tư thời gian sưu tầm tranh ảnh, các trò chơi áp
dụng trong các tiết học.
Biết lên kế hoạch thực hiện chương trình phù hợp với từng chủ điểm.
Phải đặt ra kế hoạch khen thưởng hợp lý để kích thích trẻ học tốt môn
“khám phá khoa học”.
Đối với giáo viên mầm non phải có chuyên môn sư phạm, có trình độ, am
hiểu biết, các kiến thức về văn hóa – xã hội để giải đáp cho những thắc mắc của trẻ.

Phải biết phối kết hợp với gia đình và nhà trường để giúp trẻ khám phá về
“thế giới tự nhiên” một cách hiệu quả nhất.
Tôi nhận thấy việc giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học là cả một quá
trình liên tục và có hệ thống, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục
khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện
của trẻ. Cô giáo phải luôn là người gương mẫu, sáng tạo để giúp trẻ có hứng thú
hơn để học tốt hơn môn “Khám phá khoa hoc” qua đó giúp trẻ phát triển một
cách toàn diện. Điều này sẽ góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của Đất nước
và thực hiện mục tiêu của ngành đề ra.
18


Thông qua hoạt động này đã tạo được không khí: “Trường thân thiện, học
sinh tích cực” và “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” đối với trẻ trong
trường mầm non. Là một giáo viên trực tiếp làm công tác chăm sóc giáo dục trẻ
tôi thấy mình cần cố gắng học hỏi rèn luyện phấn đấu khắc phục những mặt tồn
tại, trau dồi thêm kiến thức để đưa vào áp dụng dạy trẻ đạt kết quả ngày càng
cao hơn.
3.2. Kiến nghị
Đối với phòng giáo dục: Mong được sự quan tâm của lãnh đạo phòng, mở
các lớp tập huấn chuyên đề về khám phá khoa học cho trẻ, để giáo viên nắm bắt
được nhiều cái mới trong tổ chức hoạt động. Có nhiều tập sách mới về hướng
dẫn tổ chức hoạt động khám phá khoa học để giáo viên học tập.
Nhà trường đầu tư mua sắm cơ sở vật chất. Mua sắm thêm các trang thiết
bị các loại đồ chơi hiện đại phong phú phục vụ cho tổ chức hoạt động khám phá
khoa học cho trẻ.
Tổ chuyên môn nhà trường xây dựng kế hoạch cụ thể chỉ đạo sát sao, giáo
viên tại các nhóm lớp thường xuyên bổ sung đồ dùng đồ chơi, xây dựng môi
trường trong và ngoài lớp phong phú để trẻ được vui chơi và trải ngiệm.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi nghiên cứu về "Một

số biện pháp pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở Trường mầm non Ngọc Phụng” Những gì đạt
được còn rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất
mong nhận được sự góp ý, nhận xét của hội đồng khoa học Trường mầm non
Ngọc Phụng; Hội đồng khoa học phòng GD&ĐT Thường Xuân để bản thân tôi
có được những kinh nghiệm quý báu trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 22 tháng 05 năm 2019
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoàng Thị Phương

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Đỗ Thị Hằng

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Oanh, Nguyễn Thị Xuân, Giáo trình: Phương pháp cho trẻ
mầm non làm quen với môi trường xung quanh, Nhà xuất bản giáo dục
(2006).
2. Hoàng Thị Oanh, Nguyễn Thị Xuân, Kế hoạch tổ chức cho trẻ mầm non
làm quen với môi trường xung quanh, Nhà xuất bản giáo dục (2006).

3. Nguyễn Thạc, Trần lan Hương, Nguyễn Ngọc Châm, Các hoạt động khám
phá thiên nhiên cho trẻ mầm non, DAMT, Hà Nội (2006).
4. Nguyễn Thanh Thủy, Khám phá và thử nghiệm dành cho trẻ nhỏ, Nhà xuất
bản giáo dục (2004).
5. Hoàng Thị Phương, Giáo trình lí luận và phuong pháp hướng dẫn trẻ làm
quen với môi truong xung quanh.
6. Nguyễn Thanh Quyên, Tổ chức hướng dẫn HĐN cho SV trong quá trình
dạy học phần “Phương pháp cho trẻ mầm non khám phá khoa học về môi
trường xung quanh” Luận văn thạc sĩ khoa học GD, Trường đại học sư phạm
Hà Nội.

20



×