I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng. Mục tiêu và yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục được chỉ rõ trong điều 2, Luật Giáo dục năm 2005: “Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [1]. Vì vậy, bên cạnh việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức, kỹ năng cơ
bản trong học tập, lao động thì còn cần phải chú ý đến việc rèn kỹ năng sống
cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh
nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới. Rèn kỹ năng sống cho học
sinh giúp các em thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một
số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã
hội, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người; sống tích
cực, an toàn, hài hoà và lành mạnh,...để các em có thể tự tin, chủ động không bị
quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích
chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu
vươn lên.Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với
mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt
“đức, trí, thể, mỹ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu
mới của xã hội.
Trong thực tế hiện nay việc rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà
trường đã được chú ý đến, song nhiều trường nhất là các trường tiểu học còn
lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ năng
sống cho học sinh, đặc biệt là học sinh các lớp nhỏ. Chính vì thế học sinh thiếu
kỹ năng sống không ít, thể hiện: khi có người khách đến lớp các em không chào
hoặc chào rất nhỏ, thiếu tự nhiên; ít khi dùng lời nói “Cảm ơn”, “Xin lỗi”…
Nhiều học sinh khi tham gia thảo luận ngại nói ra những khó khăn của bản thân,
một số không biết giao tiếp theo những quy tắc tối thiểu trong gia đình và ngoài
xã hội; nhiều học sinh thiếu kỹ năng tự phục vụ cho bản thân kể cả vệ sinh cá
nhân, kỹ năng làm một số việc đơn giản như dọn dẹp, sắp xếp đồ dùng học tập,
phòng học, nhà cửa…Đặc biệt một số em không biết xử lý một số tình huống
trong cuộc sống, rất rụt rè, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh khi gặp khó
khăn.
Đối với học sinh tiểu học, việc hình thành các kỹ năng sống cơ bản trong
học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành
và phát triển nhân cách sau này. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp 1, là khối lớp
nhỏ nhất trong trường, tôi luôn trăn trở làm thế nào để việc rèn kỹ năng sống cho
học sinh đạt hiệu quả cao. Từ lý do đó tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu và đưa ra
"Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 ở Trường Tiểu
học Nga Lĩnh, Nga Sơn" nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục
trong nhà trường và góp phần vào thực hiện mục tiêu giáo dục con người phát
triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ.
1
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu, cơ sở lí luận, thực trạng đề xuất một số biện pháp
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 1 trường Tiểu học Nga Lĩnh - Nga Sơn - Thanh Hóa.
- Các phương pháp cách thức để giúp học sinh lớp 1 rèn kỹ năng sống.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về
rèn kỹ năng sống cho học sinh.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Điều tra các tình huống xem kĩ năng sống
của các em trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và sau khi áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp điều tra, quan sát: Quan sát các kĩ năng trong mọi sinh
hoạt trên trường.
- Phương pháp thực hành: Cho các em được tiếp xúc với các tình huống
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày để các em được va chạm với những tình
huống trong cuộc sống và biết cách xử lí các tình huống.
- Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm một số biện pháp rèn kỹ năng
sống cho học sinh thông qua các hoạt động để đúc rút kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một
hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công
việc nào đó phát sinh trong cuộc sống.
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc
đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con
người. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong
não bộ của con người. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông
qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn có thể quan niệm là việc tổ chức
các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia
một cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc
thay đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách
toàn diện; giúp học sinh có thể sống an toàn, khỏe mạnh và tích cực, chủ động
trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho
các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở
các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn
diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và
kỹ năng phù hợp.
2
Như chúng ta đã biết mục tiêu của giáo dục là giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy kỹ năng sống rất cần thiết với mỗi cá nhân nhất
là hình thành từ lứa tuổi tiểu học.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Về phía giáo viên:
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa; nếu
có dạy cũng chỉ là dạy qua loa, cho có.
- Giáo viên đã tổ chức được một số hoạt động nhằm rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh nhưng còn chung chung, chưa đi sâu, chưa có biện pháp cụ
thể thuyết phục, chưa thể hiện thường xuyên rõ nét.
- Giáo viên còn lúng túng cả về nội dung và biện pháp giáo dục; nhận
thức còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ là rèn kỹ năng sống cho học sinh là rèn
những gì?
- Giáo viên chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức
cho các hoạt động một cách phong phú và đa dạng nên chưa gây được sự hứng
thú của học sinh.
* Về phía học sinh:
- Khó khăn lớn nhất của trẻ khi chuyển từ mẫu giáo lên lớp 1 là sự thay
đổi môi trường hoạt động một cách triệt để. Một bên là vừa học vừa chơi, hoạt
động đa dạng; tính tự do, tùy hứng thú cá nhân còn nặng hơn tính chỉ đạo của cô
giáo. Bước sang lớp 1, hoạt động chủ đạo của học sinh là hoạt động học. Học
sinh phải tập trung học tập theo sự hướng dẫn của giáo viên. Mặt khác, giáo viên
lại thường xuyên đánh giá các hoạt động của trẻ. Chính vì vậy, đứng trước giáo
viên và các bạn, trẻ thường rụt rè, ngượng nghịu và đôi lúc mất bình tĩnh.
- Học sinh chỉ biết học kiến thức qua sách vở, khả năng ứng phó với các
tình huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều.
- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, còn e dè sợ sệt chưa mạnh dạn tham gia các
hoạt động tập thể một cách tích cực.
* Về phía phụ huynh:
- Quan niệm của đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi
Toán, Tiếng Việt mà không cần tham gia các hoạt động khác.
- Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm hiểu kiến thức mà
chưa nghĩ đến việc rèn kĩ năng sống cho con, hướng cho con em mình làm tốt
hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình.
- Phụ huynh hiện nay có xu hướng bao bọc con quá mức, lo sợ quá mức
nên hầu như không cho con tham gia vào các hoạt động thực nghiệm, kể cả
những công việc đơn giản tự phục vụ bản thân.
3
Từ thực tế trên cho thấy: đa số học sinh Tiểu học nói chung và học sinh
lớp 1 nói riêng đều thiếu kĩ năng sống dù là những kĩ năng đơn giản nhất như kĩ
năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp… Nhiều em không thể
tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài
việc học. Suốt ngày chỉ lo học. Nhiều em còn không biết giao tiếp theo những
quy tắc tối thiểu nhất trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Hiện tượng trẻ em
ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong
giao tiếp, thiếu kĩ năng từ chối trước những dụ dỗ của bạn bè, kẻ xấu, …
Để nắm rõ hơn về kĩ năng sống của học sinh, ngay từ đầu năm học 2018 2019 khi nhận lớp 1A trường Tiểu học Nga Lĩnh tôi đã tiến hành quan sát trực
tiếp học sinh lớp mình tham gia hoạt động học tập, vui chơi, giao tiếp hằng ngày,
… kết quả khảo sát 30 học sinh trong lớp vào tháng 9/2018 thu được như sau:
Mức độ đạt được
Kỹ năng sống
Kĩ năng quan tâm, chia sẻ
Kĩ năng nói lời cảm ơn, xin lỗi
Kĩ năng nói lời yêu cầu, đề nghị
Kĩ năng tự phục vụ
Kĩ năng hợp tác nhóm
KN thuyết trình trước đám đông
Kĩ năng tự tin
Kĩ năng sử dụng các vật dụng
lao động: dao, kéo, chổi, liềm…
SL
5
5
6
5
6
5
8
%
16,6
16,6
20
16,6
20
16,6
26,6
SL
5
2
4
3
5
5
5
%
16,6
6,6
13,2
10
16,6
16,6
16,6
SL
10
10
10
11
6
9
5
%
33,4
33,4
33,4
36,7
20
30,1
16,6
Chưa đạt
yêu cầu
SL
%
10
33,4
13
43,4
10
33,4
11
36,7
13
43,4
11
36,7
12
40,2
8
26,6
5
16,6
7
23,4
10
Tốt
Khá
Đạt yêu cầu
33,4
Qua thống kê khảo sát cho thấy: số học sinh có kỹ năng sống được đánh
giá là tốt, khá còn chiếm tỷ lệ thấp, mà số học sinh kỹ năng sống cơ bản còn
chưa đạt yêu cầu chiếm tỷ lệ cao.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 1, tôi xin
đề xuất một số giải pháp sau:
3.1. Biện pháp 1: Xác định và lựa chọn các kĩ năng sống cần thiết, phù hợp
đối với học sinh lớp 1.
Muốn làm tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường
trước hết giáo viên phải xác định rõ các kỹ năng cần giáo dục cho học sinh. Từ
đó lựa chọn được những kĩ năng phù hợp với lứa tuổi các em để giáo dục.
Như chúng ta đã biết kĩ năng sống cần thiết cho mọi người, mọi lứa tuổi
và phải được hình thành dần. Đối với mỗi lứa tuổi khác nhau cần hình thành
những kĩ năng tương ứng, thích ứng với từng giai đoạn. Chính vì vậy, để giáo
dục được kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên phải lựa chọn, xác định rõ và
nắm vững những kĩ năng sống cần giáo dục cho trẻ. Theo cuốn “Cẩm nang giáo
4
dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học” thì đối với trẻ 6 - 7 tuổi (tương ứng với
HS lớp 1) cần giáo dục cho các em một số kĩ năng sống sau:
- Kĩ năng tự phục vụ: tự ăn, tự mặc quần áo, tự vệ sinh thân thể, tự sắp đồ
dùng học tập, tự giác học bài.
- Kĩ năng thuyết trình trước đám đông, kĩ năng giao tiếp (nói lời yêu cầu,
đề nghị; cảm ơn, xin lỗi) trong gia đình và ở nhà trường: giao tiếp với ông bà,
cha mẹ, với anh chị em, với khách, với thầy cô, bạn bè…
- Kĩ năng sử dụng các vật dụng thông thường trong gia đình (chổi quét
nhà, khăn lau, dao, kéo, nồi cơm điện, ti vi, điện thoại,…)
- Kĩ năng giữ gìn quần áo, đồ dùng, đồ chơi của mình và chia sẻ với bạn.
- Kĩ năng yêu mến, chăm sóc con vật nuôi trong nhà, cây cối ở gia đình,
nhà trường, công viên.
- Kĩ năng tự tin.
- Kĩ năng tôn trọng, quan tâm đến bản thân và người khác.
- Kĩ năng hợp tác nhóm.
Như vậy, việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi, đối
tượng học sinh sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung, biện pháp trọng
tâm để dạy trẻ.
3.2. Biện pháp 2: Xây dựng mối quan hệ thân thiện, gần gũi giữa giáo viên và
học sinh, giữa các em học sinh với nhau.
Học sinh lớp 1 vừa bước chân vào trường Tiểu học, các em còn rất bỡ ngỡ
với môi trường mới, thầy cô mới và có thêm những bạn bè mới. Bên cạnh đó
nhiều em còn rất nhút nhát, rụt rè. Một trong những trở ngại của học sinh lớp 1
là việc kết bạn. Nhiều khi các em bối rối trong môi trường mới nên không thể
ngay một lúc làm quen được với những bạn khác. Chính vì vậy để giúp các em
nhanh chóng hòa nhập, thấy thoải mái, tự nhiên tôi đã thực hiện một số việc sau:
- Cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để tạo điều kiện kết bạn
cho trẻ, qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn
hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay lãng mạn...Và tiếp tục qua những
tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử
chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
- Tạo sự gần gũi và gắn kết giữa các học sinh với nhau bằng cách: sắp xếp
thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân trước lớp, động viên khuyến
khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như
mong muốn của các em. Không phải tất cả các học sinh đều có thể tự nhiên giới
thiệu được trước lớp, thế nên đầu tiên hãy cho những trẻ mạnh dạn, xung phong
thực hiện trước. Giáo viên động viên, khuyến khích các em, rồi lần lượt đến các
em khác. Như vậy các em sẽ thấy đây là một hoạt động rất tự nhiên, nhưng thực
tế đây chính là bài học đầu tiên về kĩ năng giao tiếp trước đám đông của trẻ lớp
1. Sau này các em sẽ tự nhiên hơn khi giao tiếp trước cô giáo, trước các bạn.
5
- Luôn để học sinh được nói lên ý kiến của mình, đặc biệt là với những trẻ
nhút nhát rụt rè. Đó có thể là những suy nghĩ hết sức ngây ngô thậm chí có phần
khó hiểu tuy nhiên lại là cơ hội để trẻ thể hiện bản thân và giáo viên có thể chỉ
bảo uốn nắn. Nhờ đó kỹ năng giao tiếp của trẻ sẽ được cải thiện đáng kể làm
nâng cao kỹ năng sống cho trẻ.
- Tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm bằng
cách: dành thời gian quan tâm, chuyện trò, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, động
viên các em. Khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy
nghĩ, những quan sát của mình với cô, với bạn một cách thoải mái, tự nhiên. Có
thể giờ ra chơi giáo viên cùng các em xem một quyển truyện tranh, hướng dẫn
các em chơi những trò chơi dân gian, giúp các em chải, buộc lại bím tóc… Đây
là hoạt động giúp giáo viên và học sinh hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường
học tập thân thiện - Nơi trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các
em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình. Đây cũng là một điều
kiện rất quan trọng để phát triển kĩ năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh
không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp
đặt.
Bằng những cách trên, tôi đã giúp các em cảm thấy rất tự tin, thoải mái
khi giao tiếp cùng giáo viên, bạn bè. Qua đó giáo viên cũng có những điều
chỉnh, uốn nắn kịp thời khi các em sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, thái độ
giao tiếp… phù hợp với từng hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp.
Như vậy, việc xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và
học sinh, giữa học sinh và học sinh sẽ giúp các em cởi mở hơn trong giao tiếp,
bộc lộ cử chỉ và cảm xúc của mình một cách tự nhiên hơn. Từ đó giáo viên có
thể năm bắt được cụ thể những kỹ năng nào học sinh đã thực hiện tốt và những
kỹ năng nào cần phải bổ sung và rèn luyện.
3.3. Biện pháp 3: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các môn
học.
Trong kế hoạch chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học Ban giám hiệu luôn
đặt ra yêu cầu: chú trọng giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Tuy nhiên giáo dục kĩ năng sống không phải là một môn học. Chính vì vậy, một
trong những con đường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung
và học sinh lớp 1 nói riêng là thông qua các môn học, nhất là các môn: Tiếng
Việt, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Thủ công, An toàn giao thông ....
Trong chương trình lớp một, ở môn Tiếng Việt, tất cả các bài đều có phần
luyện nói theo chủ đề như: Bé tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn;
Vâng lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp của cha mẹ; Những người bạn
tốt; Nói lời xin lỗi; Sức khỏe là vốn quý nhất…Đây chính là cơ hội để cho học
sinh bộc lộ kĩ năng giao tiếp và cũng là thời điểm để giáo viên rèn kĩ năng giao
tiếp cho các em. Thông thường, ở mỗi phần luyện nói tôi chỉ gợi mở sau đó cho
các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Như khi dạy
6
Tiếng Việt chủ đề luyện nói: "Bé tự giới thiệu" (Bài 41- Sách giáo khoa Tiếng
Việt 1- Tập 1) tôi đưa ra nội dung: “Em hãy giới thiệu về bản thân em và làm
quen với mọi người”. Sau khi cho các em thực hiện trong nhóm 2, tôi tổ chức
cho các em đứng thành vòng tròn trước lớp, tự giới thiệu về tên và sở thích của
từng em và làm quen với các bạn xung quanh. Lúc đầu các em rất e dè, không tự
tin khi nói về mình nhưng tôi đã khuyến khích, động viên, giúp đỡ, lưu ý cách
xưng hô phù hợp, những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hoà đồng thân thiện thì các em đã thực hiện rất tốt. Nhiều em đã mạnh
dạn, tự tin đứng giới thiệu trước lớp.
Bên cạnh việc rèn kĩ năng giao tiếp, qua mỗi chủ đề luyện nói giáo viên
còn có thể lồng ghép giáo dục thêm một số kĩ năng sống khác liên quan cụ thể
đến chủ đề đó như: kĩ năng nói lời cảm ơn, xin lỗi (chủ đề “Nói lời xin lỗi” ); kĩ
năng tự phục vụ (chủ đề “Giúp đỡ cha mẹ”); kĩ năng sử dụng một số vật dụng
đơn giản: chổi, dao, kéo…(chủ đề: “Giúp đỡ cha mẹ”)…
Học sinh lớp 1A thực hành luyện nói chủ đề: “Bé tự giới thiệu”
Tóm lại, trong môn Tiếng Việt 1 nội dung luyện nói trong các tiết là một
phần không thể xem nhẹ. Giáo viên cần tổ chức bằng những hình thức phong
phú để phát huy tính tích cực của học sinh, qua đó rèn luyện học sinh kĩ năng
giao tiếp phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh giao tiếp, tạo điều kiện cho các
em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn.
Bên cạnh môn Tiếng Việt, có lẽ Đạo đức là môn học gắn liền nhất với
việc giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh lớp 1. Cụ thể, thông qua môn Đạo
7
đức giáo viên giáo dục, rèn cho học sinh kỹ năng giao tiếp ứng xử như: Biết
nhận lỗi và sửa lỗi; biết nói lời yêu cầu, đề nghị; lịch sự khi nhận và gọi điện
thoại; lịch sự khi đến nhà người khác; kỹ năng làm việc nhà; kĩ năng sắp xếp các
đồ dùng gọn gàng ngăn nắp; kĩ năng trung thực (trả lại của rơi), kĩ năng tôn
trọng, quan tâm đến bản thân và người khác (Giúp đỡ người khuyết tật); kỹ năng
giữ gìn vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường (giữ trật tự, vệ sinh nơi công
cộng).
Ví dụ: Khi dạy Đạo đức bài 12: “Cảm ơn và xin lỗi” tôi đã tiến hành kết
hợp giáo dục cho học sinh kĩ năng giao tiếp, ứng xử với mọi người, đó là: biết
cảm ơn và xin lỗi phù hợp trong từng huống cụ thể qua trò chơi “Ghép hoa” như
sau:
- Giáo viên chia nhóm, phát cho mỗi nhóm 2 nhị hoa (một nhị ghi từ
“Cảm ơn”, một nhị ghi từ “Xin lỗi”) và các cánh hoa (trên mỗi cánh hoa là một
tình huống cần cảm ơn hoặc xin lỗi)
- Giáo viên yêu cầu ghép hoa.
- Học sinh làm việc theo nhóm: lựa chọn những cánh hoa có ghi tình
huống cần nói cảm ơn và ghép với nhị hoa có từ “Cảm ơn” đề làm thành “Bông
hoa cảm ơn”. Đồng thời cũng tương tự như vậy làm thành “Bông hoa xin lỗi”.
- Các nhóm trình bày sản phẩm của mình.
- Tổ chức nhận xét, tuyên dương nhóm có những bông hoa đẹp (ghép
đúng).
- GV lưu ý cho học sinh: Cần nói lời cảm ơn khi được người khác quan
tâm, giúp đỡ. Cần nói lời xin lỗi khi mắc lỗi, khi làm phiền người khác.
Mỗi bài học của môn Đạo đức đều gắn với những hành vi đạo đức vì vậy
giáo viên cần lồng ghép giáo dục cho học sinh cách ứng xử khi gặp những hành
vi đó bằng cách cho học sinh được trải nghiệm, thực hành hành vi đạo đức vừa
học để giúp các em ghi nhớ, khắc sâu từ đó hình thành kĩ năng ứng xử phù hợp
trong cuộc sống hằng ngày cho học sinh.
Để rèn kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi thường vận dụng thông
qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống
hằng ngày của các em. Như trong môn Tự nhiên và xã hội: Ở bài: "Ăn uống
hằng ngày" tôi cho học sinh thảo luận nhóm và lên thực đơn cho các bữa ăn
trong một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh
nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy
đủ cần đảm bảo các chất ... Sau đó học sinh sẽ được chơi trò “Đi siêu thị”. các
em sẽ tự mình mua sắm đồ ăn, thức uống một bữa ăn cho gia đình.
Việc rèn luyện kĩ năng sống thông qua các môn học đã tạo ra được thói
quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào
quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến
hay để giải quyết một vấn đề nào đó. Các em làm việc tích cực, vui vẻ.Vì mỗi
em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin
mạnh dạn. Hiệu quả giáo dục kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con
số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: luôn hoà đồng
8
với bạn bè; tự tin khi nói năng ... Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm
việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động
trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không
khí học tập, lao động trở nên sôi nổi hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp
các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý
trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn đưa ra nhiều tình huống tạo
sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với
nhau.
Ngoài ra tôi chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học. Ai
cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập
tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt
cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức
khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không
làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị:
Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Tôi rèn luyện sức khoẻ cho các em
qua các tiết: Ở môn Tự nhiên và xã hội: Các bài: “Vệ sinh thân thể; Hoạt động
và nghỉ ngơi; Ôn tập con người và sức khoẻ; Trời nắng, trời mưa...” giáo dục các
em hiểu rằng thân thể sạch sẽ giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết những việc nên
làm và không nên làm để cơ thể luôn sạch sẽ, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá
nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có
hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để
có sức khoẻ tốt. Có ý thức bảo vệ sức khoẻ khi đi dưới trời nắng, trời mưa.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các
thương tích khác tôi đã giáo dục các em qua các bài học An toàn giao thông với
những tình huống thường gặp. Chẳng hạn:
- Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu gặp đèn đỏ người và xe phải như thế
nào?
- Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu, khi nào thì người và xe được phép đi?
- Khi đi bộ trên đường phố muốn qua đường em phải đi ở đâu?
- Nếu đường không có vỉa hè chúng ta nên đi bộ ở đâu?
- Nếu chơi gần đường ray xe lửa sẽ nguy hiểm như thế nào?
- Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo
hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?
- Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?
Qua các tình huống, câu hỏi…tôi hướng dẫn cho các em tránh các tai nạn
trên đường như: chấp hành tín hiệu đèn giao thông; đi bộ trên vỉa hè, nếu không
có vỉa hè cần đi sát mép đường bên phải; không được chạy lao ra đường, không
được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi đi trên tàu,
xe, ... Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp
phải.
9
Hoạt động chủ đạo của học sinh lớp 1 là hoạt động học. Vì vậy việc lồng
ghép giáo dục kĩ năng sống qua các môn học là rất cần thiết. Tuy nhiên cần lồng
ghép khéo léo, phù hợp. Tuỳ từng bài, tuỳ từng nội dung kiến thức, giáo viên có
thể lồng ghép rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách hợp lý, hiệu quả. Nói tóm
lại việc giáo dục kĩ năng sống trong các môn học là vô cùng quan trọng. Yêu cầu
mọi giáo viên phải tuân thủ và thục hiện tốt theo quy định của chương trình đã
đề ra.
3.4. Biện pháp 4: Rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong những hoạt động mà
học sinh rất yêu thích vì nội dung phong phú, hình thức tổ chức đa dạng, linh
hoạt. Chính vì thế thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh là một trong những biện pháp rất hữu hiệu.
Nội dung các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tiến hành trong
các tiết sinh hoạt lớp (1 tiết/tuần), tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp (1 tiết/tuần)
và một số hoạt động do Đội tổ chức.
Thông thường, một tiết sinh hoạt lớp sẽ được tiến hành theo các bước sau:
- Giáo viên sơ kết các hoạt động trong tuần.
- Giáo viên nhận xét những ưu, khuyết điểm trong tuần.
- Động viên, khuyến khích những học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện,
học tập; Nhắc nhở những tồn tại (nếu có).
- Phổ biến kế hoạch tuần tới.
Với quy trình trên học sinh sẽ cảm thấy rất nhàm chán, một số em còn
cảm thấy nặng nề (nếu bản thân trong tuần mắc lỗi). Đế khắc phục tình trạng đó
tôi đã đổi mới hình thức của tiết sinh hoạt bằng cách: đưa một số trò chơi vào
tiết này. Mục đích là biến giờ sinh hoạt lớp thành một buổi vui chơi với nhiều
trò chơi khác nhau mà nội dung được giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị trước.
Các trò chơi này phải được lựa chọn và có chủ đích nhằm giáo dục kỹ năng
sống tương ứng cho học sinh. Có thể kể ra một số hoạt động, trò chơi được áp
dụng trong tiết sinh hoạt như:
* Trò chơi : Xếp hình.
Cách chơi: Trước buổi sinh hoạt, giáo viên chọn ra một số các hình khác
nhau, số hình này tương đương với 1/2 số học sinh. Cắt những hình này ra làm
đôi. Trong giờ sinh hoạt, phân phát một nửa của hình đó cho mỗi học sinh
một cách ngẫu nhiên. Cho các học sinh đi lại quanh phòng và ghép lại với người
có nửa hình còn lại phù hợp. Khi mà một học sinh đã tìm ra được người có nửa
hình còn lại ghép phù hợp với mình thì học sinh sẽ phỏng vấn nhanh người đó
theo chủ đề của từng tuần.
Ví dụ:
- Bạn hãy kể một số việc tốt bạn đã làm trong tuần qua.
- Hãy kể một số công việc mà bạn đã giúp đỡ ông bà, cha mẹ.
- Bạn đã làm gì để giữ gìn trường lớp luôn xanh, sạch, đẹp?
- Bạn hãy kể một số cảnh đẹp của đất nước. Bạn thích cảnh đẹp nào nhất?
* Trò chơi: Miêu tả
Cách chơi: Giáo viên chuẩn bị một bức tranh, cho học sinh chơi theo
nhóm 3 - 4 em. Nhìn bức tranh về phong cảnh, con người hoặc đồ vật sau đó cất
tranh, học sinh kể lại những gì các em nhớ. Ai nhớ nhiều chi tiết hơn sẽ là người
chiến thắng.
10
*Trò chơi: Tìm báu vật.
Đây là một ý tưởng hiệu quả để dạy học sinh nhận biết những vật dụng
thiết yếu từ môi trường xung quanh. Qua trò chơi này học sinh có cơ hội để học
tập kĩ năng sinh tồn.
Cách chơi:
- GV chuẩn bị sẵn một số vật dụng, đồ ăn…
- Trong khoảng 1 phút, học sinh phải chọn được 5 đồ vật mà em cho là
thiết yếu nhất.
- Học sinh nào chọn đúng, nhanh sẽ chiến thắng.
- Giáo viên đánh giá, giải thích về các sự lựa chọn của học sinh, qua đó
giáo dục cho các em đâu là những vật dụng thiết yếu.
Việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào giờ sinh hoạt lớp làm cho tiết học đỡ
nhàm chán, nặng nề đồng thời giúp học sinh rèn kĩ năng sống và phát huy được
tính tích cực, khả năng của từng cá nhân.
Đa dạng hóa các loại hình hoạt động, các hình thức tổ chức hoạt động
ngoài giờ lên lớp là yếu tố quan trọng thu hút học sinh tích cực tham gia. Sự mới
lạ bao giờ cũng có sức hấp dẫn đối với học sinh, khiến các em say mê khám phá.
Qua đó các em có dịp bộc lộ hết khả năng của mình cũng như hình thành và rèn
luyện các kĩ năng sống cần thiết. Vì vậy trong mỗi tiết Hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp của từng tuần tôi luôn vận dụng những hình thức tổ chức phong phú,
đa dạng để kết hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Để giúp học sinh được trải nghiệm, tôi tổ chức cho học sinh một số
chuyên đề phù hợp với lứa tuổi như:
*Chuyên đề giáo dục kĩ năng văn nghệ, vui chơi:
- Hát đơn ca, đọc thơ.
- Hát đồng ca.
- Trò chơi (dân gian và hiện đại)
- Chơi nhạc cụ.
- Đóng kịch.
*Chuyên đề giáo dục kĩ năng nghệ thuật bằng tay:
- Trang trí hộp quà
- Nặn tạo hình.
- Gấp các con vật
- Tô màu, trang trí tranh
- Làm bưu thiếp
*Chuyên đề giáo dục kĩ năng tự phục vụ:
- Sắp xếp góc học tập
- Tổ chức sinh nhật
- Gấp quần áo
- Vệ sinh thân thể
*Chuyên đề giáo dục nữ công gia chánh:
- Đan
- Thêu
- Nấu cơm
- Cắm hoa
- Bày đĩa hoa quả.
*Chuyên đề giáo dục kĩ năng bảo vệ môi trường.
- Vệ sinh trường, lớp xanh, sạch, đẹp.
11
- Trồng cây đầu xuân.
- Trồng và chăm vườn thuốc nam, bồn hoa.
Học sinh lớp 1A thực hành bày đĩa hoa quả, mâm cỗ trung thu
Qua những buổi thực hành các chuyên đề, các em rất hứng thú và biết sử
dụng thành thạo một số vật dụng đơn giản trong cuộc sống hằng ngày. Đồng thời
cũng rèn được các kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ năng thuyết trình,…
Bên cạnh đó mỗi tháng học sinh sẽ có một buổi hoạt động tập thể. Nếu
vận dụng tốt thì đây chính là cơ hội cho học sinh được thể hiện mình đồng thời
cũng là cơ hội cho các em rèn những kĩ năng sống như kĩ năng hợp tác nhóm, kĩ
năng quan tâm, chia sẻ, kĩ năng thuyết trình,…Vì thế tôi thường tổ chức một số
hoạt động khác như: Rung chuông vàng, hái hoa kiến thức, biểu diễn văn nghệ,
biểu diễn thời trang, thi cây cọ nhí, thi trang trí góc học tập… (Có thể kết hợp
trong khối)
Học sinh khối 1 tham gia thi Rung chuông vàng
12
Ví dụ về mô hình một buổi hoạt động ngoại khóa rèn kĩ năng sống cho
học sinh lớp 1:
- Thời gian: 1 buổi
- Địa điểm: Sân trường hoặc lớp học
- Hình thức: Chia lớp thành 3, 4 đội.
- Mời Ban cố vấn, đánh giá, ghi điểm.
Chuẩn bị:
- Chuẩn bị cho HS một số tình huống đóng vai.
- Cây hoa để hái hoa dân chủ; đồ dùng phần thi năng khiếu và phần
thưởng. (Nếu thi vẽ tranh thì chuẩn bị giấy vẽ, màu, vị trí cho nhóm vẽ,.... Nếu
thi xếp mâm hoa quả thì cần chuẩn bị mâm, một số hoa quả, vị trí đặt mâm cho
nhóm thi thể hiện,...)
Nội dung chương trình:
* Hái hoa dân chủ:
- Mỗi đội có 3 - 4 đại diện bắt thăm trả lời, mỗi em 1 câu hỏi.
+ Tự giới thiệu về mình (họ và tên, lớp, sở thích,...)
+ Hái hoa, thực hiện theo nội dung yêu cầu.
Hệ thống câu hỏi:
- Câu 1: Thứ bảy, được nghỉ học, em ở nhà một mình, lỡ tay làm rơi, vỡ
bình hoa của mẹ. Khi mẹ về em sẽ nói như thế nào?
- Câu 2: Trong lớp, em ngồi bàn thứ 4, em nhìn lên bảng không được rõ
chữ lắm, em sẽ làm gì?
- Câu 3: Em lỡ tay làm rách sách của bạn, em sẽ làm gì?
- Câu 4: Cô giáo dặn về nhà sưu tầm côn trùng để làm đồ dùng học tập,
em ra ngoài ruộng bắt châu chấu, bắt dế; vậy mà em bị bố mắng bắt đi về nhà.
Khi đó em sẽ làm thế nào?
- Câu 5:Ăn cơm xong, mẹ nhắc em quét nhà trong khi em muốn xem
phim hoạt hình, em sẽ giải quyết thế nào?
- Câu 6: Em đang học bài, bạn đến rủ đi chơi, em sẽ xử lí như thế nào?
- Câu 7: Trong giờ học vẽ, bạn ngồi cạnh em quên mang hộp màu mà em
lại có, em sẽ làm gì?
- Câu 8: Chiều thứ bảy, nhà trường tổ chức trồng vườn thuốc nam mà bố
em lại hứa cho em đi chơi công viên, em sẽ làm gì?
- Câu 9: Trên đường đi học về, qua quán điện tử, Hoà rủ Quân vào xem,
Quân chần chừ chưa vào, Hoà bảo chỉ vào xem thôi như mình xem ti vi ở nhà
chứ mình có chơi đâu có nhiều trò hay lắm. Nếu em là Quân em sẽ làm gì?
- Câu 10: Ở cạnh nhà Hà có một quán làm tóc, chị Uyên làm thuê ở đó.
Thỉnh thoảng chị cho Hà kẹo, lúc rỗi rãi thường rủ Hà sang chơi. Một hôm nhà
Hà không có ai ở nhà, chị Uyên rủ Hà đi xuống thành phố chơi với chị. Nếu em
là Hà em có đi chơi cùng chị Uyên không ? Vì sao?
- Câu 11: Anh Sinh rủ An đi chơi bi-a, anh nói anh sẽ trả tiền cho An chơi
cùng. Nếu em là An em có đi chơi cùng anh Sinh không? Vì sao?
* Đóng vai xử lý tình huống: Nhóm HS đóng vai (có chuẩn bị trước) xử
lý tình huống có liên quan đến rèn kỹ năng sống.
- Tình huống 1: Trong giờ ra chơi Minh và Khánh chơi trò chơi đuổi bắt,
Minh đang chạy không may va phải Tuấn, có xảy cãi nhau,...(HS tự diễn tiếp và
giải quyết tình huống).
- Tình huống 2: Em gọi điện thoại đến nhà bạn để hỏi thăm khi bạn ốm
nhưng mẹ bạn là người cầm máy. Em ứng xử như thế nào?
- Tình huống 3: Em đi chợ huyện cùng mẹ và bị lạc, em xử lí như thế
nào?
13
- Tình huống 4: Em gọi điện thoại đến nhà bạn để hẹn bạn đi đá bóng
nhưng bấm nhầm số máy nhà người khác. Em ứng xử như thế nào?
Sau mỗi tình huống học sinh trả lời hoặc đóng vai giáo viên cần chốt
cách giải quyết đúng, lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như: Biết
nhận lỗi và sửa lỗi; kĩ năng nói lời yêu cầu, đề nghị; kĩ năng quan tâm, chia sẻ
với bạn bè; kĩ năng nói lời từ chối, …
*Phần thi tài năng: (Phần thi này yêu cầu có sự kết hợp hài hoà của các
thành viên trong nhóm, vì thế HS cần biết cách phân công nhau cùng làm, biết
lắng nghe, biết lựa nhau cùng hợp tác trong công việc chung)
VD: 3 nhóm thi, mỗi nhóm vẽ chung một bức tranh.
VD: 3 - 4 nhóm thi, mỗi nhóm xếp một mâm cỗ hoa quả.
VD: biểu diễn văn nghệ, Arôbic, …
*Tổng kết:
- Đại diện Ban cố vấn đánh giá, nhận xét chung.
- Tuyên dương, trao thưởng cho các đội và các nhân xuất sắc.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, học sinh được trải nghiệm,
được rèn những kĩ năng sống cơ bản thông qua nhận thức, cách ứng xử với bạn
bè, người lớn…trong những tình huống cụ thể từ đó giúp các em linh hoạt xử lí
trong mọi trường hợp.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các
em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng là tôi luôn chú ý động viên,
tuyên dương kịp thời khi các em có hành vi, hành động đẹp trong cuộc sống.
Bên cạnh đó các hoạt động ngoài giờ lên lớp được bám sát chủ điểm hoạt
động hàng tháng giúp cho việc giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động
này trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả; đảm bảo tính chặt chẽ và hệ thống trong
công tác giáo dục toàn diện cho học sinh ở nhà trường. Do vậy, hàng tuần, hàng
tháng, giáo viên cần chủ động lên kế hoạch và kết hợp với Đội Thiếu niên và
nhà trường để tổ chức cách hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh sao cho
phù hợp với điều kiện của địa phương và nhà trường. Các hoạt động này cần
bám sát các chủ đề hàng tháng được thực hiện đồng tâm từ lớp 1 đến lớp 5 theo
văn bản hướng dẫn tạm thời của Vụ Giáo dục Tiểu học như sau :
Chủ đề tháng 9 : Mái trường thân yêu của em.
Chủ đề tháng 10 : Vòng tay bạn bè.
Chủ đề tháng 11 : Biết ơn thầy, cô giáo.
Chủ đề tháng 12 : Uống nước nhớ nguồn.
Chủ đề tháng 1 : Ngày Tết quê em.
Chủ đề tháng 2 : Em yêu tổ quốc Việt Nam.
Chủ đề tháng 3 : Yêu quý mẹ và cô giáo.
Chủ đề tháng 4 : Hòa bình và hữu nghị
Chủ đề tháng 5 : Bác Hồ kính yêu.
Các chủ đề này thường gắn với các ngày lễ lớn trong năm như: trong dịp
lễ khai giảng năm học mới, kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập
Quân đội Nhân dân Việt Nam, lễ hội Tết cổ truyền của dân tộc, ngày thành lập
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, ngày sinh nhật của Bác… Ở mỗi chủ
đề giáo viên cần tổ chức nhiều các hoạt động khác nhau để tăng sức hấp dẫn của
chương trình như: văn nghệ, kể chuyện, trò chơi, thi đấu thể thao, thi tìm hiểu về
An toàn giao thông, tham quan thực tế, tổ chức giao lưu, thi rung chuông vàng,
…Qua đó học sinh có cơ hội trải nghiệm để hình thành những kĩ năng sống cần
thiết.
Ngoài việc tổ chức tốt các buổi hoạt động NGLL trong phạm vi của lớp,
trong các hoạt động ngoài giờ do trường tổ chức tôi luôn động viên các em tham
14
gia một cách tích cực. Ví dụ: Trong những buổi chào cờ, tôi khuyến khích các
em xung phong trả lời những câu hỏi mà cô Tổng phụ trách Đội đưa ra, hay đọc
thơ, hát theo chủ điểm của tháng,… qua đó giúp các em tự tin khi giao tiếp trước
đám đông.
Bên cạnh đó tôi luôn nhắc nhở học sinh trong lớp biết quan tâm, giúp đỡ
bạn và mọi người xung quanh như cho bạn mượn đồ dùng học tập khi bạn lỡ
quên, ủng hộ bạn nghèo nhân dịp tết Nguyên đán, Tết trung thu… Qua đó rèn
cho học sinh kĩ năng quan tâm, chia sẻ.
Đây là một số hình ảnh học sinh lớp 1A tham gia hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp của nhà trường.
15
Học sinh lớp 1A tham gia biểu diễn thời trang, văn nghệ ngày 20/11
Học sinh lớp 1A tham gia các trò chơi dân gian
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong những hoạt động lôi
cuốn, tạo hứng thú cho học sinh. Vì vậy giáo viên cần đưa ra những hình thức
phong phú giúp các em rèn kĩ năng sống mà không gò bó, áp đặt.
Như vậy thông qua các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm. Tạo điều kiện
cho các em tham gia các hoạt động trải nghiệm nhiều hơn. Từ đó các em được
rèn luyện các kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống, kỹ năng giải quyết vấn đề, và
16
cũng là sân chơi bổ ích để các em có cơ hội phát huy sở trường năng lực của
mình tốt hơn. Bên cạnh đó các em còn có nhiều những hiểu biết về ý nghĩa của
các ngày lễ lớn thông qua các chủ đề.
3.5. Biện pháp 5: Kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh.
Giáo dục kĩ năng sống không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, mà còn
là trách nhiệm của gia đình và xã hội.
Vì sao để giáo dục giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có hiệu quả giáo viên
cần phải phối hợp cùng với gia đình? Vai trò, trách nhiệm của bố mẹ, gia đình
trong việc giáo dục kỹ năng sống là không thể thay thế. Gia đình là môi trường
thường nhật mà con gắn bó suốt cả cuộc đời. Bố mẹ là người thân thiết, luôn
đồng hành cùng con trong mọi chặng đường đời và cũng là người hiểu con nhất.
Gia đình là nơi đầu tiên trong đời trẻ được trải nghiệm và hình thành kĩ năng
sống: Từ 0 đến 6 tuổi trẻ được hình thành các thao tác bằng tay với các đồ vật
như cầm thìa, cầm đũa, … khi trẻ học nói, bố mẹ đã dạy con chào hỏi, cảm ơn,
xin lỗi, học lễ nghĩa với người lớn… đó là những bước đầu tiên học kỹ năng
sống. Rồi tiếp đến là các kĩ năng tự phục vụ đơn giản. Khi con đi học, giáo dục
kỹ năng sống là sự tiếp nối và nâng cao và mở rộng hơn trong những giai đoạn
đầu đời cho con.
Tuy nhiên hiện nay có một thực trạng hết sức phổ biến đó là trẻ em trong
gia đình được nuông chiều, được bố mẹ, người lớn làm thay cho mọi việc. Vì
vậy trẻ gần như lệ thuộc hoàn toàn vào người lớn, đến kĩ năng tự phục vụ cũng
không có. Chính vì thế mà việc hình thành kĩ năng sống của trẻ trong gia đình
đang cần phải xem lại.Và thầy cô giáo cần kết hợp với gia đình để việc giáo dục
kĩ năng sống đạt hiệu quả cao hơn. Để phát huy tốt vai trò của gia đình trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ tôi đã tiến hành một số việc sau:
- Ngay từ đầu năm học, tôi quan tâm, tìm hiểu nắm bắt tâm lí, đặc điểm
của từng học sinh trong lớp, đặc biệt chú ý những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn.
- Giữ mối quan hệ thân thiết, thường xuyên với phụ huynh, lấy số liên lạc
của phụ huynh từng em, trao đổi kịp thời khi học sinh có những biểu hiện, hành
vi cần nhắc nhở.
- Đổi mới nội dung buổi họp phụ huynh. Cụ thể:
+ Tổ chức họp phụ huynh thông báo đặc điểm tình hình của lớp.
+ Nêu tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh, tính cấp
bách của vấn đề kỹ năng sống cho học sinh.
+ Giáo viên tư vấn cho phụ huynh nội dung các kĩ năng sống cần giáo dục
cho trẻ. Thống nhất cùng phụ huynh phương pháp giáo dục đạo đức ở nhà. Phụ
huynh được tập huấn, nghiên cứu chương trình học, kỹ năng qua từng bài đạo
đức. Phụ huynh có nhiệm vụ nhắc nhở con em mình thực hiện hành vi đã học ở
nhà.
+ Tư vấn cho phụ huynh nhắc nhở con em mình thực hành hành vi đạo
đức theo từng bài học của môn Đạo đức. Đó là những kỹ năng giao tiếp trong
17
cuộc sống thể hiện đúng và lễ phép với người trên như: Đi học và học về biết
chào ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, cách chào đúng: khoanh tay nói vừa đủ nghe
một cách lễ phép. Biết tự giới thiệu họ tên của mình, họ tên bố mẹ, người thân.
Đầu tóc, quần áo gọn gàng. Biết lễ phép,vâng lời ông bà, cha mẹ, nhường nhịn
em nhỏ, đi bộ đúng quy định, đi học đúng giờ…
- Trong những buổi tổ chức chuyên đề giáo dục kĩ năng sống có thể phối
hợp với cha mẹ học sinh, mời phụ huynh cùng tham dự để phụ huynh có thêm
kinh nghiệm giáo dục.
- Giáo viên lập bảng theo dõi việc thực hành kĩ năng sống ở nhà của học
sinh, nhờ phụ huynh theo dõi, hàng tháng nộp lại để giáo viên đánh giá, xếp loại
cho từng em. Cũng từ kênh thông tin của phụ huynh, giáo viên sẽ điều chỉnh
hành vi của học sinh (nếu cần) để nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho
các em.
Tóm lại, ông bà, cha mẹ nào cũng mong muốn con em mình không những
học tập tốt mà còn chăm ngoan. Và có thể nói bố mẹ là người thầy đầu tiên dạy
con kĩ năng sống, còn người thân trong gia đình là những tấm gương để con học
tập và hoàn thiện các kỹ năng này. Vì vậy giáo viên cần phối hợp tốt với gia
đình để nâng cao hiệu quả trong công tác giáo dục nói chung và giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh nói riêng. Để kĩ năng sống của học sinh không những
được hình thành, trải nghiệm ở lớp, ở trường mà còn được rèn luyện thực hành
thường xuyên tại gia đình, trong cuộc sống hằng ngày. Nhờ làm tốt công tác
phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường mà nhiều học sinh đã có kĩ năng sống
rất tốt.
3.6. Biện pháp 6: Thực hiện tốt công tác động viên khen thưởng đối với học
sinh.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện kĩ năng
sống, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện kĩ
năng sống cho các em lớp tôi phụ trách.Trao đổi với Ban phân hội phụ huynh
cùng phối hợp và dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời, động viên các
em để tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Tôi theo
dõi hằng ngày, ghi vào sổ các em có biểu hiện tốt, trong tiết sinh hoạt cuối tuần
cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được tuyên dương.
Mỗi tháng tôi tổng kết 1 lần (vào tiết sinh hoạt lớp tuần cuối tháng), kết
hợp với bảng nhận xét, theo dõi việc rèn luyện, thực hành kĩ năng sống tại nhà
mà phụ huynh đánh giá để khen thưởng bằng những phần quà nhỏ cho những
em thực hiện tốt các kĩ năng sống. Những en này sẽ được ghi tên vào Bảng vàng
danh dự của lớp. Các em rất vui và hãnh diện khi được nhận những bông hoa
điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng.Vì thế các em không ngừng thi đua
cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cô giáo thưởng. Đây là
một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh
nhẹn hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, sau mỗi lần tổ chức một chuyên đề rèn kĩ năng sống hay sau
mỗi đợt thi đua, để động viên các em tôi còn tổ chức cho học sinh tiến hành tặng
hoa cho bạn em yêu quý nhất. Cách tiến hành như sau:
- Mỗi học sinh trong lớp chuẩn bị 1 bông hoa.
18
- Giáo viên nêu yêu cầu tặng hoa. (Tặng cho bạn mà em thấy thực hiện tốt
kĩ năng cô giáo vừa hướng dẫn trong chuyên đề, hoặc tặng cho bạn thực hành tốt
nhất các kĩ năng trong tháng vừa qua)
- Học sinh tự tặng hoa cho 1 bạn trong lớp.
- Tất cả các em cùng đếm số hoa mà mình nhận được. Những em nhận
được nhiều hoa của các bạn tặng sẽ được khen thưởng bằng một phần quà nho
nhỏ. Các em còn được tuyên dương dưới cờ trong tiết chào cờ đầu tuần, nêu
gương sáng cho các bạn học tập và noi theo.
Học sinh tặng hoa cho bạn thực hành tốt kĩ năng trong tháng
Học sinh được tặng quà, khen thưởng trong tiết Sinh hoạt lớp
Học sinh Tiểu học nói chung và đặc biệt là học sinh lớp 1 nói riêng, các
em rất thích được khen, vì vậy cần khuyến khích, động viên kịp thời khi thực
19
hiện tốt để phát huy tính tích cực của các em. Bên cạnh đó cũng cần nhắc nhở
nhẹ nhàng, giúp những em thực hiện chưa tốt điều chỉnh hành vi để các em tiến
bộ dần.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua quá trình nghiên cứu và triển khai áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng
sống cho học sinh lớp 1 ở Trường tiểu học Nga Lĩnh đã cho thấy kết quả rất tốt.
Đó là: đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng đồng thời
các em cũng vận dụng tốt vào sinh hoạt hằng ngày. Trong giao tiếp các em đã
mạnh dạn, tự tin, biết vận dụng những lời nói thân thiện, lễ phép vào thực tế;
những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành thói quen, được các em sử
dụng đúng lúc, phù hợp. Các em có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân,
biết thương yêu bạn bè trong lớp, trong trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến, quan
tâm, chia sẻ với các bạn có hoàn cảnh khó khăn,…
Bên cạnh đó học sinh đã có thái độ và hành vi tích cực, có khả năng nhìn
nhận vấn đề, giải quyết tình huống theo hướng tích cực, biết thích nghi với từng
hoàn cảnh cụ thể; có tinh thần tự chủ, có cách suy nghĩ, thái độ và hành vi tích
cực; hình thành lối sống lành mạnh, có đạo đức, có văn hóa, giao tiếp hiệu quả
với mọi đối tượng. Các em đã tích cực tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
hoạt động xã hội, hoạt động ngoại khóa, hoạt động tham quan, dã ngoại; các
hoạt động đoàn, đội, … Đây được xem là bước tiến quan trọng góp phần tạo
điều kiện cho việc hoàn thiện nhân cách các em ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường.
Không những vậy, thông qua các biện pháp thực hiện như đã nêu trên còn
giúp các em có được kĩ năng cơ bản trong học tập, làm việc, vui chơi giải trí
như: Các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết, quan sát, đưa ra ý kiến chia sẻ trong
nhóm; Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung; Kĩ năng làm việc theo
nhóm; Các kĩ năng tư duy logic, sáng tạo. Trong giao tiếp các em biết chào hỏi
lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng; Biết phân biệt hành vi đúng
- sai, phòng tránh tai nạn; Kĩ năng trình bày ý kiến, diễn đạt, thuyết trình trước
đám đông; Kĩ năng ứng phó với một số tình huống bạo lực học đường (khi tình
trạng bạo lực học đường giữa các em có thể xảy ra), …
Kết quả khảo sát đầu tháng 4/2019 với tổng số 30 học sinh như sau:
Kỹ năng sống
Kĩ năng quan tâm, chia sẻ
Kĩ năng nói lời cảm ơn, xin
lỗi
Kĩ năng nói lời yêu cầu, đề
nghị
Kĩ năng tự phục vụ
Kĩ năng hợp tác nhóm
KN thuyết trình trước đám
đông
Kĩ năng tự tin
Tốt
Mức độ đạt được
Đạt yêu
Khá
cầu
SL
%
SL
%
5
16,6
5
16,6
Chưa đạt
yêu cầu
SL
%
0
0
SL
20
%
66,8
23
77,4
5
16,6
2
6,6
0
0
20
66,7
6
20
4
13,3
0
0
22
19
73,4
63,4
5
6
16,6
20
3
5
10
16,6
0
0
0
0
20
66,7
5
16,6
5
16,6
0
0
22
73,4
3
10
5
16,6
0
0
20
Kĩ năng sử dụng các vật dụng
lao động: dao, kéo, chổi,
liềm…
20
66,7
4
13,3
6
20
0
0
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của
xã hội, các em không chỉ giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ
năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực,
vui vẻ. Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang
bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào
đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng.
Vì thế theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo
cần phải:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh.
- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy
các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
- Tập trung vào việc đầu tư soạn giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các
môn học cũng như trong các hoạt động giáo dục.
- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia
tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
- Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh
hoạt chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn cố gắng để
ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để
cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em
trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi
giáo viên chúng tôi phải cùng có trách nhiệm.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường luôn phát động, tổ chức các hoạt động với nội dung phong
phú để các em học sinh được tham gia và trải nghiệm.
- Tăng cường cơ sở vật chất trường học tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả cao.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Nga Lĩnh, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết
21
Mai Thị Lan
Hoàng Kim Hoa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục năm 2005.
2. Tài liệu hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của tác giả Hà Nhật Thăng NXB
giáo dục.
3. Một số tài liệu khác có liên quan đến đề tài trên mạng Enternet.
4. Ngô Thị Tuyển (Chủ biên): Hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dung thân
thiện môi trường dành cho các trường Tiểu học.
5. Ngô Thị Tuyển – Cẩm nang giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học –
Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
6. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học – Lớp 1 (Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam)
7. Cẩm nang giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học (Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam)
8. Tài liệu tập huấn Giáo dục kĩ năng sống - Bộ giáo dục và đào tạo
22
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.
Họ tên tác giả: Hoàng Kim Hoa
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Nga Lĩnh
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
Tên đề tài SKKN
Kinh nghiệm dạy tiết Tập
làm văn trả bài lớp 4.
Thiết kế một số trò chơi
góp phần đổi mới PPDH
trong giờ Tiếng Việt lớp 2
Thiết kế một số trò chơi
góp phần đổi mới PPDH
môn Toán 2 lớp 2.
Thiết kế một số trò chơi
góp phần đổi mới PPDH
trong giờ Tiếng Việt lớp 4.
Kinh nghiệm rèn kĩ năng
cảm thụ văn học cho học
sinh lớp 5.
Một số biện pháp rèn kĩ
năng cảm thụ văn học cho
học sinh lớp 5
Thiết kế một số trò chơi
học tập góp phần đổi mới
PPDH môn Đạo đức lớp 5.
Thiết kế một số trò chơi
học tập góp phần đổi mới
PPDH môn Tiếng Việt.
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 4 phân biệt Từ láy
và Từ ghép.
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 5 học tốt phân
môn Địa lí
Kết quả
đánh giá
xếp loại
Năm học
đánh giá
xếp loại
C
2001-2002
B
2006-2007
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2007-2008
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2008-2009
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2009-2010
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2010-2011
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2011-2012
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2012-2013
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2013-2014
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
B
2014-2015
Cấp đánh giá
xếp loại
Sở GD&ĐT
Thanh Hóa
Phòng GD& ĐT
Nga Sơn
23
11.
Một số biện pháp giúp học Phòng GD& ĐT
sinh lớp 5 học tốt phân
Nga Sơn
môn Lịch sử.
B
2015-2016
24
MỤC LỤC
TT
I.
1
2
3
4
II.
1
2
3
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
4
III
1.
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Biện pháp 1: Lựa chọn, xác định rõ các kĩ năng sống phù hợp
cần giáo dục cho học sinh lớp 1.
Biện pháp 2: Xây dựng mối quan hệ thân thiện, gần gũi giữa
giáo viên và học sinh, giữa các em học sinh với nhau.
Biện pháp 3: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
qua các môn học
Biện pháp 4: Rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các
hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm của từng tháng.
Biện pháp 5: Kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh
Biện pháp 6: Thực hiện tốt công tác động viên khen thưởng
đối với học sinh.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản than, đồng nghiệp và nhà trường.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
4
4
5
6
10
16
17
19
20
20
20
25