Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.19 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 4

Người thực hiện: Lê Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị : Trường Tiểu học Quảng Hải
SKKN môn : Chủ nhiệm lớp

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1-2
1
MỞ ĐẦU
1.1
2
Lí do chon đề tài
1.2
2
Mục đích nghiên cứu
1.3
2


Đối tượng nghiên cứu
1.4
2
Phạm vi nghiên cứu
1.5
2
Phương pháp nghiên cứu
2
NỘI DUNG
2.1
3-4
Cơ sở lý luận
2.2 Thực trạng công tác dạy và học giáo dục kỹ năng sống của
4
trường tiểu học.
2.2.1 Thuận lợi
4
2.2.2
4-5
Khó khăn
2.3 Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống
5
cho học sinh lớp 4.
2.3.1 Tăng cường công tác tự học, nghiên cứu tài liệu, tạp chí về
5-6
Giáo dục kĩ năng sống .
2.3.2 Giáo dục KNS cho học sinh Tiểu học thông qua các môn
6-7
học
2.3.3 Giáo dục kĩ năng sống qua đổi mới phương pháp dạy học

7-8
( phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN)
2.3.4 Giáo viên tăng cường công tác giáo dục kĩ năng sống qua hoạt
9- 13
động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
2.3.5 Phân luồng đối tượng trong việc giáo dục, rèn luyện kĩ năng 13-14
sống
2.3.6 Tăng cường xây dựng CSVC trong lớp học và sáng tạo trong
14
sử dụng CSVC để đáp ứng việc dạy học giáo dục kĩ năng sống.
2.3.7 Tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kĩ năng sống.
14-15
2.3.8 Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và gia đình trong giáo dục kĩ 15 - 16
năng sống.
2.4
16
Kết quả đạt được
3
KẾT LUẬN
3.1
17
Kết luận
3.2
17-18
Kiến nghị


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Theo UNESCO khẳng định 4 trụ cột của giáo dục là: “Học để biết, học để

làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống”. Trong những năm gần
đây giáo dục tiểu học đã được đổi mới về mục tiêu, nội dung và phương pháp
dạy học gắn với 4 trụ cột đó. Đặc biệt, việc rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong những nội dung
cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”. Từ năm học 2010- 2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương đưa nội
dung giáo dục kĩ năng sống đại trà vào các trường bằng cách tích hợp vào các
môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đáng chú ý hơn là từ
năm học 2013- 2014 đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho ra đời cuốn sách
dạy kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, điều đó chứng tỏ việc dạy học kĩ năng
sống cho học sinh tiểu học đã và đang được xem trọng.Việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan
tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh
và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy
đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội.[3]
Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo” đã khẳng định: Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp,
dạy tốt, học tốt, quản lí tốt;Tạo chuyển biến căn bản mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả, giáo dục đào tạo; ... Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam
đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài
việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn
phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có
thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới.
Trong năm học 2017 – 2018, Nghành giáo dục Quảng Xương triển khai thực
hiên đề án :“ Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kĩ năng
sống” do Ủy ban nhân huyện Quảng Xương phê duyệt đến tất cả các trường
học trên địa bàn huyện nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện .
Vậy kĩ năng sống là gì? Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của
mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội,

khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Kĩ năng sống
của mỗi người không phải tự nhiên có được mà phải hình thành dần qua quá
trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kĩ
năng sống được diễn ra trong nhà trường, gia đình và xã hội.Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực
trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường và
phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc
hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.[2]
Là giáo viên dạy lớp 4, tôi đã nhận thấy được việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay cũng như những
khó khăn, hạn chế của giáo viên và nhà trường. Vì vậy bản thân đã tự học tập,
nghiên cứu trang bị thêm cho mình về kiến thức, phương pháp và kĩ thuật dạy


giáo dục kĩ năng sống... nhằm tổ chức dạy học giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 4 có hiệu quả hơn. Với những lý do đó, tôi tiến hành nghiên cứu để
tìm “Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4” .
1.2 Mục đích nghiên cứu :
Đề xuất một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 ở
trường tiểu học Quảng Giao.
1.3 Đối tượng nghiên cứu :
Các kĩ năng sống của học sinh lớp 4 ở trường tiểu học Quảng Giao.
1.4 Phạm vi nghiên cứu :
Học sinh lớp 4 ở trường tiểu học Quảng Giao.
1.5 Phương pháp nghiên cứu :
- Nghiên cứu tài liệu : Đọc các tài liệu về tâm sinh lý lứa tuổi Tiểu học và
tài liệu liên quan tới giáo dục kỹ năng sống cho học sinh .
- Phương pháp quan sát : Quan sát thực tế học sinh trong lớp,trong khối
để nắm bắt tình hình thực tế về những kĩ năng sống mà các em đang có.
- Phương pháp đàm thoại gợi mở : Thực hiện phỏng vấn, hỏi đáp, điều

tra thông qua các bài học, hoạt động hằng ngày trên lớp hoặc ở nhà của học
sinh.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua nghiên cứu ,áp dụng các
phương pháp ,bản thân tự phân tích ,tổng hợp để tìm ra một số kinh nhiệm về
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả nhất.

2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận :


Từ năm học 2014-2015 việc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho ra đời cuốn sách
dạy kĩ năng sống cho học sinh tiểu học đã mang một luồng gió mới, nó như
một chiếc gậy dẫn đường cho giáo viên và học sinh trong việc dạy học kĩ
năng sống.
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà
con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng
tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những
người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức
của cuộc sống hằng ngày.
Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội
và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở,
giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản
thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống
được thể hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động
đến những hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành
động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.[3]
Thực hiện chủ trương giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường tiểu học,
những năm gần đây các trường tiểu học đã tích cực triển khai tổ chức thực
hiện giáo dục kĩ năng sống thông qua dạy lồng ghép vào các môn học: Tiếng
Việt, Đạo đức, Khoa học, Tự nhiên - Xã hội và các hoạt động giáo dục ngoài

giờ lên lớp .Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ
thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ
năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong
cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả… Nói các khác kỹ năng sống là khả
năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của
cuộc sống. Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức,
thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính
chất xây dựng.[1]
Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện,
học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của
mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia
đình, cộng đồng, dân tộc. Kỹ năng sống mang tính cá nhân bởi vì đó là khả
năng của mỗi cá nhân. Mặt khác kỹ năng sống có tính xã hội là vì trong mỗi
giai đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có
sự phù hợpvới những kỹ năng sống ấy. Ví dụ: kỹ năng sống của những người
sống ở những vùng miền khác nhau có sự khác nhau…
Mặc dù việc dạy giáo dục kĩ năng sống đã đặt ra từ lâu dưới dạng tích
hợp trong các môn học, nhưng vẫn khá mới mẻ đối với mỗi nhà trường nói
chung, bên cạnh đó một số giáo viên nhận thức còn chưa thật đầy đủ về vị trí,
tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống trong gia đoạn hiện nay, và đặc biệt
đây là một phân môn mới cho nên còn lúng túng trong việc tổ chức dạy học
và sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để giáo dục kĩ năng sống;
bên cạnh đó cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, chưa đáp ứng cho giáo
dục kĩ năng sống và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp...


Vì vậy, tôi thấy việc nghiên cứu ,trải nghiệm và rút ra một số kinh nghiệm
để rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là vô cùng cần thiết.
2.2 Thực trạng công tác dạy và học giáo dục kĩ năng sống của trường tiểu

học Quảng Giao:
Trong quá trình triển khai và thực hiện dạy học giáo dục kĩ năng sống trong
nhà trường tôi nhận thấy được những thuận lợi, khó khăn của đơn vị ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục kĩ năng sống.
2.2.1 Thuận lợi:
- Sách giáo khoa hiện hành đã được đổi mới về nội dung cho nên dễ áp dụng
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống và các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực, tăng thực hành. Giáo viên đã có tài liệu giáo dục kĩ năng sống hướng dẫn
về nội dung và địa chỉ giáo dục kĩ năng sống cho các môn Tiếng Việt, Đạo
đức, Khoa học và Tự nhiên-Xã hội và đặc biệt là tài liệu dạy học kĩ năng sống
của từng khối lớp.
- Phòng Giáo Dục và Đào tạo đã tăng cường chỉ đạo các nhà trường thực hiện
nghiêm túc Đề án 1615: “ Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo
dục kĩ năng sống” do Ủy ban nhân huyện Quảng Xương phê duyệt.Theo đề
án ,các nhà trường cần chú trọng dạy học gắn với giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh. Đặc biệt hiện nay đã có giáo trình về giảng dạy kĩ năng sống cho
học sinh tiểu học.
- Sở và phòng Giáo dục- Đào tạo đã tập huấn công tác tăng cường giáo dục kĩ
năng sống cho các trường và từng giáo viên một cách đầy đủ.
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường trình độ đạt chuẩn 100% và trên chuẩn
khá cao, khả năng tiếp cận phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực nhanh,
nhiệt tình có năng lực giảng dạy loại khá và tốt.
- Do địa bàn trường đóng xa trung tâm nên học sinh ít bị ảnh hưởng của các tệ
nạn xã hội và thói quen xấu.
- Cơ sở vật chất của nhà trường cơ bản đầy đủ các phòng học, đồ dùng dạy
học và các trang thiết bị khác.
2.2.2 Khó khăn
- Theo hướng dẫn của Bộ GD- ĐT thì còn quá nhiều kĩ năng. Dó đó, giáo viên
khó có thể thực hiện hết mà chỉ giáo dục những kĩ năng gắn với nội dung bài
học và một số kĩ năng thật sự cần thiết.

- Một số giáo viên chưa thật sự thấy rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của
việc giáo dục kĩ năng sống trong giai đoạn hiện nay. Còn xem nhẹ giáo dục kĩ
năng sống trong các tiết dạy có nội dung giáo dục kĩ năng sống và chỉ nặng về
trang bị kiến thức cho học sinh. Khi lên lớp giáo viên chưa chuẩn bị chu đáo
việc hướng dẫn và tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống, các bài có nội
dung giáo dục kĩ năng sống chưa thể hiện rõ trong bài soạn.
- Việc sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện,
cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình
học tập của một số giáo viên còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Ngược lại, một số học sinh còn thụ động trong quá trình giáo viên áp dụng
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Quan niệm của học sinh về kĩ năng
sống còn mơ hồ, không thiết thực, một số em chưa có ý thức trau dồi kĩ năng


sống.
- Trường ở vùng địa bàn kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, sự hỗ trợ giáo dục
nói chung và kĩ năng sống nói riêng từ phía gia đình học sinh còn nhiều hạn
chế và nội dung chương trình giảng dạy các môn học còn nặng, cho nên giáo
viên phải mất nhiều thời gian để dạy kiến thức.
- Học sinh chủ yếu là con em nông dân nên ít có điều kiện giáo dục dạy bảo
con cái, học sinh ít có cơ hội giao lưu, tiếp xúc rộng với xã hội do đó rụt rè,
thụ động. Sự phối hợp giữa giáo viên với gia đình còn chưa nhiều, chưa
thường xuyên, chủ yếu mới diễn ra theo định kì, ở một số học sinh.
- Giáo dục kĩ năng sống được ngành Giáo dục đặt ra từ lâu, nhưng nhận thức
của đại bộ phận phụ huynh nói riêng và toàn xã hội nói chung chưa có sự
quan tâm đúng mức về lĩnh vực này, nên việc triển khai và thực hiện còn
nhiều khó khăn.Nhận thức của phụ huynh còn cho rằng việc giáo dục con em
là chủ yếu của nhà trường, coi thành tích học tập là quan trọng hơn giáo dục
kĩ năng sống đó là điều thực sự chưa cần thiết... Nguyên nhân khiến đa phần
học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng thực hành xã hội là do phụ

huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học
giỏi kiến thức nên họ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng cho
các con làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia
đình.
- Cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học liên quan đến giáo dục kĩ năng sống của
trường còn thiếu thốn; Chưa có phòng học riêng để dạy giáo dục kĩ năng
sống. Do đó, để dạy các giáo dục kĩ năng sống chủ yếu là phát huy sự sáng
tạo giáo viên.
2.3 Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4.
Từ những thực trạng nói trên,bản thân là một giáo viên có thâm niên trong
công tác chủ nhiệm lớp 4 ,tôi nhận thấy việc " Giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh " là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú
trong học tập, các em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn
trong việc thể hiện những năng lực của bản thân .Chính vì vậy tôi đã chủ động
tìm tòi, học hỏi rút ra các kinh nghiệm, để nâng cao chất lượng giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh lớp 4 như sau:
2.3.1. Tăng cường công tác tự học, tự nghiên cứu :
Việc tiếp thu, triển khai một nội dung, hình thức dạy học mới là một việc làm
đầy khó khăn. Vì thế việc tự học, tự nghiên cứu là một việc làm cần thiết, từ
những trăn trở, suy nghĩ đó bản thân tôi đã:
+ Tự nghiên cứu nội dung để lựa chọn ra nội dung dạy học sao phù hợp với
đối tượng học sinh của lớp mình(trình độ nhận thức, tâm lí lứa tuổi, đặc điểm
vùng miền,…).
+ Từ một bài học cụ thể đã được lựa chọn tôi đã đưa ra nhiều giả thiết, nhiều
tình huống, nhiều hình thức, phương pháp,… có thể sử dụng; từ đó đưa ra nội
dung, hình thức, phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của
lớp mình .
+ Nghiên cứu các tài liệu, các chuyên đề và đặc biệt là các Clip dạy kĩ năng
sống của đồng nghiệp để học hỏi, đúc rút kinh nghiệm cho bản thân vào quá



trình dạy học của bản thân.
Qua quá trình tự học, tự nghiên cứu tôi thấy bản thân đã có sự chủ động hơn
trong việc triển khai, tổ chức các tiết dạy kĩ năng sống; hiểu sâu sắc hơn về
việc cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống cho các em. Từ đó chất lượng và
hiệu quả của các tiết dạy kĩ năng sống được nâng lên một cách đáng kể.
2.3.2 Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua các môn
học:
Thực hiện soạn bài có tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống của môn Tiếng
Việt, Đạo đức, Khoa học và Giáo dục Giá trị sống và Kĩ năng sống lớp 4 theo
tổ chuyên môn, mỗi thành viên trong tổ đều phải có trách nhiệm nghiên cứu
và xây dựng giáo án từ đó giúp cho giáo viên hiểu rõ việc lồng ghép nội dung
giáo dục kĩ năng sống vào các môn học.
Để thấy rõ việc lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống và Giáo dục Giá trị
sống và Kĩ năng sống ta có thể xem một số ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: Bài: Những con sếu bằng giấy - Môn: Tập đọc
Qua bài học này chúng ta sẽ giáo dục và rèn cho học sinh kĩ năng biết chia
sẻ , biết thể hiện sự cảm thông trước những nỗi đau, những mất mát và biết
yêu thương đồng loại.
Giáo viên tổ chức cho các nhóm thực hành nói lời cảm thông, chia sẻ với Xaxa-cô như sau:
- Giáo viên lưu ý học sinh: Các em cần tưởng tượng mình đang đứng trước
tượng đài tưởng nhớ những nạn nhân bị bom nguyên tử sát hại, các em muốn
nói điều gì với Xa-xa-cô? Biết nói lời cảm thông chia sẻ, làm dịu nỗi đau của
người khác là một trong những kĩ năng giao tiếp rất cần thiết với con người.
Lời cảm thông chia sẻ cần được nói với thái độ chân thành, giọng trầm lắng,
nghiêm trang.
- HS suy nghĩ về những điều mình muốn nói.
- GV đặt lên bàn lọ hoa tươi (tượng trưng cho đài tưởng niệm); mời 1, 2 học
sinh nói (làm mẫu) trước lớp. Các nhóm nhận xét về lời nói, tư thế, thái độ
biểu hiện niềm thương tiếc đối với Xa-xa-cô, sự căm ghét chiến tranh ...

- HS nối tiếp nhau nói lời cảm thông, chia sẻ với Xa-xa-cô
Ví dụ: Xa-xa-cô ơi, tôi rất tiếc thương bạn và căm ghét chiến tranh đã làm bạn
phải chết. Cái chết của bạn làm chúng tôi hiểu sự tàn bạo của chiến tranh.
Tượng đài này nhắc nhở chúng ta phải đoàn kết chống lại những kẻ thích
chiến tranh. Cái chết của bạn nhắc nhở chúng tôi phải biết yêu hòa bình, bảo
vệ hòa bình trên trái đất.
Ví dụ 2: Bài: Em hợp tác - Giáo dục Giá trị sống và Kĩ năng sống lớp 4
Hoạt động 1: Trò chơi hợp tác
+Bước 1: Hướng dẫn học sinh đứng thành hang ngang, cách nhau một sải
tay(có thể đứng ngay tại chỗ nếu không gian đủ và học sinh đứng được thoải
mái).
+Bước 1: - Giải thích cho học sinh “Trong trò chơi này mỗi bạn đều phải để
một quyển sách lên đầu mình ở tư thế: Tay phải không được cử động, tay trái
chỉ cử động được ở tư thế thẳng, khuyủ tay không gập lại được”.
- Gợi ý học sinh có thể giúp đỡ nhau để cuối cùng em nào cũng có một quyển


sách để ngay ngắn, cân đối trên đầu.
+ Bước 3: Khen ngợi học sinh và hỏi các em:
H: Em đã làm thế nào để giúp bạn đặt được quyển sách lên đầu của em?
H: Em cảm thấy thế nào khi chúng ta chơi trò chơi này?
H: Theo em hợp tác là gì?
Qua hoạt động 1 giúp học sinh: Có hứng thú và biết hợp tác với các bạn thông
qua trò chơi hợp tác. Từ đó giúp các em biết hợp tác với bạn bè và người thân
trong học tập và trong cuộc sống.
Ví dụ 2:Bài: Biết bày tỏ ý kiến - Môn: Đạo đức lớp 4
Hoạt động 3: Trình bày ý kiến
+ Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị viết một ý kiến / nguyện
vọng / đề nghị của bản thân với bố mẹ, thầy cô (khoảng nửa trang) nói về
trong gia đình em, trong lớp học…

+ Học sinh viết bài.
+ Học sinh trình bày trong nhóm, các học sinh khác thảo luận nhận xét về nội
dung, thái độ, cách nói sao cho hợp lí và hiệu quả. Một số học sinh trình bày
trước lớp.
+ Giáo viên kết luận: Khi trình bày ý kiến cần nói rõ ràng, ngắn gọn, thể hiện
cảm xúc phù hợp với nội dung bày tỏ để người khác hiểu và chia sẻ với nội
dung mà mình muốn bày tỏ.
Qua hoạt động 3 giúp học sinh: Biết cách bày tỏ ý kiến.
2.3.3. Giáo dục kĩ năng sống qua đổi mới phương pháp dạy học
(phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN)
- Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp dạy học giúp học sinh phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng
tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống trong
học tập trong thực tiễn. Từ đó tạo niềm vui và hứng thú trong học tập.
- Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp tạo điều kiện cho học
sinh được thực hành được trải nghiệm một số kĩ năng sống làm cho giờ học
nhẹ nhàng, thiết thực và bổ ích:
a, Phương pháp hoạt động nhóm
- Là phương pháp dạy học tích cực, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung
học tập, chủ động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình.
- Khi áp dụng phương pháp hoạt động nhóm cần chú ý:
+ Kĩ năng làm việc nhóm
+ Xây dựng, phát triển tinh thần nhóm
+ Lãnh đạo nhóm
+ Các xung đột nhóm.
- Hoạt động nhóm là hoạt động giúp cho từng thành viên được bộc lộ ý kiến,
suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình qua đó được tập thể uốn nắn, phát triển
tình bạn, ý thức cộng đồng, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương

trợ, hợp tác… Thông qua hoạt động nhóm xây dựng mô hình hợp tác trong xã
hội để học sinh quen dần với sự phân công, hợp tác lao động xã hội.


- Với hoạt động nhóm để hoàn thành phiếu học tập hoặc trả lời các câu hỏi
của giáo viên… đều góp phần rèn luyện cho học sinh các kĩ năng.
b, Phương pháp trực quan, vấn đáp, tìm tòi (hay dạy học bằng các hoạt
động khám phá có hướng dẫn)
- Người học phát hiện lại những tri thức mà loài người đã khám phá bằng
nghiên cứu khoa học -> rèn kĩ năng tự học.
- Người học được sự hướng dẫn của người dạy.
- Học sinh hiểu sâu, nhớ lâu, phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng
trình bày, tạo hứng thú trong học tập.
- HS đã chủ động lĩnh hội được kiến thức, đồng thời phát huy cao tính
chủ động sáng tạo.
- Qua hoạt động khám phá của HS sẽ có sự phân hoá về cường độ, tiến
độ hoàn thành nhiệm vụ học tập -> rèn kĩ năng xây dựng phương pháp học
tập; tự học.
- Qua hoạt động vấn đáp ở lớp học sẽ rèn được kĩ năng giao tiếp thầy trò; trò - trò.
Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao người giáo viên phải đóng vai trò chủ đạo
trong việc thiết kế hoạt động khám phá (qua hệ thống câu hỏi…).
Ngoài 2 phương pháp trên còn có phương pháp dạy học giải quyết vấn
đề; phương pháp trò chơi... cũng được xem là phương pháp tích cực vì nó góp
phần tạo tính chủ động cho học sinh trong lĩnh hội kiến thức đồng thời qua đó
rèn được kĩ năng sống tự tin, ra quyết định đúng đắn…
2.3.4. Giáo viên tăng cường công tác giáo dục kĩ năng sống qua hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Như chúng ta đã biết, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối
hoạt động dạy học trên lớp, là cầu nối gắn lý thuyết với thực tiễn và đời sống
xã hội tạo sự thống nhất về hành động góp phần hình thành tình cảm đúng đắn

của người học sinh. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là điều kiện thuận
lợi để học sinh phát huy vai trò chủ thể hoạt động giáo dục, nâng cao tính tích
cực, chủ động, năng động sáng tạo trong hoạt động. Với những ý nghĩa trên,
mục tiêu giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học nhằm:
- Củng cố và khắc sâu kiến thức của các môn học, mở rộng và nâng cao
hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực đời sống xã hội, làm phong phú thêm
vốn tri thức kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.
- Rèn luyện những kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi như kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng ứng xử có văn hoá, tổ chức quản lý tham gia hoạt động tập thể.
Kĩ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện củng cố các hành vi, thói
quen tốt trong học tập, lao động và công tác xã hội.
- Bồi dưỡng thái độ tích cực, tự giác tham gia các hoạt động tập thể và
hoạt động xã hội, hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với
cuộc sống, với quê hương đất nước, thái độ đúng đắn với các hiện tượng tự
nhiên xã hội.
Như vậy hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thực sự cần thiết và có
nhiều khả năng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.


Để hình thành kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần tích
cực, nhiệt tình phối hợp với Đội TNTP và giáo viên Tổng phụ trách để tổ
chức cho học sinh các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Sau đây là một số
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cần phối hợp tổ chức như:
* Hoạt động văn hoá văn nghệ: Hoạt động này nhà trường và liên đội
thường tổ chức nhân các ngày kỷ niệm, ngày lễ, tết trong năm học. Hoạt động
này bao gồm nhiều thể loại khác nhau như: hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch
câm, nhạc cụ, thi kể chuyện ... Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm với với trò là chị
phụ trách chi đội cần thực hiện tốt kế hoạch của nhà trường và liên đội, phối
hợp tích cực để tổ chức tốt các hoạt động này góp phần hình thành cho các em
kĩ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông, kĩ năng phối hợp. Quan trọng nhất

ở hoạt động này là giáo viên phải tạo ra sân chơi thực sự cho các em tham gia;
khuyến khích, động viên các em tham gia mmột cách chủ động, sáng tạo
không mang nặng thành tích. Đây làm một trong những kĩ năng quan trọng
cần xây dựng cho các em.

Học sinh múa sạp
* Hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết
yếu của học sinh tiểu học, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại
hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học. Hoạt
động này làm thỏa mãn về tinh thần cho các em sau những giờ học căng
thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỷ luật, nâng cao
tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái…
Vì vậy, giáo viên phải là người tổ chức, người tham gia chơi với học
sinh, thể hiện sự gẫn gũi với các em để góp phần hình thành kĩ năng sống cho
học sinh và thực hiện tốt phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” ở mỗi lớp học và mỗi nhà trường.


Hình ảnh học sinh tham gia hoạt động TDTT.
* Hoạt động tiếp cận khoa học - kĩ thuật: Trong giai đoạn mà đất nước
đang trên đà hội nhập thì việc tiếp cận, tìm hiểu khoa học – công nghệ là việc
làm cần thiết. Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu
khoa học - công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các em sự say mê, tìm tòi,
khám phá, kích thích học tập tốt hơn.
Những hoạt động này có thể là sưu tầm những bài toán vui, giải toán qua
mạng, học ngoại ngữ qua mạng, tham gia sinh hoạt CLB khoa học, tìm hiểu
các danh nhân, các nhà bác học…
Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các em làm quen với việc
nghiên cứu khoa học và tự khẳng định mình. Có thể nói đây là hoạt động mà
nhà trường và liên đội còn ít chú trọng tới - ít chú trọng không phải là do

không hiểu hết tầm quan trọng của nó mà là do điều kiện không cho phép. Đó
là điều kiện về cơ chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên, tổng
phụ trách…
Như vậy, ngoài dạy giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học thì
HĐNGLL cũng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc hình thành kĩ năng sống
cho HS. Do đó, giáo viên cần tạo mọi điều kiện, phối hợp thật tốt cho những
giáo viên Tổng phụ trách làm công tác này để sao cho việc rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh đạt được hiệu quả cao nhất.


Hình ảnh học sinh tham gia giải IOE qua mạng.
* Hoạt động lao động công ích:
Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thông qua lao động công
ích
sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn
góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức
lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời
sống như: Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh
cho đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động mà giáo viên không nên xem nhẹ vì có
tác dụng giáo dục kĩ năng sống cao.
Phải tạo cho tất cả học sinh đều được tham gia và thường xuyên, không
như những trường khác học sinh rất ít được tham gia các hoạt động này vì đã
thuê người làm vệ sinh trường, lớp.

Học sinh trải nghiệm thực tế về chăm sóc vườn rau và làm bánh
ngọt.
Như vậy, đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích nghi với
cuộc sống xung quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì
các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.
* Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa học sinh vào các hoạt động xã hội

để giúp các em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là một
hoạt động tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Ở hoạt động
này muốn thành công thì việc giáo dục, hình thành nhân cách, ý tưởng cho
các em là rất quan trọng, đây chính là tiền đề để hình thành kĩ năng. Thông
qua hoạt động này, các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là
tình người. Theo tôi, hoạt động này phải được tổ chức nhiều hơn để nhằm
phát triển tối đa nhân cách ở các em.


Hoạt động ủng hộ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong trường.
2.3.5. Phân luồng đối tượng trong việc giáo dục, rèn luyện kĩ năng
sống
Cũng giống như trong dạy dọc các bộ môn khoa học khác thì trong việc
giáo dục, rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 nói riêng và học sinh tiểu học
nói chung thì việc phân luồng đối tượng là rất cần thiết.
Như chúng ta đã biết, mỗi đối tượng học sinh mang một tâm lí khác
nhau, mỗi nhận thức, hiểu biết về cuộc sống, giao tiếp,.. cũng khác nhau. Vì
thế trong một tiết dạy kĩ năng sống ( hay tiết dạy có lồng ghép kĩ năng sống)
ta không thể dạy cùng một nội dung, đưa ra cùng một yêu cầu cho nhiều đối
tượng.
Ví dụ: - Khi dạy học sinh về kĩ năng giao tiếp thì học sinh bình thường đã
có kĩ năng giao tiếp tốt hơn, mạnh dạn trong phát biểu xây dựng bài,... thì
chúng ta có thể rèn và hướng cho các em thuyết trình hoặc trình bày sự hiểu
biết của mình về một chủ đề nào đó trước lớp. Nhưng đối với những học sinh
trong cuộc sng, trong học tập còn nhút nhát, rụt rè thì ta có thể chỉ yêu cầu
học sinh biết trả lời to, rõ ràng các câu hỏi mà giáo viên đưa ra hoặc cao hơn
nữa là hát được một bài hát là được.
- Khi hướng dẫn học sinh cách đi vệ sinh cũng vậy, có học sinh đã được
sử dụng công trình vệ sinh tự hoại ở nhà thì các em đã hình thành được kĩ
năng đó thì chúng ta không cần phải hướng dẫn nhiều về điều các em đã biết.

Bên cạnh đó thì đối với đối tượng học sinh ở nhà chưa được làm quen thì
chúng ta cần hướng dẫn các em một cách tỉ mỉ hơn.
Qua việc phân luồng đối tượng trong giáo dục, rèn kĩ năng sống cho
học sinh thì chất lượng giờ học, chất lượng của các hoạt động hiệu quả hơn,
thể hiện: Kích thích được hứng thú học tập của học sinh, học sinh hứng thú
hơn với tiết học, đặc biệt qua sự động viên của các bạn và của giáo viên các
bạn còn yếu hơn đã có sự tiến bộ rõ rệt.
2.3.6. Tăng cường xây dựng CSVC trong lớp học và sáng tạo trong
sử dụng CSVC để đáp ứng việc dạy học giáo dục kĩ năng sống.


Cơ sở vật chất của nhà trường, của lớp cũng có vai trò quan trong trong
việc quyết định chất lượng giáo dục nói chung và giáo dục kĩ năng sống nói
riêng. Đối với mỗi nhà trường phải nên có 01 phòng học phục vụ cho dạy
giáo dục kĩ năng sống và được trang bị đủ các tủ đựng đồ dùng, mua sắm
thêm đồ dùng dạy học đảm bảo cho phù hợp với các bài dạy theo chương
trình lồng ghép của Bộ Giáo Dục ban hành.
Với biện pháp này giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo trong điều kiện
CSVC của nhà trường còn thiếu, chưa đáp ứng được nhằm dạy đầy đủ, đảm
bảo chương trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Đối với phòng dạy giáo dục kĩ năng sống chưa có thì có thể ghép với
phòng Giáo dục nghệ thuật; phát huy khả năng làm đồ dùng dạy học của giáo
viên, học sinh...
Như vậy, trong điều kiện nhà trường còn nhiều khó khăn về đồ dùng và
cơ sở vật chất thì việc phát huy vai trò tự làm đồ dùng và sáng tạo của giáo
viên là việc làm cần thiết.
2.3.7. Tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kĩ năng
sống:
Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh tăng cường đọc sách,
tôi đã tham mưu với hiệu trưởng đã trang bị, sách thư viện, sách Bác Hồ, sách

Lịch sử, và các loại sách trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ
đề: “Tủ sách Bác Hồ”; “tủ sách lịch sử”; “câu đố vui”; “những con vật đáng
yêu”; “hoa trái bốn mùa”;… thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện
nhiều kích cở, vừa tầm các em.

( Hoạt động đọc sách ở phòng thư viện)
2.3.8. Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên - gia đình – xã hội trong giáo
dục kĩ năng sống.
Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên của mỗi con người. Môi trường giáo
dục gia đình rất quan trọng đối với quá trình hình thành nhân cách và các kĩ
năng của trẻ. Vì thế công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội
là rất cần thiết. Gia đình là tế bào hạnh phúc của mỗi con người. Bên cạnh
giáo dục lòng yêu nước và truyền thống văn hoá dân tộc. Giáo dục giá trị gia
đình, gia đình văn hoá là rất cần thiết. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần:
Chủ động phối hợp thường xuyên với phụ huynh để trao đổi cùng gia
đình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và ngược lại. Mỗi thầy giáo, cô giáo


muốn hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên trước hết phải có tình yêu
thương con người, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải hiểu về tâm lý
lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm cần am hiểu
và biết cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đối với học sinh có
những biểu hiện lệch lạc về nhân cách giáo viên chủ nhiệm chính là người
cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” em về với “cái thiện”. Thầy, cô
giáo là cầu nối quan trọng để kết nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Sự phối kết hợp với gia đình được kết cấu qua sơ đồ sau:

Gia đình

Nhà trường


Xã hội

trường

Giáo viên đang trao đổi với phụ huynh về việc giáo dục KNS cho học sinh
Đối với địa phương giáo viên và nhà trường cần tham mưu, phối hợp với
Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể để tổ chức các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao... ở địa phương thông qua đó góp phần giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Đối với tổ chức Đoàn, Hội, Đội ở địa phương cần tổ
chức tốt các hoạt động Đội trên địa bàn dân cư, tổ chức nhiều sân chơi để thu
hút học sinh tham gia nhằm quản lý và tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh.
4. Kết quả đạt được
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, được
lãnh đạo nhà trường Tiểu học Quảng Giao đã tạo điều kiện cho tôi áp dụng áp


dụng vào quá trình giáo dục, rèn kĩ năng cho học sinh. Cùng với sự đồng
thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ
học sinh đã giúp học sinh đạt được một số kết quả trong việc hình thành các
kĩ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
- 100% học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi
dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100%
học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường hiệu quả ngày
càng cao.
- 90% học sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự
lập; kĩ năng nhận thức; kĩ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các
hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của học sinh; ngoài ra có 70% học sinh
được rèn kĩ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin

thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục, và các môn học khác.
- 100% học sinh được rèn luyện kĩ năng xã hội; kĩ năng về cảm xúc, giao
tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở
trường cũng như ở gia đình.
- 100 % học sinh được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức
khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ
phát triển.
- 70% học sinh luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập
cũng như bảng theo dõi ở mỗi lớp, sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra
đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh đạt khá và tốt:
Mạnh dạn tự tin: 90 %; kĩ năng hợp tác: 93%; kĩ năng giao tiếp 92,3%; tự lập,
tự phục vụ: 99%; lễ phép: 100%; kĩ năng vệ sinh: 92%; kĩ năng thích khám
phá học hỏi: 86%; kĩ năng tự kiểm soát bản thân: 90%
Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp
khó khăn khi đến lớp, có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết
thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến.


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận :
Qua tổ chức thực hiện các kinh nghiệm trên bước đầu đã có những hiệu quả
nhất định, giúp học sinh rèn các kĩ năng sống cơ bản.
- Bản thân tôi đã nhận thức rõ về vấn đề dạy giáo dục kĩ năng sống là việc
làm cần thiết, đã thực hiện tốt dạy các môn học, bài học có nội dung giáo dục
kĩ năng sống; việc đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực khá hiệu
quả.
- Học sinh thường xuyên được hoạt động nhóm, các em đã tiến bộ về kĩ năng
hợp tác, giao tiếp ứng xử, lắng nghe, đánh giá….có trách nhiệm, có kĩ năng
quản lý về thời gian trong học tập tốt hơn. Các em đã có kĩ năng làm việc với
SGK, thực hành, sưu tầm thu thập kiến thức, rèn kĩ năng tự học, tìm kiếm xử

lý thông tin tốt hơn. Biết vận dụng kiến thức đã học để bảo vệ môi trường,
bảo vệ sức khỏe, giải thích các hiện tượng thực tiễn, biết giúp đỡ, đoàn kết,
duy trì cuộc sống an toàn…
- Phối hợp tốt với liên đội đã tổ chức được nhiều buổi văn nghệ, trò chơi dân
gian, vệ sinh trực nhật, lao động vệ sinh, trồng và chăm sóc bồn hoa cây cảnh,
làm vệ sinh và viếng nhà bia tưởng niệm, duy trì TDTT, muá hát tập thể
thường xuyên góp phần giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ngày một hiệu
quả.
- Địa phương đã phối hợp tốt với trường trong việc tổ chức các hoạt động
giáo dục cho học sinh trong các dịp có ngày kỷ niệm của đất nước của địa
phương và các ngày lễ tết..
Với một số kinh nghiệm về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh mang một
ý nghĩa quan trọng đó là đã góp phần làm thay đổi nhận thức còn chưa đầy
đủ về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống trong gia đoạn hiện nay
cho học sinh tiểu học và trang bị cho giáo viên cách làm mới về giáo dục kỹ
năng sống sinh một cách hiệu quả, góp phần nâng chất lượng giáo dục giáo
dục toàn diện đáp ứng yêu cầu ngày càng cao đòi hỏi của xã hội về chất lượng
giáo dục.Giúp cho các hoạt động của nhà trường, lớp học sôi nổi, có hiệu quả
góp phần không nhỏ trong việc thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Làm tăng hiệu quả trong công tác
quản lý, giảng dạy và học tập ở trường Tiểu học nói chung, hoàn thành tốt
mục tiêu đề ra, góp phần nhỏ bé thực hiện thành công đổi mới căn bản và toàn
diện Giáo dục và Đào tạo theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
3.2. Kiến nghị :
Rèn kĩ năng sống cho học sinh là trách nhiệm chung của nhà trường, gia đình
và toàn xã hội do đó:
+ Với Phụ huynh học sinh: Là cái nôi để hình thành nhân cách cho trẻ; cha mẹ
cần quan tâm nhiều hơn tới con mình, làm bạn cùng con để hiểu con và rèn
luyện giáo dục con.
+ Với Giáo viên: Luôn tự rèn luyện, tự bồi dưỡng và cần nâng cao tinh thần

trách nhiệm hơn nữa trong nghiên cứu, soạn bài và dạy giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh.
+ Với Học sinh: Phải ý thức được cách tự rèn luyện bản thân, ép mình vào kỷ


luật để hòa nhập vào nội quy trường lớp, nội quy xã hội, sử dụng những kĩ
năng được học vào cuộc sống hằng ngày.
+ Với địa phương và nhà trường: Luôn phấn đấu tạo nên môi trường an bình,
tạo nhiều sân chơi bổ ích thường xuyên cho HS, nâng cao nhận thức và vai trò
của giáo viên trong việc giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một yêu cầu quan trọng và thiết yếu
trong công tác giáo dục; hơn nữa giáo viên tiểu học được xem là người quan
trọng trong công tác này.
Rèn kĩ năng sống là một quá trình đưa nhận thức thành hành động (hành vi)
do đó phải là việc làm thường xuyên, lồng ghép qua đổi mới phương pháp và
qua nhiều môn học, qua nhiều hoạt động khác nhau trong trường .
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 4 mà bản thân đã đúc rút được trong quá trình dạy học.
Rất mong sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để bản sáng
kiến có chất lượng và hiệu quả hơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
TRƯỞNG

Quảng Xương,ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Hương



TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1 . Giáo dục kỹ năng sống trong các môn học ở tiểu học lớp 4 (Nhiều tác giả NXB Giáo dục)
2 . Giáo dục giá trị sống và Kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.( PGS.TS
Nguyễn Thị Mỹ Lộc- TS Đinh Thị Kim Thoa - NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội )
3. Nguồn Internet.




×