Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp tạo hứng thú và phát huy tính tích cực cho học sinh trong học tập môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.98 KB, 21 trang )

Mục lục
Trang
1. Mở đầu ........................................................................................................... 2
1.1. Lí do chọn đề tài

....................................................................................... 2

1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm..................................................................... 3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm ..................................................... 3
2.2. Thực trạng vấn đề ....................................................................................... 3
2.3. Các biện pháp thực hiện ............................................................................. 4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến .............................................................................. 18
3. Kết luận, kiến nghị ....................................................................................... 19
3.1. Kết luận ..................................................................................................... 19
3.2. Kiến nghị ....................................................................................................
20
Tài liệu tham khảo ........................................................................................... 21

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ở Tiểu học, giúp các em có những hiểu biết về thế giới xung quanh,
những hiện tượng khoa học, những vấn đề về thiên nhiên là mục tiêu quan
trọng. Môn Khoa học cung cấp cho các em những kiến thức đó. Đó là môn học
tích hợp những kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành phẩm chất, năng lực đạo đức của con


người. Việc dạy môn Khoa học không chỉ nhằm tích luỹ kiến thức đơn thuần mà
còn nhằm dạy cho học sinh tập làm quen với cách tư duy chặt chẽ mang tính
khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết để thích ứng với
thực tế cuộc sống và tiếp tục học tập sau này. Chính vì vậy, Khoa học là môn
học quan trọng trong nhà trường.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập của Việt Nam, các nước trong khu vực và
trên thế giới đòi hỏi nền giáo dục nước nhà phải có những đổi mới trong mục
tiêu và nội dung dạy học. Sự đổi mới này đòi hỏi phải có những đổi mới về
phương pháp dạy học. Theo định hướng đó, phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tích tực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp đặc điểm của
từng lớp học, môn học.
Không những thế, học sinh chỉ học tập đạt kết quả tốt khi yêu thích môn
học đồng thời các em cũng tìm được cảm hứng từ môn học đó. Việc đổi mới
phương pháp dạy học, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động là một việc làm
không phải dễ và cũng không phải ngày một ngày hai mà làm được. Nó đòi hỏi
một sự đầu tư lâu dài, một quá trình rèn luyện không ngừng của người giáo
viên. Mỗi một sự cố gắng dù rất nhỏ trong nhận thức của giáo viên về đổi mới
phương pháp, hình thức dạy học đều là động lực tạo hứng thú học tập cho các
em học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Với những lý do nêu trên, để tạo hứng thú và phát huy tính tích cực của
học sinh trong học tập môn Khoa học đang là một đòi hỏi cấp bách cần giải
quyết. Vì vậy, tôi đã đúc kết cho mình một số kinh nghiệm khi giảng dạy môn
học này. Chính vì thế tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp tạo hứng thú và phát
huy tính tích cực cho học sinh trong học tập môn Khoa học lớp 4."
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến nhằm:
- Tìm hiểu các nguyên nhân vì sao học sinh chưa hứng thú, chưa tích cực
học môn Khoa học.
- Tìm ra các giải pháp nhằm giúp học sinh có hứng thú để các em tích cực
hơn trong quá trình học tập môn học nói trên, từ đó góp phần nâng cao chất

lượng và hiệu quả của phương châm giáo dục toàn diện cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 4A và lớp 4B - Trường Tiểu học Hermann Gmeiner
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
2


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sự hứng thú và tính tích cực học tập
của học sinh.
- Phương pháp điều tra: Khảo sát đánh giá thực trạng tính tích cực học tập
của học sinh.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích tổng hợp
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, học sinh tiểu học là lứa tuổi học tập theo hứng thú
và chủ yếu là cảm tính. Đồng thời lứa tuổi này còn mang các đặc điểm tâm lý
hồn nhiên, ngộ nghĩnh và hiếu động. Các em thích vui chơi, thích các trò chơi
vui nhộn "vừa chơi, vừa học". Mặt khác đối với học sinh tiểu học việc ghi nhớ
thì rất nhanh nhưng để nhớ một nội dung, một vấn đề nào đó thì lại rất khó cho
nên các nhà khoa học đã nhận định rằng lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi
"Chóng nhớ, mau quên". Muốn học sinh nhớ được vấn đề nào đó thì ngoài việc
thường xuyên phải củng cố, ôn tập về nội dung cần nhớ thì việc tạo cho các em
cảm giác hứng thú và say mê với nội dung cần ghi nhớ, chắc chắn rằng các em
sẽ dễ tiếp thu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn. Đồng thời lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa
tuổi mang đặc điểm nhận thức, tư duy trực quan và cụ thể. Các em không những
nhận thức tốt các vấn đề mang tính cụ thể mà còn rất có hứng thú khi khai thác,

tìm hiểu các vấn đề mang tính cụ thể, đồng thời các em cũng rất ưa thích các
vấn đề trực quan mang tính bắt mắt mà các em có thể quan sát một cách dễ
dàng.
Ở trường Tiểu học việc xây dựng chương trình học tập cho học sinh được
chia theo hai giai đoạn: Giai đoạn lớp 1, 2, 3 và giai đoạn lớp 4, 5. Nếu như ở
các lớp 1, 2, 3 việc nắm bắt kiến thức của học sinh còn ở mức sơ giản thì
chương trình của lớp 4, 5 đã mở rộng hơn rất nhiều. Kiến thức về tự nhiên, xã
hội được mở rộng hơn, thể hiện rõ ở môn Khoa học. Với chương trình lớp 4
môn Khoa học được tích hợp các kiến thức như: vật lý, sinh học, hoá học và
một số kiến thức của môn sức khoẻ cũ cũng được tích hợp vào môn học này. Do
đó các nội dung kiến thức của môn học này mang tính trừu tượng, yêu cầu học
sinh phải ghi nhớ. Đồng thời đối với học sinh lớp 4 là lớp bản lề của hai giai
đoạn: Giai đoạn lớp 1, 2, 3 và giai đoạn lớp 4, 5. Mặt khác, lớp 4 cũng là lớp
học bắt đầu của việc tách môn học "Tự nhiên - Xã hội" thành các môn Khoa
học, Lịch sử, Địa lý và cũng là lớp tạo nền tảng cho việc học tập và tìm hiểu
kiến thức các môn học này ở lớp 5 và các lớp trên.
Vì vậy để "tạo hứng thú và phát huy tính tích cực" cho học sinh khi học
môn Khoa học ở lớp 4 là hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng vấn đề
Qua một số tiết dạy những ngày đầu năm học, tôi nhận thấy một tồn tại
trong việc học môn Khoa học của học sinh lớp 4A là các em ngại học, không
hào hứng. Chính vì ngại, không hứng thú nên tính tích cực học tập của các em
còn rất yếu, thể hiện qua một số dấu hiệu sau:
3


+ Học sinh ít giơ tay phát biểu ý kiến của mình về các vấn đề giáo viên
nêu ra (chỉ có khoảng 10% số học sinh cả lớp tham gia phát biểu ý kiến xây
dựng bài trong mỗi tiết học).
+ Nếu được hỏi, học sinh chủ yếu lệ thuộc vào sách giáo khoa, ít tư duy.

+ Không thắc mắc hay đòi hỏi giáo viên phải giải thích cặn kẽ những vấn
đề mà mình chưa hiểu rõ.
+ Không khí của lớp rất buồn tẻ, trầm lắng hoặc ít sôi nổi khi học sinh
không thực hiện được yêu cầu của giáo viên.
+ Học sinh không có thói quen sưu tầm tư liệu phục vụ bài học; nếu có thì
số lượng tranh rất ít, chất lượng sưu tầm chưa đúng yêu cầu bài học.
Những thực tế nói trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nhưng có một
nguyên nhân mà tôi cho là cơ bản nhất là: chúng ta (bao gồm tôi và các đồng
nghiệp) từ trước đến nay chưa tạo được hứng thú hay nói cách khác là chưa làm
sao để cho các em học sinh thích thú khi học các tiết Khoa học. Do đó các em
cũng chưa phát huy được tính tích cực khi học môn học này, vì vậy mà kết quả
học tập là chưa cao.
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành điều tra các tiết học Khoa học tại lớp
4A (25 học sinh) tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số
học sinh
25

Hứng thú, tích cực
với tiết học
Số lượng
Tỉ lệ
4

16%

Thờ ơ với tiết học
Số lượng

Tỉ lệ


21

84%

Từ kết quả thu được cho thấy tình trạng học sinh lười học, ngại học thật
đáng lo, tỉ lệ học sinh ham thích và chủ động học tập còn quá thấp, tỉ lệ học sinh
không hứng thú với môn học quá nhiều (trên 80%). Từ thực trạng nói trên, tôi
thấy cần phải thay đổi thói quen học tập của học sinh đối với môn học Khoa
học. Qua quá trình giảng dạy, tôi đã rút ra được một vài biện pháp giúp học sinh
có niềm yêu thích và tích cực học môn Khoa học hơn, tôi xin mạnh dạn trình
bày một số biện pháp như sau:
2.3. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Khuyến khích học sinh sưu tầm tư liệu và đồ dùng học
tập phục vụ bài học.
Sách giáo khoa hiện nay đóng vai trò quan trọng trong phần cung cấp
kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, ở một số bài học, tư liệu sưu tầm lại đóng vai
trò quan trọng và cần thiết trong việc giúp học sinh chủ động, phát hiện, chiếm
lĩnh kiến thức bài học, chứ không phải tiếp nhận kiến thức một cách thụ động.
Một tiết học đạt hiệu quả tùy thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh
trước buổi học đó. Vì vậy, giáo viên luôn khuyến khích học sinh chuẩn bị bài
cho ngày hôm sau từ việc xem trước bài cho đến việc chuẩn bị các đồ dùng cần
thiết cho bài học sẽ giúp các em có ý thức hơn trong việc học của mình. Cách
làm này rất phù hợp với quá trình nhận thức của học sinh, giúp các em hứng thú
4


học tập đồng thời bước đầu hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học,
chuẩn bị cho các em tiếp tục học lên các lớp trên.
* Ví dụ bài 7: Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn?

Học sinh sưu tầm các đồ chơi bằng nhựa như: gà, cá, tôm, cua,... Mục
đích của việc sưu tầm là giúp các em phân loại nhóm thức ăn cần ăn đủ, ăn có
mức độ, ăn ít và ăn hạn chế. Đồng thời đó cũng là dụng cụ để các em tham gia
trò chơi học tập theo nhóm.
* Ví dụ bài 54: Nhiệt cần cho sự sống.
Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật, thực vật. Học sinh làm việc
theo nhóm với yêu cầu sau:
- Phân loại tranh ảnh sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái đất như
sau:
+ Động vật, thực vật sống ở xứ lạnh, băng tuyết quanh năm.
+ Động vật, thực vật sống ở vùng ôn đới.
+ Động vật, thực vật sống ở vùng nhiệt đới.
+ Động vật, thực vật sống ở vùng sa mạc.
- Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều loài vật, cây sinh sống hoặc ít loài
sinh sống).
Trên cơ sở tranh ảnh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của
nhiệt đối với đời sống sinh vật.
Để việc sưu tầm tư liệu mang lại hiệu quả cao, tôi áp dụng một số các làm
như sau:
+ Hướng dẫn học sinh phân loại tranh theo yêu cầu của bài học.
+ Sử dụng tư liệu sưu tầm của học sinh các khoá trước.
+ Đánh giá, động viên việc sưu tầm tư liệu của học sinh.
+ Giáo viên thường xuyên bổ sung tư liệu, kiến thức ngoài sách giáo khoa
trong các tiết học.
* Ví dụ bài 58: Nhu cầu nước của thực vật
Học sinh sưu tầm tranh, ảnh, một số cây thật. Học sinh sẽ làm việc theo
nhóm với các yêu cầu:
- Phân loại các loại cây đã sưu tầm theo 4 nhóm sau đây;
+ Cây chịu được khô hạn
+ Cây sống trên cạn ưa ẩm ướt

+ Cây sống dưới nước
+ Cây vừa sống trên cạn vừa sống dưới nước
- Nhận xét về nhu cầu nước của mỗi loài cây
Sau khi tìm hiểu và phân loại từ những tranh, ảnh, cây đã sưu tầm, học
sinh tự rút ra được kết luận về nhu cầu nước của mỗi loài cây (Mỗi loài cây có
nhu cầu về nước khác nhau).
Biện pháp 2: Rèn học sinh tự làm các thí nghiệm đơn giản.
Ở lớp 4, chủ đề “Vật chất và năng lượng” giúp học sinh bước đầu làm
quen với kiến thức hóa học vô cơ. Nội dung này được thể hiện nhiều là qua các
thí nghiệm, vì vậy khi giảng dạy, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến việc làm
thí nghiệm.
* Phương pháp thí nghiệm có tác dụng :
5


+ Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng, sự
vật tự nhiện.
+ Thí nghiệm được sử dụng như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức
mới, vì thế các em sẽ hiểu sâu nhớ lâu.
+ Rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng: đặt thí nghiệm, lắp ráp dụng cụ
thí nghiệm, quan sát diễn biến thí nghiệm, ...
* Để dạy học theo phương pháp thí nghiệm thông thường cần tuân theo
các bước sau:
a) Xác định mục đích của thí nghiệm:
Các thí nghiệm trong chương trình khoa học 4 có thể phân thành 3 loại
chính:
- Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả.
- Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia hoặc hiện
tượng kia).
- Loại nghiên cứu tính chất của một vật.

b) Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm:
Liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành
thí nghiệm.Vạch kế hoạch cụ thể (Làm gì trước? Làm gì sau?).
- Thực hiện thao tác gì? Trên vật nào ?
- Quan sát dấu hiệu gì? Ở đâu? Bằng giác quan nào hoặc phương tiện
nào?
c) Tiến hành thí nghiệm
Bố trí, lắp ráp và làm thí nghiệm theo các bước đã vạch ra.
* Khi làm thí nghiệm, giáo viên cần nắm vững và thực hiện các yêu cầu
sau:
+ Học sinh phải chọn ra được một số yếu tố riêng có thể khống chế được
để nghiên cứu hoặc phải tác động lên hiện tượng, sự vật cần nghiên cứu.
+ Học sinh cần phải theo dõi, quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí
nghiệm.
+ Học sinh cần biết thiết lập các mối quan hệ (nguyên nhân - kết quả) giải
thích các kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận.
+ Các điều kiện và quá trình được kiểm soát là thiết yếu đối với một số
thí nghiệm.
+ Chú ý đảm bảo an toàn cho học sinh khi làm thí nghiệm.
d) Phân tích kết quả và kết luận: Phần này, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh chú ý đến các dấu hiệu bản chất. Dạy học sinh cách so sánh, suy luận khái
quát để rút ra kết luận.
- Lưu ý: Tuỳ từng thí nghiệm, tuỳ trình độ học sinh, giáo viên có thể yêu
cầu học sinh làm thí nghiệm ở các mức độ khác nhau:
- Học sinh nghiên cứu thí nghiệm được trình bày trong sách giáo khoa
đưa ra giả thuyết, giải thích và kết luận.
- Giáo viên làm mẫu, học sinh làm theo.
- Giáo viên giao nhiệm vụ, giúp đỡ học sinh từng bước tiến hành thí
nghiệm thông qua phiếu học tập hoặc chỉ dẫn bằng lời.
6



- Giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh tự làm, giáo viên theo dõi và đưa ra
chỉ dẫn kịp thời nếu thấy cần thiết.
Vì thế trừ một số thí nghiệm đòi hỏi tính chính xác cao phải do giáo viên
thực hiện (ví dụ bài 31: thí nghiệm chứng minh tính chất của không khí: Không
khí nở ra khi nóng lên và co lại khi lạnh đi; bài 37: Thí nghiệm chứng minh
không khí chuyển động từ nơi lạnh đến nơi nóng, không khí chuyển động tạo
thành gió) các thí nghiệm nêu ở sách giáo khoa, tôi chia lớp thành nhiều nhóm
để thực hành.
Đối với mỗi thí nghiệm yêu cầu học sinh thực hiện đúng theo các bước
sau:
Bước 1: Chuẩn bị dụng cụ.
Bước 2: Tiến hành thí nghiệm.
Bước 3: Quan sát thí nghiệm.
Bước 4: Giải thích thí nghiệm
* Ví dụ bài 35: Không khí cần cho sự cháy
Hoạt động 1: Tìm hiểu vai trò của ô - xi đối với sự cháy
Mục tiêu: Làm thí nghiệm chứng tỏ: Càng có nhiều không khí càng có
nhiều ô - xi để duy trì sự cháy được lâu hơn
Bước 1: Chuẩn bị:
+ Hai lọ thủy tinh ( 1 lọ to, 1 lọ nhỏ)
+ Hai cây nến bằng nhau
Bước 2: Cách tiến hành
Giáo viên cho học sinh đọc cách tiến hành trong SGK để học sinh nắm
được cách làm thí nghiệm như sau:
+ Lấy 2 lọ thủy tinh cùng úp đồng thời vào 2 cây nến đang cháy
+ Quan sát sự cháy của các ngọn nến
Bước 3: Quan sát thí nghiệm
- Học sinh quan sát để thấy được ngọn nến trong lọ thủy tinh to thời gian

cháy dài hơn, ngọn nến trong lọ thủy tinh nhỏ thời gian cháy ngắn hơn.
Bước 4: Giải thích hiện tượng
Học sinh dựa vào các thành phần của không khí để giải thích hiện tượng
cây nến trong lọ thủy tinh to cháy lâu hơn cây nến trong lọ thủy tinh nhỏ như
sau:
Nến trong lọ thủy tinh cháy lâu hơn vì lượng không khí ở trong lọ nhiều
hơn nên lượng ô - xi nhiều hơn. Còn nến trong lọ thủy tinh nhỏ tắt nhanh hơn vì
lượng không khí trong lọ nhỏ ít hơn nên lượng ô - xi ít hơn.
Sau đó học sinh rút ra kết luận: Ô - xi trong không khí cần cho sự cháy.
Càng có nhiều không khí thì càng có nhiều ô - xi để duy trì sự cháy lâu hơn. Vì
vậy cần có không khí để duy trì sự cháy.

7


(Học sinh quan sát thí nghiệm để rút ra nhận xét)
* Ví dụ bài 52: Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt.
Hoạt động 2: Chứng minh không khí là vật cách nhiệt.
Bước 1: Chuẩn bị:
+ Hai chiếc cốc như nhau.
+ Hai tờ giấy báo.
+ Nước nóng.
+ Nhiệt kế.
Bước 2: Cách tiến hành:
+ Lấy một tờ giấy báo quấn thật chặt vào cốc thứ nhất.
+ Lấy tờ báo còn lại làm nhăn và quấn lỏng vào cốc thứ hai để có nhiều
chỗ chứa không khí giữa các lớp giấy.
+ Đổ vào hai cốc nước một lượng nước nóng như nhau.
+ Sau một thời gian đo nhiệt độ nước trong hai cốc.
- Nhận xét: Nước trong cốc nào nóng hơn

Giáo viên chỉ làm mẫu cách quấn giấy vào cốc sau đó yêu cầu học sinh
tiến hành thí nghiệm theo nhóm 4.
Bước 3: Quan sát thí nghiệm
Học sinh đo và ghi lại nhiệt độ của từng cốc sau mỗi lần đo.
Lần 1: Nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn và không buộc chặt có
nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường chặt
Lần 2: Đo cách lần một 5 phút, nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn
và chặt vẫn có nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường
chặt.
Bước 4: Giải thích hiện tượng
Học sinh dựa vào tính chất của không khí để giải thích hiện tượng nước
trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn nước trong cốc quấn giấy
báo thường và quấn chặt như sau:
Nước trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn vì giữa các
lớp báo quấn lỏng có chứa rất nhiều không khí nên nhiệt độ của nước truyền
8


qua cốc, lớp giấy báo và truyền ra ngoài môi trường ít hơn, chậm hơn nên nó
còn nóng lâu hơn.
Sau đó học sinh tự rút ra kết luận không khí là vật cách nhiệt.
* Ưu điểm của biện pháp này là:
- Học sinh có kỹ năng thao tác thành thạo trong việc thực hiện thí nghiệm
dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Học sinh được trực quan (mắt thấy, tai nghe hoặc cảm nhận qua các giác
quan) các hiện tượng, kết quả thí nghiệm, chứ không bị áp đặt, chấp nhận kết
quả thí nghiệm một cách gián tiếp thông qua sách giáo khoa.
Biện pháp 3: Tăng cường việc học tập theo nhóm để phát huy tính tích
cực của học sinh.
Dạy học theo nhóm là hình thức giảng dạy học sinh vào môi trường học

tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành các nhóm một cách thích
hợp. Trong nhóm, học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm việc
hợp tác với nhau.
Hoạt động nhóm là một hoạt động học tập tích cực. Cụ thể là:
- Đem lại cho học sinh cơ hội được sử dụng các kiến thức và kỹ năng mà
các em được lĩnh hội và rèn luyện.
- Cho phép học sinh diễn đạt những ý tưởng, những khám phá của mình.
- Mở rộng suy nghĩ và thực hành các kỹ năng tư duy (so sánh, phân tích,
tổng hợp, đánh giá ...).
- Hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kỹ năng làm việc,
kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò
trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt
động nhóm, các em có thể cùng làm với nhau những công việc mà một mình
không thể tự làm được trong một thời gian nhất định.
- Hình thức dạy học theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối
quan hệ qua lại trong học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ, tin
tưởng lẫn nhau trong học tập.
- Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm giúp các em học sinh nhút
nhát, khả năng diễn đạt kém có điều kiện rèn luyện, tập dượt, từ đó tự khẳng
định mình trong sự hấp dẫn của hoạt động nhóm.
- Khi dạy học nhóm, giáo viên sẽ có dịp tận dụng các kinh nghiệm và sự
sáng tạo của học sinh trong học tập.
* Muốn hoạt động nhóm đạt kết quả tốt cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Mỗi thành viên trong nhóm đều biết và hiểu công việc của nhóm, của
bản thân.
- Mỗi thành viên đều tích cực suy nghĩ và tham gia vào các hoạt động của
nhóm (như phát biểu ý kiến, tranh luận ...).
- Mọi thành viên đều lắng nghe ý kiến của nhau, thoải mái khi phân tích
và nói ra những điều mình suy nghĩ.
- Toàn nhóm làm việc hợp tác và đồng lòng với quyết định của cả nhóm.

- Mọi người biết rõ việc cần làm, giúp đỡ lẫn nhau, đều lo lắng tới công
việc chung.
9


- Vai trò của nhóm trưởng, thư ký, báo cáo viên ... được thực hiện luân
phiên.
Chính vì thế giáo viên cần có sự chuẩn bị kỹ càng từ việc tự làm thử thí
nghiệm trước khi lên lớp đến cách tổ chức, giao việc để tránh gây lôn xộn hoặc
học sinh không nắm bắt được yêu cầu kiến thức của tiết học. Muốn vậy, giáo
viên cần chú ý:
+ Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn (chia nhóm nhỏ, lớn).
+ Giao việc cụ thể cho từng nhóm.
+ Phân công nhiệm vụ cho các em.
Trong nhóm thường có các thành phần:
+ Trưởng nhóm: Quản lý chỉ đạo, điều khiển nhóm hoạt động.
+ Thư ký nhóm: Ghi chép lại các kết quả công việc của nhóm sau khi đạt
được sự đồng tình của nhóm.
+ Báo cáo viên: Trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm.
+ Các thành viên khác trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào
các hoạt động của nhóm.
Mỗi nhóm chỉ nên có khoảng từ 2 đến 6 em.
* Ví dụ bài 20: Nước có những tính chất gì ?
Hoạt động 1: Quan sát vật thật
Mục tiêu:
Phát hiện màu, mùi, vị của nước.
Cách tiến hành:
Bước 1: Tổ chức, hướng dẫn
+ Giáo viên yêu cầu các nhóm đem cốc đựng nước và cốc đựng sữa đã
chuẩn bị ra quan sát và làm theo yêu cầu như đã ghi ở trang 42 sách giáo khoa.

+ Giáo viên chỉ yêu cầu học sinh trao đổi trong nhóm ý 1 và 2 theo yêu
cầu quan sát ở trang 42 SGK.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
+ Nhóm trưởng điều khiển các bạn quan sát và lần lượt trả lời câu hỏi;
Cốc nào đựng nước, cốc nào đựng sữa ? (học sinh dễ dàng nhận ra cốc
đựng nước và cốc đựng sữa trên vật thật).
Làm thế nào để bạn biết điều đó ? (đối với câu hỏi này, giáo viên cần đi
tới các nhóm giúp đỡ để học sinh sử dụng các giác quan của mình phát hiện ra
cốc nào đựng nước và cốc nào đựng sữa). Cụ thể là:
Nhìn vào 2 cốc: Cốc nước thì trong suốt và có thể nhìn thấy rõ cái thìa để
trong cốc; cốc sữa có màu trắng đục nên không nhìn rõ cái thìa để trong cốc.
Nếm lần lượt từng cốc: Cốc nước không có vị, cốc sữa có vị ngọt.
Ngửi lần lượt từng cốc: Cốc nước không có mùi, cốc sữa có mùi sữa.
Bước 3: Làm việc cả lớp
+ Giáo viên gọi đại diện cả nhóm lên trình bày những gì học sinh đã phát
hiện ra ở bước 2.

10


Giáo viên ghi các ý kiến của học sinh lên bảng như sau:
Các giác quan cần sử
dụng để quan sát
1. Mắt - nhìn

Cốc nước

Cốc sữa

Không có màu, trong

suốt, nhìn rõ chiếc thìa

Trắng đục, không nhìn rõ
chiếc thìa

2. Lưỡi - nếm

Không có vị

Có vị ngọt của sữa

3. Mũi - ngửi

Không có mùi

Có mùi của sữa

+ Giáo viên gọi một số học sinh nói về một số tính chất của nước được
phát hiện trong hoạt động này.
Kết luận: Qua quan sát ta có thể nhận thấy nước trong suốt, không màu,
không mùi, không vị
* Ví dụ bài 40: Bảo vệ bầu không khí trong sạch
Mục tiêu: Nêu được những việc nên làm và việc không nên làm để bảo vệ
bầu khồng khí trong sạch.
Bước 1: Hướng dẫn học sinh quan sát và trả lời câu hỏi: Bức tranh vẽ gì ?
Bước 2: Thảo luận nhóm
+ Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ. Phát cho học sinh mỗi nhóm
một tập thẻ có ghi nội dung việc làm ở từng bức tranh vừa được quan sát
+ Các nhóm thảo luận để chọn ra những việc nên làm hay không nên làm
và giải thích cho từng lựa chọn của nhóm mình. Giáo viên đi đến từng nhóm để

gợi ý cách giải thích: Tại sao nên làm và không nên làm ?
Bước 3 : Trình bày kết quả làm việc của nhóm mình
+ Các nhóm cử đại diện nhóm trình bày kết quả và giải thích lựa chọn của
nhóm mình. Nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên chốt kiến thức
+ Từ việc lựa chọn và giải thích lựa chọn của học sinh ở trên. Giáo viên
nêu gợi ý để học sinh nêu các việc làm để bảo vệ bầu không khí trong sạch .
+ Học sinh trả lời, học sinh khác nhận xét và nhắc lại nội dung các việc
làm để bảo vệ bầu không khí trong sạch.
+ Giáo viên chốt (kết luận như SGK)
* Ví dụ bài 58: Nhu cầu nước của thực vật
Hoạt động 1: Quan sát vật thật (cây thật)
Mục tiêu:
Phân loại các loài cây theo từng nhóm: cây sống trên cạn chịu được khô
hạn, cây sống trên cạn ưa ẩm ướt, cây sống dưới nước, cây vừa sống trên cạn
vừa sống dưới nước
Cách tiến hành:
Bước 1: Tổ chức, hướng dẫn
+ Giáo viên yêu cầu các nhóm để các cây đã chuẩn bị ra quan sát và ghi
vào bảng sau:
11


Cây sống dưới
nước

Cây sống trên cạn
chịu được
khô hạn

Cây sống trên cạn

ưa ẩm ướt

Cây vừa sống
trên cạn vừa
sống dưới nước

............................ ............................. ............................. ..........................
+ Giáo viên phát phiếu thảo luận cho các nhóm, 2 nhóm làm vào giấy khổ
to.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
+ Nhóm trưởng điều khiển các bạn quan sát và cử thư kí ghi lại kết quả
thảo luận của nhóm mình.
Giáo viên đi giúp đỡ các nhóm, hướng dẫn học sinh dựa vào cây và đã
chuẩn bị và bằng vốn hiểu biết của mình ghi tên các loài cây vào từng cột trong
phiếu.
Bước 3: Làm việc cả lớp
+ Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên trình bày những gì nhóm đã tìm
hiểu được trước cả lớp.
+ Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
+ Giáo viên gọi một số học sinh giới thiệu thêm về cây mình đã mang đi
để cả lớp cùng quan sát và lắng nghe.
Kết luận: Qua quan sát và tìm hiểu ta có thể nhận thấy mỗi loài cây có
nhu cầu về nước khác nhau, có cây sống dưới nước, có cây ưa ẩm, có cây chịu
được khô hạn, có cây vừa sống được trên cạn vừa sống được dưới nước.

(Học sinh thảo luận nhóm 4 để phân loại các loài cây theo nhu cầu nước)
* Việc học tập theo nhóm đã đem lại một số kết quả học tập như sau:
+ Học sinh tham gia tích cực hơn, tự tin hơn vào bản thân.
+ Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trước tập thể.
12



Ngoài việc lên kế hoạch và giao việc cho các nhóm, để tổ chức một tiết
học có hiệu quả, giáo viên cần chú ý một số điểm sau:
+ Sắp xếp bàn ghế thuận tiện cho việc học nhóm.
+ Luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học.
+ Chuẩn bị tốt nội dung thảo luận cho từng nhóm.
Biện pháp 4: Sử dụng các trò chơi học tập nhằm tạo hứng thú cho
học sinh.
Chơi là một nhu cầu mang tính sinh học của các em. Có thể nói vui chơi
cũng cần thiết và quan trọng như việc ăn, ngủ, học tập... trong đời sống của các
em học sinh vậy.
Tổ chức trò chơi học tập giúp thay đổi hình thức hoạt động trên lớp, làm
không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, học sinh tiếp thu kiến thức thoải mái, tích
cực hơn ...
* Khi tổ chức trò chơi người giáo viên cần phải nắm và thực hiện được
các nguyên tắc sau:
+ Trò chơi phải thể hiện mục đích rõ ràng về kiến thức của bài học, đảm
bảo ôn tập, củng cố, rèn kĩ năng hoặc ứng dụng một đơn vị kiến thức cụ thể.
+ Trò chơi phải đơn giản, dễ làm sao cho bản thân giáo viên và học sinh
đều có thể tự làm được.
+ Hệ thống trò chơi trong các giờ học phải thu hút được nhiều đối tượng
học sinh tham gia. Tránh chỉ thiết kế trò chơi cho học sinh khá giỏi.
+ Trò chơi phải có luật chơi cụ thể, rõ ràng.
+ Đảm bảo an toàn cho học sinh khi chơi.
+ Nên tổ chức vào phần củng cố bài học, khi thời gian của tiết học còn
khoảng 5 đến 6 phút.
* Cách tổ chức trò chơi:
+ Giới thiệu và nêu cách chơi: Có thể tiến hành nhiều cách khác nhau
nhưng yêu cầu giáo viên nói ngắn gọn rõ ràng, dễ hiểu, sao cho tất cả học sinh

nắm được cách chơi.
+ Cho học sinh chơi thử (nếu cần).
+ Tiến hành chơi (giáo viên điều khiển trò chơi phải nắm vững tiến trình
và theo dõi chặt chẽ).
+ Đánh giá kết quả chơi: Sau mỗi lần chơi giáo viên nhận xét, đánh giá
đúng thực chất của cuộc chơi. Nêu ưu, nhược điểm của từng cá nhân, tập thể.
Xếp giải nhất, giải nhì... công bằng rõ ràng để kích thích những lần chơi tiếp
theo.
Kết thúc: Giáo viên hỏi xem học sinh đã học được những gì qua trò chơi
hoặc giáo viên tổng hợp lại những gì cần học được qua trò chơi này; Lưu ý: Đối
với những trò chơi đơn giản, không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các bước
trên.
* Ví dụ dạy bài 41: Âm thanh
Trò chơi : Đoán tên âm thanh (thời gian 3 phút)
Mục đích: Giúp học sinh khắc sâu kiến thức về những âm thanh trong
cuộc sống phát ra từ đâu và luyện tập các cách khác nhau để làm cho vật phát ra
âm thanh.
13


Chuẩn bị: Các dụng cụ phát ra âm thanh như: trống, kèn, viên sỏi ...theo
nhóm.
Cách tiến hành:
+ Giáo viên phổ biến luật chơi:
Chia lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm có thể dùng bất cứ vật gì để tạo ra
âm thanh. Nhóm kia sẽ đoán xem, âm thanh đó do vật nào gây ra và đổi ngược
lại. Mỗi lần đoán đúng tên vật được tặng 1 ngôi sao, đoán sai bị lấy đi 1 ngôi
sao.
+ Tổng kết.
+ Tuyên dương nhóm thắng cuộc.

*Ví dụ bài 61: Trao đổi chất ở thực vật
Trò chơi: Tiếp sức (thời gian: 3 phút)
Mục đích: Giúp học sinh củng cố nội dung bài (hiểu thực vật hấp thụ
những gì và thải ra những gì qua sơ đồ trao đổi chất)
Chuẩn bị: 6 thẻ có ghi các từ: Khí ô - xi, nước, chất khoáng, khí các - bô níc, hơi nước, các chất khoáng khác (2 bộ).
Cách tiến hành:
- Giáo viên phổ biến luật chơi: Thi giữa hai đội nam và nữ, mỗi đội gồm
5 bạn, mỗi bạn cầm một thẻ từ. Khi hiệu lệnh chơi bắt đầu, bạn đứng đầu mỗi
đội sẽ chạy nhanh lên gắn thẻ từ mình cầm vào vị trí thích hợp, sau đó quay về
đứng cuối để bạn thứ hai chạy lên gắn thẻ của mình... Cứ như vậy cho đến
người cuối cùng. Đội nào có kết quả đúng và nhanh nhất đội đó là giành chiến
thắng.

(Hai đội chuẩn bị tham gia trò chơi)
*Ví dụ dạy bài 64: Trao đổi chất ở động vật
Trò chơi: Đố bạn con gì ? (thời gian 3 phút)
Mục đích: Giúp học sinh luyện tập kể tên một số loài động vật và thức ăn
của chúng. Củng cố cách phân loài động vật theo nhóm thức ăn của chúng.
14


Chuẩn bị: Tranh ảnh động vật đủ các nhóm thức ăn của nó.
Cách tiến hành:
- Giáo viên phổ biến luật chơi:
+ Giáo viên dán vào lưng học sinh một con vật mà không cho học sinh đó
biết, sau đó yêu cầu học sinh quay lưng lại cho các bạn xem con vật của mình.
+ Học sinh chơi có nhiệm vụ đoán xem con vật mình đang mang là con
gì.
+ Học sinh chơi được hỏi các bạn dưới lớp 5 câu về đặc điểm của con
vật.

+ Học sinh dưới lớp chỉ trả lời đúng hoặc sai.
+ Tìm được tên con vật sẽ nhận được một món quà.
- Cho học sinh chơi thử.
Ví dụ: Học sinh đeo con vật là con hổ, hỏi:
+ Con vật này có 4 chân phải không ? - Đúng.
+ Con vật này có sừng phải không ? - Sai.
+ Con vật này ăn thịt các loại động vật khác có phải không ? - Đúng.
+ Đấy là con hổ - Đúng. (cả lớp vỗ tay khen bạn).
- Cho học sinh chơi theo nhóm.
- Cho học sinh xung phong chơi trước lớp.
- Nhận xét, khen ngợi các em đã nhớ những đặc điểm của con vật, thức
ăn của chúng.
Biện pháp 5: Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại (màn hình, máy
chiếu, băng hình ...) để học sinh hứng thú với bài học.
Việc tạo hứng thú, phát huy tính tích cực cho học sinh trong học tập phải
đi đôi với đổi mới hình thức tổ chức, phương pháp dạy học. Đặc biệt đối với
môn Khoa học, trực quan sinh động có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu bài
của học sinh. Bởi lẽ có những kết luận có thể diễn giải được bằng lời nhưng
cũng có khi không thể trình bày hết được. Nhưng chỉ bằng một lần được quan
sát, tận mắt chứng kiến chắc chắn các em sẽ ghi nhớ lâu hơn. Mặt khác, có
những kiến thức mà trong thực tế các em có điều kiện quan sát, đối với những
dạng bài này, việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp các em tiếp nhận kiến
thức tốt hơn như Video clip, hình ảnh được trình chiếu bằng PowerPoint mà
trong thời điểm hiện tại các em không thể quan sát được.
Tuy nhiên khi giảng giáo viên cần hạn chế kênh chữ, tập trung vào kênh
hình và các hiệu ứng hoặc trang trí trong các slide không nên quá cầu kì, làm
mất tập trung của học sinh và giảm hiệu quả của tiết dạy.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học không chỉ tạo ra nhũng
hình thức quan sát sinh động mà còn giúp giáo viên tiết kiệm thời gian tổ chức
các hoạt động trên lớp. Không những thế, điều này còn giúp học sinh phát huy

tốt tính tích cực, chủ động và hứng thú khi tham gia tìm hiểu bài.
Từ chỗ học sinh nhàm chán mỗi khi tới giờ Khoa học vì chỉ quan sát hình
ảnh ở sách giáo khoa, từ những thông tin cho sẵn thì nay các em đã rất hứng thú
mỗi khi tới tiết Khoa học vì các em được quan sát hình ảnh được chụp từ thực
tế. Các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi tham gia các hoạt động học tập, chủ
động khai thác bài và biết đặt câu hỏi thắc mắc về nội dung bài.
15


* Ví dụ bài 39: Không khí bị ô nhiễm
Hoạt động 2: Nguyên nhân gây nhiễm bẩn bầu không khí.
Học sinh xem một đoạn băng hình về ô nhiễm không khí. Trước khi xem
băng hình, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát băng, trả lời câu hỏi sau:
+ Nhận xét bầu không khí trong đoạn băng hình
+ Nêu nguyên nhân gây nhiễm bẩn bầu không khí.
+ Liên hệ bầu không khí ở địa phương (xung quanh trường học, nơi em
ở...)
Trong quá trình xem băng hình, giáo viên có thể dừng video ở một số
hình ảnh và yêu cầu học sinh cho ý kiến của mình về bầu không khí thông qua
các hình ảnh đó.
Như vậy, cách sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại, giáo viên đã đưa
học sinh vào các tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh tích cực tư duy để giải
quyết vấn đề đặt ra, cung cấp những thông tin cập nhật và từ đó có ý thức trách
nhiệm bảo vệ bầu không khí.

(Học sinh học qua video và trình chiếu PowerPoint
để hiểu nguyên nhân gây ô nhiễm không khí)
* Ưu điểm của biện pháp 5 là:
+ Học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động.
+ Phát triển tư duy tích cực và có khả năng vận dụng tri thức vào tình

huống mới.
+ Hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
Trên đây là những biện pháp tôi đã áp dụng trong giảng dạy môn Khoa
học. Các biện pháp này đã góp phần không nhỏ trong việc tạo hứng thú và phát
huy tích tích cực trong học tập của học sinh lớp tôi chủ nhiệm.
Sau đây tôi xin trình bày bài soạn mẫu minh họa cho những vấn đề vừa
nêu:
KHOA HỌC
Bài 58: NHU CẦU NƯỚC CỦA THỰC VẬT
I. MỤC TIÊU: Sau bài học HS biết :
- Trình bày nhu cầu nước của thực vật và ứng dụng thực tế của kiến thức
đó trong trồng trọt.
16


- Rèn cho HS kĩ năng hợp tác trong nhóm nhỏ. Kĩ năng trình bày sản
phẩm thu thập được và thông tin về chúng.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
- Sưu tầm tranh, ảnh hoặc cây thật sống ở những nơi khô cạn, nơi ẩm ướt
và dưới nước.(HĐ1)
- Phiếu học tập (HĐ1):
Cây sống dưới
nước

Cây sống trên
cạn chịu được
khô hạn
…...................... …......................
…...................... ..........................


Cây sống trên
cạn ưa ẩm ướt

Cây vừa sống
trên cạn vừa
sống dưới nước
.......................... ..........................
........................... ..........................

- Hình minh họa trang 117 SGK
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Hoạt động 1: Củng cố kiến thức (2'): HS nêu các điều kiện để thực vật
sống và phát triển bình thường.
- 2 - 3 HS nêu - Lớp nhận xét. GV nhận xét, đánh giá
* Giới thiệu bài (3'):
- GV cho HS xem đoạn băng hình ngắn về tác hại của việc cây trồng
thiếu nước - Gọi HS nêu suy nghĩ sau khi xem các hình ảnh
- GV dẫn dắt vào bài học.
- GV ghi tên bài.
Hoạt động 2 (13'): Tìm hiểu nhu cầu nước của các loài thực vật khác
nhau.
Mục tiêu:
Phân loại các loài cây theo từng nhóm: cây sống trên cạn chịu được khô
hạn, cây sống trên cạn ưa ẩm ướt, cây sống dưới nước, cây vừa sống trên cạn
vừa sống dưới nước
Cách tiến hành:
Bước 1: Tổ chức, hướng dẫn
- Giáo viên yêu cầu các nhóm để các cây đã chuẩn bị ra quan sát và ghi
kết quả vào phiếu.
- Giáo viên phát phiếu thảo luận cho các nhóm, 2 nhóm làm vào giấy khổ

to.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
a- Nhóm trưởng điều khiển các bạn quan sát và cử thư kí ghi lại kết quả
thảo luận của nhóm mình.
- Giáo viên đi giúp đỡ các nhóm, hướng dẫn học sinh dựa vào cây và đã
chuẩn bị và bằng vốn hiểu biết của mình ghi tên các loài cây vào từng cột trong
phiếu.
Bước 3: Làm việc cả lớp
17


- Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên trình bày những gì nhóm đã tìm
hiểu được trước cả lớp.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên gọi một số học sinh giới thiệu thêm về cây mình đã mang đi
để cả lớp cùng quan sát và lắng nghe.
- HS rút ra kết luận: Qua quan sát và tìm hiểu ta có thể nhận thấy mỗi loài
cây có nhu cầu về nước khác nhau.
- GVKL: Mỗi loài cây có nhu cầu về nước khác nhau, có cây sống dưới
nước, có cây ưa ẩm, có cây chịu được khô hạn, có cây vừa sống được trên cạn
vừa sống được dưới nước.
Hoạt động 3 (14'): Tìm hiểu nhu cầu về nước của thực vật ở những
giai đoạn phát triển khác nhau.
Mục tiêu: HS hiểu được: Cùng một cây, trong những giai đoạn phát triển
khác nhau cần những lượng nước khác nhau
- HSQS hình vẽ SGK thảo luận theo nhóm đôi: Cây lúa cần nhiều nước
vào giai đoạn nào? Vì sao?
- HS thảo luận trả lời câu hỏi.
- Kết luận: Cây lúa cần nhiều nước khi mới cấy để cây phát triển, vào giai
đoạn làm đòng cần nhiều nước để cây tạo hạt.

- GV yêu cầu HS lấy ví dụ chứng tỏ cùng 1 loại cây nhưng ở những giai
đoạn phát triển khác nhau thì cần những lượng nước khác nhau và những ứng
dụng của kiến thức đó trong trồng trọt (cây mía, cây ngô, các loại cây ăn quả...).
- HS rút ra nhận xét về nhu cầu nước của cây ở những giai đoạn phát triển
khác nhau.
- GV KL: Cùng một cây, trong những giai đoạn phát triển khác nhau cần
những lượng nước khác nhau. Khi thời tiết thay đổi nhu cầu nước của cây cũng
thay đổi. Vào những ngày nắng nóng, lá cây thoát nhiều hơi nước hơn nên nhu
cầu nước của cây cũng cao hơn.
- GV cho HS liên hệ thực tế và hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến
thức đó trong trồng trọt ở gia đình.
- Rút ra nội dung bài học.
*Hoạt động nối tiếp (3'):
- GV tổ chức trò chơi: "Nhận biết nhanh"
+ Cách chơi: GV đưa ra hình ảnh về một loại cây, HS sẽ giơ tay nhanh để
trả lời cây đó tên gì và cây đó sống ở môi trường nước nào (có khoảng 5 loại
cây).
+ Sau mỗi câu trả lời của HS, GV đưa ra đáp án đúng.
+ GV tuyên dương sự nhiệt tình tham gia trò chơi của HS.
- Qua bài học hôm nay các em rút ra được điều gì? (HS trả lời dựa theo
nội dung bài học).
- GV nhận xét chung về tiết học và dặn dò.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với việc áp dụng thường xuyên các biện pháp trên, việc học môn Khoa
học của học sinh lớp 4A đã có những thay đổi đáng kể. Vào đầu năm học, khi
đến giờ Khoa học học sinh thường có tâm lí ngại học, không hào hứng, không
18


có tinh thần phát biểu bài. Giờ đây, tiết Khoa học đã được các em đón nhận rất

hồ hởi. Nhiều tiết học đã trở thành sân chơi lí thú. Thông qua các hoạt động
theo nhóm, được thực hành thí nghiệm, quan sát tranh, ảnh, video clip... kiến
thức bài học đã được các em tiếp nhận một cách tự nhiên, hiệu quả. Không chỉ
hứng thú với môn học hơn so với trước kia, với những hình thức, phương pháp
tổ chức như trên đã dần hình thành ở các em sự năng động, mạnh dạn trước tập
thể. Thái độ học tập tích cực không chỉ được thể hiện ở môn Khoa học mà đã
tác động rất lớn đến các môn học khác.
Kết quả được thể hiện rõ khi tôi tiến hành dạy bài: Nhu cầu nước của
thực vật (Tuần 29) ở lớp 4A có sử dụng các biện pháp tạo hứng thú và phát huy
tính tích cực của học sinh; lớp 4B không sử dụng các biện pháp tạo hứng thú và
phát huy tính tích cực.
Đánh giá sau tiết dạy như sau:
Lớp
Lớp 4A
(25 HS)
Lớp 4B
(25 HS)

Hứng thú, tích cực với
tiết học
SL
TL

Ít hứng thú, thờ ơ
với tiết học
SL
TL

19


76%

6

24%

7

28%

18

72%

Thông qua bảng thống kê, ta thấy tinh thần, thái độ học tập học sinh giữa
hai lớp có sự khác biệt rõ rệt. Điều đó chứng tỏ tính đúng đắn và hiệu quả của
các biện pháp tạo hứng thú và phát huy tính tích cực cho học sinh mà tôi đã và
đang áp dụng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Mặc dù Khoa học là môn học chiếm số tiết không nhiều như Toán, Tiếng
Việt ở lớp 4 nhưng chúng ta không thể xem nhẹ vai trò và tầm quan trọng của
môn học này trong việc cung cấp kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội cho học sinh. Đứng trước vai trò, vị trí và tầm quan trọng của phân môn
Khoa học ở Tiếu học, tôi thấy người giáo viên cần giáo dục tốt động cơ học tập,
tránh học lệch ở học sinh. Người giáo viên giảng dạy phải chọn cách dạy sao
cho học sinh vừa thích học vừa chủ động chiếm lĩnh kiến thức, có như thế học
sinh mới học tốt được. Tùy thuộc nội dung từng bài mà người giáo viên lựa
chọn được những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp để truyền
đạt tới học sinh. Người giáo viên dạy giỏi là người biết lôi cuốn học sinh vào

bài giảng của mình, khiến các em chăm chú, thích thú với những kiến thức mà
giáo viên truyền tải - đó mới chính là sự thành công của giáo viên trong một tiết
học.
Bản thân giáo viên cũng cần bồi dưỡng cho mình kiến thức về khoa học
để có thể dẫn chứng, mở rộng thêm cho bài giảng phong phú. Qua kinh nghiệm
của tôi cho thấy, đôi khi học sinh đặt những câu hỏi về khoa học tự nhiên ngoài
19


phạm vi sách giáo khoa, nếu giáo viên không tự bồi dưỡng tìm kiếm kiến thức
sẽ rất khó xử lí trong những tình huống ấy. Khi được giải đáp những thắc mắc,
học sinh sẽ ghi nhớ được kiến thức khoa học lâu hơn, các em sẽ thấy yêu thích
môn Khoa học hơn. Khi học sinh thích thú với môn Khoa học, cũng đồng nghĩa
với việc các em sẽ tích cực trong việc tìm tòi những kiến thức về thế giới tự
nhiên, về sinh vật, về những đồ dùng gia dụng, về cách giữ gìn sức khỏe bản
thân,...Sau này trưởng thành các em sẽ trở thành những người có nhiều cống
hiến cho xã hội từ những kiến thức các em học được.
Đối với tôi, cách dạy môn Khoa học theo những biện pháp nêu trên, tôi
thấy mình đã tạo được sự say mê, hứng thú trong học sinh, góp phần không nhỏ
vào việc dạy học và giáo dục các em - những mầm non tương lai của đất nước.
3.2. Kiến nghị
Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số
kiến nghị sau:
- Nhà trường cần tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia giao lưu học
tập, tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, bố trí nhiều tiết dạy mẫu…để
giáo viên vận dụng một cách linh hoạt trong việc giảng dạy với từng đối tượng
học sinh. Đồng thời nhà trường nên thường xuyên mở các chuyên đề Khoa học
cho giáo viên học tập.
- Nhà trường cần thường xuyên sinh hoạt chuyên môn trong tổ. Trong các
buổi sinh hoạt chuyên môn tổ giáo viên cần đưa ra những vướng mắc, khó khăn

trong quá trình giảng dạy để thảo luận tìm cách giải quyết.
- Nhà trường cần bổ sung thêm các thiết bị, dụng cụ thí nghiệm.
- Các cấp quản lý giáo dục cần tạo cơ hội và động viên kịp thời khi giáo
viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dù là nhỏ nhất.
Trên đây là đề xuất sáng kiến của tôi đã áp dụng vào thực tế giảng dạy ở
lớp mình và đã có kết quả tốt. Mặc dù kết quả tương đối tốt song không thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vậy mong Hội đồng khoa học cùng các bạn
đọc góp ý xây dựng để đề tài thêm hoàn chỉnh hơn, đạt kết quả cao hơn, đồng
thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy học môn Khoa học ở Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hoa
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách Khoa học 4, Vở bài tập Khoa học 4 - Bùi Phương Nga, Lương Việt TháiNXB Giáo dục.
- Phương pháp dạy học Tự nhiên và xã hội - Nguyễn Thị Thấn - NXB Đại học
sư phạm.
- Module TH 15: Một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học (Lưu Thu
Thủy).
- Module TH 16: Một số kĩ thuật dạy học tích cực ở tiểu học (Lưu Thu Thủy).
- Tạo hứng thú cho học sinh học tập - Nguồn: Internet

- Một số tạp chí tiểu học.
- Kinh nghiệm của đồng nghiệp.

21



×