Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học thị trấn vĩnh lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.78 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. LỜI MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lý luận.
2.2. Thực trạng của việc dạy học lịch sử ở trường Tiểu học Thị trấn
Vĩnh Lộc
2.3. Các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử
cho học sinh tiểu học.
Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của người dạy, người học.
Giải pháp 2: Sử dụng kênh hình hiệu quả.
Giải pháp 3: Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử.
Giải pháp 4: Chia các bài học thành các dạng bài học cơ bản và đưa
ra phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó.
Giải pháp 5: Giáo viên nắm vững và thực hiện linh hoạt quy trình dạy
học phân mơn Lịch sử.
Giải pháp 6: Các giải pháp khác.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

TRANG

01


01
02
02
02
03
03
03
04
04
06
07
08
11
13
14
15
15
15

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với chiều dài Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm, trên dải đất Việt Nam
hình chữ S, mỗi ngày chúng ta lại được chứng kiến những lễ hội lịch sử hào
hùng của dân tộc. Đây là lịng biết ơn của tồn thể dân tộc đối với các nhân vật

1


lịch sử; sự kiện lịch sử lớn đã trải qua một thời của dân tộc Việt Nam. Chúng ta
vô cùng tự hào về trang sử hào hùng của dân tộc, bởi trên mỗi mảnh đất quê

hương Việt Nam đều từng diễn ra những sự kiện lịch sử lớn của đất nước, nơi
sản sinh nhiều nhân vật lịch sử, nhiều vị anh hùng dân tộc tiêu biểu.
Có được những trang sử hào hùng và những con người anh hùng ấy, bởi
vì: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước, đó là truyền thống quý báu của dân
tộc ta. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại trỗi dậy, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn… nó lướt qua mọi gian khổ khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng
chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta...” (Hồ Chí Minh) [ 2]
Đối với việc giáo dục thế hệ trẻ - những “thế hệ cách mạng cho đời sau”
Bác luôn quan tâm đến việc giáo dục truyền thống của cách mạng và lịch sử, văn
hóa của dân tộc. Bác đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. [ 2]
Thực hiện tư tưởng của Người, nền giáo dục của chúng ta đã rất coi trọng
giáo dục lịch sử dân tộc trong việc xây dựng nhân cách những con người mới xã
hội chủ nghĩa “vừa hồng, vừa chuyên”. Chẳng thế mà chúng ta đã có những thế
hệ người Việt Nam trong thời đại của Bác Hồ vơ cùng u nước, sống có hồi
bão, có lý tưởng cao đẹp, hết lịng hết sức phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân
dân….
Nhưng trong những năm gần đây, chúng ta thấy rất buồn sau mỗi kì thi
đại học lại có nhiều bài thi nhầm lẫn đến rơi nước mắt khi trả lời các kiến thức
cơ bản về lịch sử. Điều này một phần có lỗi từ cái gốc lịch sử từ bậc học Tiểu
học của các em - Đây là một điểm yếu cần được khắc phục. Làm thế nào để
trong cuộc sống thường nhật của chúng ta có những con người yêu nước, đầy
tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, với dân tộc? Khơng cịn những học sinh
hư hỏng, xem thường truyền thống lịch sử, mơ hồ với lịch sử dân tộc. Đó là một
vấn đề lớn đòi hỏi tâm huyết và sự sẻ chia của các nhà khoa học, các nhà giáo,
nhất là những người trực tiếp giảng dạy ở bậc Tiểu học.
Phải khẳng định ngay rằng với những cố gắng nhất định, việc dạy Lịch sử
trong các trường Tiểu học đã góp phần khơng nhỏ vào việc giáo dục, hình thành

và phát triển nhân cách học sinh theo những yêu cầu đặt ra. Chúng ta đã có
nhiều giờ dạy Lịch sử ở bậc Tiểu học rất hay, rất xúc động, làm cho cả người
dạy, người học và người tham dự không khỏi tự hào rằng mình là người Việt
Nam - Một dân tộc với truyền thồng “Nghìn năm văn hiến”. Những tiết dạy
học Lịch sử như thế đã thực sự mang lại những giá trị to lớn trong việc hình
thành ở học sinh những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam, nó có tác dụng
hơn hẳn những lời giáo huấn thông thường. Đặc biệt nó đã ngăn được những ảnh
hưởng tiêu cực của cuộc sống đến sự hình thành và phát triển của nhân cách các
em.
Là một giáo viên Tiểu học và là người trực tiếp dạy phân môn Lịch sử tôi
luôn trăn trở làm thế nào để dạy tốt phân môn Lịch sử ở trường Tiểu học, làm
thế nào để học sinh u thích mơn học Lịch sử? Để trả lời được câu hỏi đó là cả
một q trình và cũng là mục đích cần hướng đến của những nhà kĩ sư tâm hồn.

2


Với những lí do trên, bằng kinh nghiệm của bản thân trong q trình
giảng dạy tơi xin nêu ra một số ý kiến với mong muốn góp chút phần nhỏ bé của
mình vào việc “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn
Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Thị trấn Vĩnh Lộc”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phân mơn Lịch sử trong trường Tiểu học có một vị trí hết sức quan trọng
trong việc góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh đồng thời tạo cơ
sở để các em tiếp thu có hệ thống và vững chắc chương trình của mơn Lịch sử ở
các cấp học trên. Việc dạy Lịch sử trong các trường Tiểu học đã góp phần khơng
nhỏ vào việc giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo những
u cầu đặt ra. Chính vì thế mà tơi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Lịch sử lớp 5.

1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài, sách giáo khoa, sách giáo
viên Tiểu học và các tư liệu lịch sử liên quan.
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát, phân tích, tổng hợp.
1.4.3. Phương pháp thống kê phân loại.
1.4.4. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Lịch sử là mơn học nghiên cứu và phân tích những sự kiện đã xảy ra.
Phân mơn Lịch sử ở Tiểu học cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản,
thiết thực về: các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu tương đối có hệ
thống theo dịng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước tới nửa

3


đầu thế kỉ XIX. Việc học lịch sử không phải chỉ là học thuộc, nạp vào trí nhớ các
em những lời giảng của thầy hay nội dung sách giáo khoa mà điều cốt lõi là
thơng qua q trình làm việc với các nguồn tài liệu, học sinh tự tạo cho mình
những hình ảnh lịch sử, sự hiểu biết về quá khứ, rèn luyện cách thức, phương
pháp tìm hiểu lịch sử.
Phần Lịch sử lớp 4, lớp 5 khơng trình bày lịch sử theo một hệ thống chặt
chẽ. Mỗi bài học là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử khơng thể hình
thành một cách cơ lập mà ln gắn liền với một bối cảnh lịch sử cụ thể. Vì vậy
trước khi dạy nội dung của một bài cụ thể, giáo viên cần giới thiệu sơ lược về
bối cảnh lịch sử. Để đạt hiệu quả cao, giáo viên cần phải nắm vững tồn bộ tiến
trình lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cho đến nay. Người giáo viên chính là chiếc
cầu nối để đưa các em đến gần hơn với những trang lịch sử hào hùng của dân

tộc, là người định hướng giúp các em có được cách học có hiệu quả. Đây cũng là
kiến thức nền móng cho các em tiếp tục học lên các cấp học trên. Để làm được
điều đó trước hết người giáo viên phải có kiến thức vững vàng, am hiểu về lịch
sử dân tộc và bản thân người giáo viên phải là người yêu mến, tự hào về lịch sử
của dân tộc mình thì mới thực sự làm trịn trách nhiệm vẻ vang đó.
Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, theo tinh thần đổi mới phương pháp
dạy học, trong đó người giáo viên ln giữ vai trị tổ chức chỉ đạo, học sinh tích
cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú và trách
nhiệm. Người giáo viên đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch, hướng dẫn hoạt
động và hợp tác. Người học (HS) được người dạy (GV) theo sát giúp đỡ trong
q trình học nên tích cực tự giác và thể hiện sự năng động trong hoạt động học
tập, kết quả cuối cùng là học sinh đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng, giúp đỡ của giáo viên. Tự
mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú say mê và
u mến mơn học hơn so với những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ
giáo viên.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC THỊ TRẤN VĨNH LỘC
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, qua dự giờ đồng nghiệp đặc biệt là
giáo viên trực tiếp dạy phân môn Lịch sử, tôi nhận thấy:
+ Về phía học sinh: Nhiều học sinh sợ khi đến giờ Lịch sử và khơng thích
học Lịch sử. Các em chưa xác định được tầm quan trọng của môn học nên việc
đầu tư thời gian cịn ít, chỉ chú trọng nhiều vào học Tốn và Tiếng Việt. Chính
vì thế nên các em không nhớ được các mốc thời gian và các sự kiện lịch sử tiêu
biểu ứng với các mốc thời gian đó hoặc các em cịn nhầm lẫn các nhân vật với
các triều đại lịch sử,...
+ Về phía giáo viên: Trong nhiều tiết dạy giáo viên vẫn chưa tổ chức
được cho học sinh sưu tầm tư liệu và chuẩn bị bài chu đáo, chưa tạo ra được
được sự hứng thú cho học sinh tham gia học hỏi và tìm hiểu kĩ bài học; nhiều
giờ Lịch sử diễn ra nặng nề hoặc khô khan, hiệu quả giáo dục thấp. Điều này
dẫn đến có những học sinh khơng biết gì về truyền thống lịch sử cha ơng, đó

cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn các nhân vật và triều đại Lịch
sử...

4


Sau khi đưa ra vấn đề nghiên cứu tôi đã tiến hành trao đổi đồng nghiệp,
khảo sát học sinh nhằm tìm hiểu thực trạng dạy - học. Cuối năm học 2015 –
2016, nhà trường tổ chức kiểm tra định kỳ. Kết quả thu được như sau:
Lớp Sĩ số HS
Điểm 9, 10
Điểm 7, 8
Điểm 5, 6
Điểm dưới 5
5A
25
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
24%
11
44%
7
28%

1
4%
Lớp Sĩ số HS
5B
25

Điểm 9, 10
Điểm 7, 8
Điểm 5, 6
Điểm dưới 5
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
24%
11
44%
8
32%
0
0%
Qua bảng trên tôi nhận thấy kết quả lịch sử của học sinh cịn rất khiêm
tốn. Trước thực trạng đó, trong q trình giảng dạy phân môn Lịch sử ở lớp
5 tôi đã vận dụng một số kinh nghiệm bản thân có được trong q trình học
tập và tích lũy kinh nghiệm của bản thân để dạy - học xem là có hiệu quả

thông qua việc nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Thị trấn Vĩnh Lộc”.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHẦN
MÔN LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của người dạy, người học.
Một số người cho rằng dạy Lịch sử ở Tiểu học là dễ vì kiến thức ít. Điều
đó hồn tồn khơng đúng và sẽ không thể thực hiện được việc giảng dạy Lịch sử
ở Tiểu học đạt chất lượng, vì:
- Một là: Cấu trúc một bài Lịch sử ở Tiểu học mang tính sơ giản, chứ
khơng có nội dung đầy đủ và có tính hệ thống chặt chẽ (như các cấp học cao
hơn) nên rất khó dạy cho học sinh, nhất là học sinh Tiểu học với vốn sống, vốn
kiến thức còn rất hạn chế, sơ sài.
- Hai là: Tư duy của học sinh Tiểu học cịn mang tính tư duy trực quan mà
Lịch sử lại có tính q khứ. Vì thế khơng cho phép người học được chứng kiến
một cách trực tiếp những con người, những sự kiện…đang diễn ra nên việc
“dựng” lại những nhân vật, sự kiện lịch sử nhất là trong điều kiện còn thiếu thốn
về phương tiện, đồ dùng dạy học là việc không dễ.
- Ba là: Lịch sử vốn là những sự việc đã diễn ra, có thật, nó tồn tại
khách quan trong q khứ, khơng thể phán đoán, suy luận, tưởng tượng để nhận
thức lịch sử nên việc dạy học theo hướng “tích cực hóa hoạt động tư duy của
học sinh” đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng các phương pháp với nhiều
công phu mà vẫn khó đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, mục
tiêu của dạy học Lịch sử ở Tiểu học chỉ là cung cấp cho học sinh những kiến
thức sơ giản, ban đầu của lịch sử dân tộc nên chương trình chỉ có thể lựa chọn
những sự kiện, những nhân vật lịch sử tiêu biểu của mỗi giai đoạn lịch sử mà
không thể dạy cho các em một hệ thống kiến thức chặt chẽ như các cấp học trên.
Cũng chính vì khơng có hệ thống chặt chẽ nên những “nhịp dẫn” của “cây cầu
lịch sử” bị “đứt đoạn” làm cho người giáo viên gặp khó khăn trong việc “dẫn”
các em đi từ thời đại này tới thời đại kia, từ sự kiện này tới sự kiện khác. Giáo
viên cần nắm vững nội dung, cấu trúc SGK Lịch sử và Địa lí kết hợp với sự hiểu


5


biết và tìm tịi thơng qua các tài liệu để đạt hiệu quả cao trong mỗi bài dạy.
Chẳng hạn khi dạy bài 7: “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời” [1] , giáo viên phải
giúp học sinh hiểu được hoàn cảnh lịch sử của sự kiện lịch sử trọng đại này
trước khi bước vào nội dung chính của bài. Nếu ở các cấp học trên thì thao tác
này khơng địi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu kĩ các tư liệu và phải giảng
giải nhiều vì trước đó học sinh đã được học đầy đủ về tình hình lịch sử của đất
nước giai đoạn 1925- 1930 nên hiểu được bối cảnh lịch sử với yêu cầu cấp bách
phải có một chính đảng thống nhất và đủ mạnh để lãnh đạo cách mạng nước ta.
Ngược lại ở Tiểu học trước khi học bài này học sinh mới được học về một số
nhân vật và sự kiện lịch sử tiêu biểu nên không thể hiểu được đầy đủ bối cảnh
lịch sử của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Vì vậy người giáo viên phải
có khả năng khái quát vấn đề rất cao, vừa dẫn được cái xa, vừa nêu được cái
gần, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh để không mất nhiều thời gian
mà vẫn giúp các em nhanh chóng hiểu được vấn đề. Muốn vậy người giáo viên
phải thơng hiểu lịch sử và có kho tàng ngơn ngữ giàu có với khả năng diễn đạt
ngắn gọn, trong sáng và dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của học sinh tiểu học.
Điều này quả là không dễ nhưng nếu chịu khó trau rồi, rèn luyện với lòng yêu
nghề, yêu học trò và yêu lịch sử dân tộc thì người giáo viên Tiểu học hồn tồn
có thể làm được.
Cụ thể là khi dạy đến bài này giáo viên cần phải nghiên cứu để dẫn dắt
học sinh đi từ các vấn đề lịch sử: Giữa năm 1929 các tổ chức cộng sản là Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đơng Dương Cộng sản liên
đồn nối tiếp nhau xuất hiện. Nó đã tạo ra tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của
Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy đều là các tổ chức cộng sản nhưng cả ba tổ chức
đều hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau nên
đã gây ra trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước để lãnh

đạo cách mạng. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã đứng ra triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản Việt
Nam. Hội nghị diễn ra từ ngày 3 đến 7-2-1930 tại Cửu Long, Hương Cảng,
Trung Quốc. Với tài năng và uy tín cao của người Hội nghị đã nhất trí tán thành
thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một chính Đảng duy nhất của giai
cấp công nhân Việt Nam. Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba nhân tố: Chủ nghĩa MácLê nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là sự chuẩn bị đầu tiên có tính chất quyết định đến bước phát triển mới và
thắng lợi của cách mạng Việt Nam ở giai đoạn tiếp theo.
Từ sự khái quát tiến trình lịch sử để dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Giải pháp 2: Sử dụng kênh hình hiệu quả.
Cũng giống như một số mơn học khác, trong SGK Lịch sử 5, kênh chữ
giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn có
vai trị quan trọng; nó khơng chỉ minh họa cho kênh chữ, mà còn là nguồn cung
cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho học sinh.

6


Trong giờ dạy Lịch sử, có những giáo viên khơng hiểu kênh hình nên
khơng khai thác được kênh hình với đúng vai trị của nó mà chỉ đưa ra như một
sự minh hoạ đơn thuần. Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử
hiện nay nhiều, phong phú, màu sắc và trình bày đẹp, ngồi tính minh hoạ mỗi
bức tranh, bức ảnh cịn hàm chứa những thơng tin lịch sử với mức độ khác nhau
phục vụ việc dạy và học đạt hiệu quả. Có thể phân loại kênh hình trong sách
giáo khoa phân mơn Lịch sử như sau:
- Loại thứ nhất: Bản đồ, lược đồ:
Bản đồ, lược đồ chủ yếu được bố trí ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các
chiến dịch, các trận đánh nhằm giúp học sinh hiểu được vị trí của cuộc khởi

nghĩa, chiến dịch, trận đánh… cách bố trí lực lượng hai bên và diễn biến của
cuộc khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh… Ví dụ ở bài 14: “Thu - Đơng 1947, Việt
Bắc mồ chôn giặc Pháp” (Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí lớp 5) giáo viên giới
thiệu lược đồ:

Khi khai thác lược đồ, giáo viên phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu
xa của cách chọn vị trí trận địa, việc phịng thủ và hướng tấn cơng của hai bên
qua đó làm nổi bật âm mưu của địch, sự thơng minh và nghệ tḥt qn sự tài
tình cũng như tinh thần chiến đấu dũng cảm của ta từ đó giáo dục lòng yêu
nước, tinh thần tự hào dân tộc cho các em.
Khi hướng dẫn trên lược đồ người giáo viên không dừng lại ở mức độ chỉ
cho học sinh thấy các hướng tấn công của địch và cách chọn vị trí tiêu diệt địch
của ta một cách đơn thuần mà cịn phải giúp các em phân tích để thấy âm mưu
thâm độc của Thực dân Pháp trong việc bao vây nhằm tiêu diệt gọn, chặt đứt
mọi đường rút và đường liên hệ của ta với bên ngoài nhưng với việc “nắm địch”,
“hiểu địch” tốt và bằng nghệ thuật quân sự tài tình ta đã hóa giải và đập tan âm
mưu của chúng.

7


- Loại thứ hai: Tranh, ảnh tư liệu.
Tranh ảnh, tư liệu có nhiều ở loại bài về các cuộc khởi nghĩa, các chiến
dịch, loại bài về chính trị xã hội và thành tựu.
Đó là tranh ảnh về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc biểu tình, về một loại vũ
khí nào đó, về tình hình chính trị, kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân, về
các thành tựu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…của mỗi triều đại ứng với
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Đối với loại bài này người giáo viên phải am
hiểu đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ
thuật của mỗi thời kỳ mới có thể hiểu và khai thác tốt kênh hình phục vụ việc

giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (Sách giáo khoa Lịch sử
và Địa lí lớp 5)

Cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm
Việc khai thác tranh ảnh thể hiện các thành tựu văn hoá như điêu khắc,
kiến trúc, các giá trị văn hố phi vật thể là khó khăn hơn cả với người giáo viên
vì đây là những lĩnh vực khơng dễ hiểu và càng không dễ chuyển tải đến học
sinh, nhất là học sinh tiểu học. Vì vậy giáo viên cần có sự đầu tư sưu tầm tranh
ảnh liên quan đến nội dung bài học, chuẩn bị chu đáo các tư liệu về các giá trị
văn hóa của các nhà nghiên cứu Lịch sử có ở trên sách báo và trên các trang
mạng. Tất nhiên khi diễn đạt ý này cho học sinh tiểu học phải bằng thứ ngôn
ngữ và cách diễn đạt phù hợp với nhận thức của các em, đặc biệt phải bằng các
hình ảnh tư liệu trực quan.
- Loại thứ ba: Ảnh chân dung nhân vật lịch sử:
Đây là ảnh của các nhân vật lịch sử trong loại bài dạy về nhân vật lịch sử.
Số bài dạy về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong chương trình Lịch sử lớp 5
khơng nhiều. Cái mới của loại bài này so với chương trình cũ là dạy nhân vật
lịch sử thông qua và gắn liền với sự kiện lịch sử chứ không thuần tuý kể về nhân
vật lịch sử như trong chương trình cũ. Vì vậy, việc khai thác ảnh chân dung của
nhân vật phục vụ bài dạy phải đảm bảo nguyên tắc: Làm nổi bật tư chất, nhân

8


cách nhân vật nhưng không quá xa đà, không tách rời nhân vật lịch sử ra khỏi
mối quan hệ với thời đại của nhân vật và sự kiện lịch sử mà nhân vật có vai trị
quyết định.
Ví dụ một số bài như: “Bình Tây đại ngun sối Trương Định”; Nguyễn
Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước; Cuộc phản công ở kinh thành Huế;

Phan Bội Châu và phong trào Đông du; Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước;
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập gắn với sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất
hiện của các nhân vật Lịch sử tiêu biểu, vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để các
hình ảnh, chân dung các nhân vật lịch sử và có sự so sánh vai trị của họ ở mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau (Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Chẳng hạn khi dạy bài 5: “Phan Bội Châu và phong trào Đông du” [1]
giáo viên tiến hành như sau:
+ Cho học sinh quan sát chân dung Phan Bội Châu.

+ Hỏi: Em có biết nhân vật lịch sử này tên là gì, có đóng góp gì cho lịch
sử nước nhà khơng?
+ Giáo viên giới thiệu bài học và cho học sinh làm việc theo nhóm tìm
hiểu thơng tin tư liệu về Phan Bội Châu và phong trào Đông Du,...
Giải pháp 3: Vận dụng các kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử.
Việc vận dụng một cách hợp lý kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử sẽ làm
cho giờ Lịch sử hay hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, cuốn hút học sinh hơn và
cuối cùng là làm cho tiết dạy - học Lịch sử mang lại hiệu quả cao hơn. Thường
là việc người giáo viên đọc những trích đoạn thơ về nhân vật lịch sử, sự kiện
lịch sử ở phần giới thiệu bài học, phần củng cố, liên hệ, cũng có khi là cả trong
phần chính của bài. Ví dụ khi giới thiệu bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước” (Lịch sử lớp 5) [1] , người giáo viên bằng giọng đọc truyền cảm của mình
có thể đọc hoặc ngâm trích đoạn thơ cho học sinh nghe sau phần củng cố nội
dung chính của bài như:
“Đất nước đẹp vơ cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tơi làm sóng dưới thân tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bến dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn khơng bóng một hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở


9


Xa nước rồi càng thấy nước đau thương...”
(Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên) [ 3]
Hay đoạn thơ trong bài “Bác ơi” của nhà thơ Tố Hữu giáo viên đọc cho học sinh
nghe ngay sau khi cho học sinh tìm hiểu về ý chí quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước của Nguyễn Tất Thành:
“Từ đó người đi những bước đầu
Lênh đênh bốn biển một con tàu
Cuộc đời sóng gió trong than bụi
Tay đốt lị, lau chảo, thái rau”. [ 4]
Hoặc bài thơ miêu tả Bác Hồ trong buổi lễ đọc bản Tuyên Ngôn Độc lập giáo
viên có thể đọc cho học sinh nghe sau khi yêu cầu học sinh tìm hiểu quang cảnh
Hà Nội ngày 2-9-1945 để các em thấy rõ hơn quang cảnh của ngày tết Độc Lập:
“Hôm nay, sáng mồng 2 tháng 9
Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình
Mn triệu tim chờ chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình.
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!
Người đứng trên đài lặng phút giây
Trơng đàn con đó vẫy hai tay
Cao cao vầng trán ngời đơi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây. [ 4]
Thường thì các anh hùng dân tộc và các sự kiện lịch sử hào hùng của ông
cha ta đều được phản ánh trong văn học nên rất dễ để người giáo viên lựa chọn
những câu thơ hay, những đoạn trích hay, phù hợp, trong các tác phẩm văn học
đưa vào bài giảng của mình, làm cho tiết dạy - học Lịch sử có được những hiệu
quả mà một tiết dạy lịch sử thông thường không thể đạt được.

Mặt khác, các bài thơ gắn với các sự kiện lịch sử giúp cho các em dễ nhớ
các sự kiện lịch sử đã học vừa bổ trợ thêm các kiến thức về văn học, cảm thụ
văn học cho các em.
Giải pháp 4: Chia các bài học thành các dạng bài học cơ bản và đưa ra
phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó.
Chương trình phân mơn Lịch sử lớp 5 có thể chia ra các dạng bài:
a. Dạng bài về thành tựu kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội.
* Nội dung chính của dạng bài này thường nói về:
- Hồn cảnh ra đời của thành tựu đó.
- Vài nét tiêu biểu của thành tựu.
- Giá trị thực tiễn của thành tựu.
- Kết quả, ý nghĩa của thành tựu.
`
* Với dạng bài này gồm các bài dạy:
- Vượt qua tình thế hiểm nghèo.
- Hậu phương những năm sau chiến dịch Biên giới.
- Nước nhà bị chia cắt.
* Để dạy dạng bài này có hiệu quả giáo viên cần lưu ý:
- Phải mơ tả được tình hình nước ta như thế nào, tình cảnh đất nước, quan
lại, chính quyền, cuộc sống nhân dân.

10


- Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm
gì, làm như thế nào và kết quả của những việc làm đó.
Ví dụ: Khi dạy bài 12: “Vượt qua tình thế hiểm nghèo” [1] giáo viên cần:
- Mơ tả được hồn cảnh của nước ta ngay sau cách mạng tháng 8 ở trong
thế “nghìn cân treo sợi tóc” đó là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đe dọa.
- Trong tình hình đó Đảng và chính phủ ta đã lãnh đạo nhân dân đẩy lùi

giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm:
+ Đẩy lùi giặc đói: Lập hũ gạo cứu đói, ngày đồng tâm, chia ruộng cho
nông dân,...
+ Chống giặc dốt: Mở các lớp bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ, xây
thêm trường học, trẻ em nghèo được cắp sách đến trường.
+ Chống giặc ngoại xâm: ngoại giao khôn khéo để đẩy qn Tưởng về
nước, Hịa hỗn nhượng bộ với Pháp để có thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu
dài.
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã đưa đất nước ta thốt khỏi
tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”
* Phương pháp dạy học đặc trưng của dạng bài này là:
- Kể chuyện
- Phương pháp vấn đáp - tìm tịi
- Phương pháp thảo ḷn nhóm.
b. Dạng bài về nhân vật lịch sử
* Nội dung chính cuả dạng bài này là:
- Nhân vật lịch sử nảy sinh trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào?
- Hoàn cảnh cụ thể của nhân vật (tên, nơi sống, nguyện vọng..)
- Suy nghĩ, hành động cụ thể của nhân vật
- Những đóng góp của nhân vật.
* Với dạng bài này gồm các bài dạy:
- “Bình Tây Đại Ngun Sối” Trương Định.
- Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước.
- Cuộc phản công ở kinh thành Huế.
- Phan Bội Châu và phong trào Đông du.
- Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.
* Để dạy dạng bài này có hiệu quả giáo viên cần lưu ý:
- Cần khai thác tốt hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử.
- Cho học sinh biết nhân vật lịch sử là người như thế nào? (sinh năm nào,
ở đâu, làm gì, có đặc điểm tính cách gì nổi bật, đời sống nội tâm, tư tưởng, tình

cảm thế nào, tài năng đức độ ra sao?)
- Qua đó giáo viên tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học
sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 2: “Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất
nước”. [1] Giáo viên cần:
- Tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm để chia sẻ các thơng tin đã
tìm hiểu về Nguyễn Trường Tộ:
+ Năm sinh, năm mất, quê quán của ông, trong cuộc đời ông đã đi đâu và
tìm hiểu những gì?

11


+ Ơng đã có suy nghĩ gì để cứu nước nhà thốt khỏi tình trạng lúc bấy
giờ?
+ Những đề nghị canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ có được chấp
nhận khơng? Vì sao?
+ Nêu cảm nghĩ của em về Nguyễn Trường Tộ.
+ Tại sao Nguyễn Trường Tộ lại được người đời sau kính trọng?
- Giáo viên giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lịng biết
ơn, lòng khâm phục đối với Nguyễn Trường Tộ.
* Phương pháp dạy học đặc trưng của dạng bài này là:
- Kể chuyện.
- Sắm vai.
- Miêu tả, tường thuật kết hợp với đàm thoại.
c. Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch.
Dạng bài này chiếm tỉ lệ khá nhiều trong chương trình Lịch sử lớp 5.
* Nội dung chính của dạng bài này thường là:
- Hồn cảnh lịch sử (thời gian, địa điểm, lí do)
- Diễn biến chính.

- Kết quả.
- Ý nghĩa.
*Dạng bài này gồm các bài dạy:
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
- Xô Viết Nghệ Tĩnh.
- Cách mạng mùa thu.
- Thu Đông 1947, Việt Bắc “Mồ chôn giặc Pháp”.
- Chiến thắng Biên giới Thu - Đông.
- Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
- Bến Tre Đồng khởi.
- Sấm sét đêm giao thừa.
- Tiến vào Dinh Độc Lập.
* Để dạy dạng bài này có hiệu quả giáo viên cần lưu ý:
Giúp học sinh nắm được Nguyên nhân (hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi
nghĩa, kháng chiến, chiến dịch - Diễn biến - Kết quả và ý nghĩa.
Ví dụ: Khi dạy bài 20: “Bến Tre Đồng khởi” [1] giáo viên cần tiến hành
theo trình tự sau:
+ Tìm hiểu hoàn cảnh bùng nổ phong trào “Đồng khởi” Bến Tre (MĩDiệm tàn sát rất dã man, nhân dân khơng cịn con đường nào khác phải đứng lên
phá tan ách kìm kẹp).
+ Tìm hiểu diễn biến của phong trào “Đồng khởi”. Giáo viên cho học sinh
làm việc theo nhóm và thuật lại diễn biến của phong trào “Đồng khởi”.
+ Tìm hiểu về kết quả và ý nghĩa của phong trào “Đồng khởi”. Giáo viên
tổ chức cho học sinh thảo luận báo cáo trước lớp kết quả thảo luận.
* Phương pháp dạy học đặc trưng của dạng bài này là:
- Kể chuyện.
- Sắm vai.
- Thảo luận.

12



- Vấn đáp.
Kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan.
d. Dạng bài về triều đại, hoạt động xây dựng, sản xuất phát triển kinh tế.
* Dạng bài này gồm các bài dạy:
- Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta
- Xây dựng nhà máy thuỷ điện Hồ Bình.
* Để dạy dạng bài này có hiệu quả giáo viên cần lưu ý:
Sự ra đời của triều đại đó, phải giúp học sinh nắm được:
+ Vì sao nhà nước/ triều đại/ Đảng (Chính phủ) phải tiến hành hoạt động
đó? Hoạt động đó nhằm mục đích gì?
+ Mơ tả hoạt động/ q trình đó diễn ra như thế nào?
+ Kết quả/ thành tựu/ vai trị/ ý nghĩa của hoạt động đó đối với đất nước.
Ví dụ: Khi dạy bài Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta giáo viên tiến
hành theo các bước sau:
+ Tìm hiểu về nhiệm vụ của miền Bắc sau năm 1954 và hồn cảnh ra đời.
Đó là:
- Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa
xã hội làm hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam.
- Đảng và Chính phủ quyết định xây dựng nhà máy cơ khí hiện đại để
trang bị máy móc hiện đại cho miền Bắc thay thế công cụ thô sơ giúp tăng năng
suất và chất lượng lao động. Nhà máy này làm nòng cốt cho ngành cơng nghiệp
nước ta.
+ Tìm hiểu về q trình xây dựng Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Học sinh làm
việc theo nhóm.
+ Tìm hiểu về những đóng góp của Nhà máy Cơ khí Hà Nội cho cơng
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Phương pháp dạy học đặc trưng của dạng bài này là:
- Phương pháp vấn đáp – tìm tịi.
- Phương pháp thảo ḷn nhóm.

e. Dạng bài ơn tập, tổng kết.
* Dạng bài này gồm các bài dạy:
Bài 11: Ôn tập: Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đơ
hộ.
Bài 18: Ơn tập: Chín năm kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc (19451954).
Bài 29: Ôn tập: Lịch sử nước ta từ giữa thế kỉ XIX đến nay.
* Để dạy dạng bài này có hiệu quả giáo viên cần lưu ý:
- Hệ thống hóa và củng cố lại những kiến thức đã học cho học sinh. Vẽ sơ
đồ.
- Lập biểu bảng. Thống kê. Tìm các dẫn chứng. Nêu ý nghĩa của những sự
kiện lịch sử tiêu biểu.
* Phương pháp dạy học đặc trưng của dạng bài này là:
Phối hợp nhiều phương pháp dạy học của môn học.
Giải pháp 5: Giáo viên nắm vững và thực hiện linh hoạt quy trình dạy học
phân mơn Lịch sử.

13


- Căn cứ vào việc nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và những đặc
trưng của mơn học để người giáo viên có thể phân chia các bài thành các dạng
bài học cơ bản và đưa ra phương pháp dạy học đặc trưng cho các dạng bài đó.
Trong q trình dạy học môn Lịch sử ở lớp 5, tôi luôn bám sát việc đổi mới
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Trên tinh thần sử dụng đúng mức,
đúng chỗ, đúng lúc các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học truyền thống
cũng như hiện đại để phát huy tối đa mặt mạnh của từng phương pháp và sự
phối hợp giữa các phương pháp. Để thực hiện yêu cầu trên, tơi đã vận dụng dạy
theo quy trình sau:
Bước 1: Giáo viên đặt vấn đề cần giải quyết trong bài học thơng qua việc
nêu các tình huống có vấn đề, liên quan tới nội dung bài học.

Bước 2: Tổ chức cho học sinh khai thác các tư liệu trong SGK, tranh ảnh,
bản đồ, lược đồ,...Qua đó, các em có thể hình dung, có biểu tượng về các sự
kiện, hiện tượng lịch sử.
Bước 3: Trên cơ sở các biểu tượng về lịch sử đã được hình thành giáo
viên sẽ đặt các câu hỏi, đưa ra các bài tập và vận dụng các hình thức tổ chức dạy
học (cá nhân, nhóm, cả lớp) giúp học sinh bước đầu biết so sánh các điểm giống
và khác nhau, nêu đặc điểm, tổng hợp những nét chung của sự kiện, hiện tượng
lịch sử.
Bước 4: Từ những hiểu biết trên, giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày
dưới nhiều hình thức khác nhau (nói, viết, vẽ,...) về một sự kiện, hiện tượng lịch
sử một cách sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết vận dụng các
kiến thức đã học vào các nội dung như tích hợp bảo vệ di tích lịch sử và di tích
văn hóa của dân tộc.
- Một trong những kinh nghiệm bản thân tôi đã vận dụng trong q trình
dạy học phân mơn Lịch sử ở lớp 5 góp phần to lớn vào việc nâng cao chất lượng
mơn học là việc sử dụng các tư liệu cho môn học (Tư liệu viết, tư liệu băng hình,
tư liệu tranh ảnh) để minh họa cho các sự kiện, nhân vật lịch sử trong bài giảng
trên lớp. Hình thức này dễ sử dụng và đem lại hiệu quả tốt cho tiết học, nhất là
các bài học lịch sử dân tộc, bài lịch sử địa phương có các sự kiện liên quan đến
lễ hội. Đặc biệt, bản thân tôi đã mạnh dạn việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy một số tiết học dưới dạng trình chiếu và đã đem lại một số hiệu quả
nhất định, lôi cuốn học sinh trong học tập. Với những hình ảnh, tư liệu sống
động, phong phú của các lễ hội sẽ góp phần làm tái hiện cho học sinh những sự
kiện lịch sử, nhân vật lịch sử bổ xung những kiến thức lịch sử đã học trên lớp
một cách cụ thể hơn.
- Một số địa chỉ cụ thể minh họa cho việc vận dụng linh hoạt các phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học môn Lịch sử và bước đầu áp dụng công nghệ
thông tin vào dạy học.
* Ví dụ khi dạy bài: Tiến vào Dinh Độc Lập (Trang 55) [1]
Đây là loại bài Lịch sử sự kiện, vì vậy giáo viên cần nêu được nội dung

chính như:
Phần bài mới:
- Giới thiệu hồn cảnh, kết hợp với chỉ bản đồ:
+ Hãy so sánh lực lượng của ta và chính quyền Sài Gịn sau Hiệp định

14


Pa- ri?
+ GV nêu khái quát về cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975. (Giáo viên vừa nêu vừa kết hợp chỉ trên bản đồ Việt Nam)
- Học sinh xem đoạn băng về chiến dịch Hồ Chí Minh. (Đã được BGD
cung cấp), kết hợp với sử dụng lược đồ Chiến dịch Hồ Chí Minh (Từ 26/4 đến
30/4/1975)
- Sau khi xem tư liệu, học sinh trả lời:
+ Chiến dịch Hồ Chí Minh được bắt đầu vào thời gian nào?
+ Hãy kể 5 cánh quân cùng tiến công giải phóng Sài Gịn? Khí thế của
cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy? Chiến dịch kết thúc bằng sự kiện nào?
- Giáo viên giới thiệu: Chúng ta vừa được sống trong khơng khí hào hùng
của lịch sử dân tộc ...
- Vậy tiến vào Dinh Độc Lập là lữ đoàn nào?
* Giáo viên bổ sung thêm.
- Yêu cầu học sinh làm việc nhóm đơi: Kể lại sự kiện lữ đồn xe tăng của
ta tiến vào Dinh Độc Lập.
- Giáo viên theo dõi động viên các nhóm làm việc.
- Đại diện nhóm trình bày sự kiện xe tăng của ta tiến vào Dinh Độc Lập.
- Giáo viên chốt ý, nhấn mạnh sự kiện “xe tăng ta tiến vào Dinh Độc Lập
và lá cờ cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập”.
* Để tìm hiểu các nội dung cịn lại của bài học giáo viên cho học sinh
sắm vai đoạn hội thoại Dương Văn Minh đầu hàng vơ điều kiện (Thảo ḷn

nhóm 3 gồm 3 nhân vật: Dương Văn Minh, chiến sĩ cách mạng, người dẫn
chuyện.)
- Thảo luận nhóm về ý nghĩa của chiến dịch.
- Hoạt động củng cố giáo viên có thể cho học sinh xem băng về Dinh
Độc Lập ngày nay hoặc niềm vui giải phóng.
Tóm lại, bên cạnh việc chú trọng dạy học theo hướng tích cực thì việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Lịch sử là một hướng đi đúng
đắn. Công việc này nếu được giáo viên áp dụng thường xun và hợp lí khơng
chỉ giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn làm cho học sinh thêm say mê,
hứng thú yêu thích học môn Lịch sử.
Giải pháp 6: Các giải pháp khác.
Một trong ba đặc trưng của phân môn lịch sử đã chỉ ra rằng: Lịch sử qua
đi nhưng khơng hồn tồn biến mất mà cịn để lại “dấu vết” của nó qua kí ức của
nhân loại như văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội,.. qua các chứng tích
lịch sử, các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa. Những chứng cứ vật
chất đó chính là cơ sở để trình bày hay nhận thức về lịch sử. Vì vậy giáo viên
cần phải hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy học lịch sử đa dạng, tạo
điều kiện để học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên. Vì vậy có thể chia
thành các nhóm giải pháp như sau:
a. Gắn kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử với việc dạy học
phân mơn Lịch sử.
Trong q trình trực tiếp giảng dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm
hiểu về các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử qua các hoạt động như: đọc báo, xem

15


truyền hình (các hình ảnh tư liệu), đài phát thanh… để giúp các em hiểu rõ, nắm
sâu hơn về các sự kiện và nhân vật lịch sử.
b. Gắn việc tham quan dã ngoại với việc tham quan bảo tàng, di tích

lịch sử, dâng hoa lên tượng đài anh hùng để các em cảm nhận được hồn sử.
Tổ chức cho học sinh tham quan dã ngoại các di tích lịch sử - văn hóa,
các cảnh đẹp ở địa phương, gặp gỡ các cá nhân, tập thể trực tiếp tham gia vào
những sự kiện lịch sử và hoạt động xã hội; tham quan các bảo tàng lịch sử để
các em được trực tiếp nắm được các sự kiện, nhân vật lịch sử.
Ví dụ: Học sinh trường Tiểu học Thị trấn thăm quan di sản văn hóa Thành
Nhà Hồ - Thị trấn Vĩnh Lộc.

c. Hướng dẫn học sinh cách học ở nhà.
Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh rất quan trọng. Giáo viên cần phải
giải thích bài học lịch sử sắp tới để học sinh ở nhà có thể sưu tầm tài liệu, tranh
ảnh liên quan để tham gia thảo luận, các em sẽ thích thú nếu được hướng dẫn tự
sưu tầm tài liệu.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
Ngay từ đầu năm học này, năm học 2016-2017 tôi đã đưa sáng kiến vào
áp dụng giảng dạy tại lớp 5A của Trường tiểu học Thị Trấn. So với năm học

16


trước, chất lượng học tập của học sinh khi học phân môn Lịch sử đã tiến bộ rõ
rệt. Số lượng học sinh đạt được các nhận xét về môn học theo thông tư 22 của
BGD tăng, chất lượng kiểm tra tăng rõ rệt. Các em đều được đánh giá là đã hồn
thành tốt mơn học. Kết quả kiểm tra phân môn Lịch sử do nhà trường ra đề đạt
được như sau:
Lớp 5A (Lớp được áp dụng giảng dạy phân môn Lịch sử)
Sĩ số
Lớp
Điểm 9, 10
Điểm 7, 8

Điểm 5, 6
Điểm dưới 5
HS
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
5A
25
9
36%
11
44%
5
20%
0
0%
Lớp 5B (Lớp không được áp dụng giảng dạy phân môn Lịch sử)
Lớp

Sĩ số
HS

5B

25


Điểm 9, 10

Điểm 7, 8

Điểm 5, 6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

6

24%

10


40%

9

36%

0

0%

Đối chiếu với chất lượng kiểm tra ở năm học trước và lớp đối chứng, số
học sinh ở lớp 5A được áp dụng giảng dạy phân môn Lịch sử đạt điểm khá, giỏi
tăng lên rõ rệt. Số học sinh đạt điểm yếu qua kì kiểm tra đã khơng có. Điều đáng
mừng là đến nay học sinh đã khơng cịn sợ khi đến giờ Lịch sử, các em chờ đón
được học một tiết sử hiếm hoi trong tuần với tất cả lịng nhiệt tình và hào hứng
của mình, trong giờ học các em chăm chú, chủ động tiếp thu kiến thức. Các em
đã coi mỗi giờ học là một cuộc tranh tài, một cuộc thi nho nhỏ để tìm ra kiến
thức mới. Bản thân tôi cũng thấy rất vui khi sau mỗi tiết học các em lại ghi chép
các con số, sự kiện liên quan đến nội dung Lịch sử vừa học vào sổ tay của mình
để nhớ và vận dụng sau này. Các em như được trở lại khí thế hào hùng của dân
tộc trước kia đã cách xa các em rất lâu. Từ đó làm cho các em thêm yêu quê
hương, yêu đất nước.
Như vậy các biện pháp mà tơi đưa ra là hồn tồn phù hợp và có hiệu quả
trong giảng dạy phân mơn Lịch sử tại nhà trường.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong việc giảng dạy
phân môn Lịch sử, thành công tuy nhỏ nhưng tôi nhận thức được rằng:

Mỗi giáo viên cần xác định vai trị chủ đạo của mình trong việc đổi mới
phương pháp dạy học, trước hết phải tìm tịi phương pháp truyền đạt có hiệu
quả, kích thích tích tư duy và sự sáng tạo của học sinh. Chủ động tự bồi dưỡng
chuyên mơn, tìm tài liệu chuẩn, phù hợp với nhận thức của học sinh để cung cấp
cho các em như: Giáo viên thường xuyên theo dõi cập nhật những thông tin,

17


những số liệu sự kiện Lịch sử qua các phương tiện thơng tin đại chúng (sách,
báo phim ảnh,...) để có tư liệu giảng dạy gây hứng thú cho học sinh. Qua đó
hướng dẫn học sinh sưu tầm tài liệu để chủ động sáng tạo trong tiếp thu kiến
thức góp phần thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học là tập trung vào
cách dạy: Giúp học sinh có nhu cầu học và biết cách tự học.
Trong việc soạn giảng, giáo viên nên thiết kế bài bám sát chuẩn kiến thức
kỹ năng của môn học, bài học. Sắp xếp các hoạt động của giáo viên, học sinh
một cách phù hợp đặc điểm của từng bài và sử dụng thiết bị dạy học đáp ứng
yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Cụ thể: Đối với
những bài mới, khó trong chương trình, giáo viên cần thơng qua họp tổ chuyên
môn, thảo luận và thống nhất những nội dung trọng tâm cần truyền đạt cho học
sinh và thống nhất những hoạt động của học sinh trong các mục của bài đó để
phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các đối tượng học sinh.
Để giúp học sinh có thể hiểu nắm được nội dung bài học một cách tích
cực, giáo viên cần có cách tổ chức cho học sinh biết sưu tầm tư liệu, thông tin
nhằm chuẩn bị cho bài học mới, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử
dụng đồ dùng thiết bị, phương tiện trực quan, thăm quan thực tế phục vụ cho tiết
dạy đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của trường cơ sở vật chất còn thiếu
thốn, đặc điểm về nhận thức và chất lượng học sinh không đồng đều, nhiều em
còn thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, chưa tích cực, chủ động, sáng tạo

trong học tập. Điều đó địi hỏi người giáo viên cần phải quan tâm hơn cho sự đổi
mới phương pháp giảng dạy trong các giờ lên lớp như sau:
- Cần phải có sự thay đổi tư duy trong quá trình dạy học.
- Do đặc trưng của bộ môn nên người giáo viên phải tạo hứng thú cho học
sinh trong quá trình nắm bắt kiến thức, tránh sự nhàm chán, căng thẳng trong
mỗi giờ học, tích cực dạy học theo phương pháp đổi mới đặc biệt tập trung vào
cách dạy để giúp học sinh có nhu cầu và biết cách tự học.
3.2. KIẾN NGHỊ
3.2.1. Đối với giáo viên.
Thầy cô cần đầu tư hơn nữa về thời gian, phương pháp, biện pháp cho mỗi
giờ học Lịch sử, cần nghiên cứu kĩ từng dạng bài để giúp các em nắm kiến thức,
chủ động chiếm lĩnh kiến thức trong mỗi giờ học. Cần vận dụng linh hoạt và kết
hợp các phương pháp trong quá trình dạy học.
3.2.2. Đối với học sinh.
Các em cần không ngừng học hỏi kiến thức trên lớp, mở rộng thêm hiểu
biết bằng cách tích cực tìm kiếm các tư liệu lịch sử thơng qua sách, báo, ti vi,...
Nâng cao tính tự học, tích cực tham gia các hoạt động tập thể do nhà trường tổ
chức phục vụ cho môn học.
3.2.3. Đối với nhà trường, chính quyền địa phương.
Nhà trường, chính quyền địa phương cần tạo mơi trường đầy đủ nhằm
phát triển tồn diện cho các em (kiến thức, kĩ năng, thái độ). Ngoài giờ học
chính khố nên có những buổi nói truyện về lịch sử, tham quan dã ngoại mang

18


tính thực tế hơn. Sưu tầm và in ấn các tài liệu về các nhân vật lịch sử, các sự
kiện lịch sử của quê hương Thanh Hóa để giáo viên có cẩm nang dạy tốt hơn
các tiết Lịch sử địa phương.
Bản thân tơi nghĩ, nếu làm được như vậy thì chúng ta sẽ gặt hái được kết

quả đáng kể hơn trong việc dạy và học, đặc biệt đối với môn Lịch sử góp phần
hình thành phẩm chất con người Việt Nam theo 5 điều Bác Hồ dạy đối với thiếu
niên và nhi đồng.
Trên đây là toàn bộ những kinh nghiệm bản thân tơi đúc rút trong q
trình giảng dạy để góp phần giúp học sinh lớp 5 học tốt hơn đối với phân mơn
Lịch sử. Thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm của bản thân cũng chưa
nhiều nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong BGH, hội đồng khoa học các cấp cùng các đồng nghiệp góp ý để sáng
kiến kinh nghiệm của tơi được hồn thiện hơn góp phần dạy tốt hơn nữa phân
môn Lịch sử trong những năm học tiếp theo.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Vĩnh Lộc, ngày tháng năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm do mình viết, khơng sao
chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Lê Thị Tâm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

TÊN TÀI LIỆU

TÁC GIẢ

1
2
3

4

Sách giáo khoa Lịch sử & Địa lí lớp 5
Hồ Chí Minh, trong Hồ Chí Minh tồn tập
Sách giáo viên Lịch sử & Địa lí lớp 5
Theo chân Bác

Nhà xuất bản Giáo dục
Nhà xuất bản Sự thật
Nhà xuất bản Giáo dục
Tố Hữu

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Tâm
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường tiểu học Thị trấn Vĩnh Lộc

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại

xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

20


“Sử dụng một số trò chơi
1

dạy học đạo đức ở trường
Tiểu học Thị trấn”.
“Một số biện pháp rèn giữ

2

vở sạch viết chữ đẹp cho học
sinh lớp 2 ở trường Tiểu học

Phòng
Giáo dục
Vĩnh Lộc

C


2008 – 2009

Phòng
Giáo dục
Vĩnh Lộc

C

2009 – 2010

Phòng
Giáo dục
Vĩnh Lộc

C

2012 – 2013

Phòng
Giáo dục
Vĩnh Lộc

C

2014 – 2015

Thị trấn”
Đổi mới phương pháp dạy
giải tốn có lời văn dạng

3

“Tìm hai số khi biết tổng và
tỉ của hai số đó” ở lớp 4
trường Tiểu học Thị trấn.
Đổi mới phương pháp dạy
học nhằm nâng cao hiệu
quả giải tốt bài tốn có lời

4

văn dạng “Bài toán liên
quan đến rút về đơn vị” cho
học sinh lớp 3 trường Tiểu
học Thị trấn.

21



×