Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 5d trường tiểu học xuân cẩm, huyện thường xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 19 trang )

MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm

2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.
Giáo dục ý nghĩa môn Lịch sử.
1
Tìm hiểu chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 5. Từ đó,
2.3.
xác định những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi
2
dạng bài.


2.3.
Công tác chuẩn bị cho giờ dạy học Lịch sử.
3
2.3. Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự phát
4
hiện kiến thức.
2.3. Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự phát
5
hiện kiến thức.
2.3. Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp xúc các nguồn
6
sử liệu trong thực tế.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị

Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
4
4
4

11
11
13
14
16
16
16
17


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Bác Hồ đã tự hào rằng: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bán nước”. Duy trì, tiếp
nối và phát huy những truyền thống quý báu đó của dân ta từ ngàn xưa chính là
mục đích, là nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của môn Lịch sử.
Trong chương trình Tiểu học, Lịch sử là một môn học có vị trí đặc biệt.
Nó đảm nhận việc giáo dục nhân cách, đạo đức, nhân sinh quan, thế giới quan,
góp phần hình thành nên những nhân cách của con người Việt Nam và bồi
dưỡng lòng yêu nước. Mục tiêu của môn Lịch sử lớp 5 được dạy ở trường Tiểu
học nhằm cung cấp cho Học sinh một kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử
Việt Nam từ đầu năm 1858 tới nay. Cung cấp cho học sinh những thái độ và thói
quen ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh. Yêu thiên nhiên, con
người, đất nước. Có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn
hoá.
Dạy Lịch sử có vai trò quan trọng như vậy nhưng rất tiếc, thực tế hiện nay
một số không ít giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan tâm xứng

đáng cho tiết dạy, một số học sinh không có hứng thú khi học môn này dẫn đến
chất lượng chưa cao.
Là một giáo viên dạy Tiểu học, người trực tiếp truyền thụ kiến thức cho
học sinh. Một trong những vấn đề tôi luôn quan tâm. Làm thế nào để dạy tốt
phân môn Lịch sử? Làm thế nào để học sinh yêu thích môn Lịch sử. Làm thế
nào để trong cuộc sống thường nhật của chúng ta có nhiều con người yêu nước,
đầy tinh thần trách nhiệm với dân tộc? Không còn những học sinh xem thường
truyền thống lịch sử, mơ hồ với lịch sử dân tộc. Đó là một vấn đề lớn đòi hỏi
tâm huyết và sự sẻ chia của các nhà khoa học, nhà giáo, nhất là người trực tiếp
giảng dạy ở bậc Tiểu học
Chính vì những lẽ trên, trong quá trình dạy học, tôi đã miệt mài suy nghĩ
tìm ra: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử
lớp 5D trường Tiểu học Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh học tốt môn Lịch sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Vận dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử
lớp 5.
Những biện pháp này ứng dụng cho từng dạng bài dạy.
2


Nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 5.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp: điều tra, thực nghiệm, hỏi đáp, kể chuyện.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến
Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn
ra trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại bức

tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc
sống.
Để tổ chức dạy học lịch sử cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về đặc điểm
nhận thức và quá trình tư duy của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh là
cơ sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở Tiểu học.
Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học, trong đó người giáo viên luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực
chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự hứng thú và trách nhiệm của người
giáo viên, hợp tác người học được người dạy theo sát giúp đỡ. Trong quá trình
học nên tích cực tự giác và thể hiện sự năng động trong hoạt động học bằng sự
khám phá của bản thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Tự mình khám
phá ra tri thức. Học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú say mê và yêu mến môn
học hơn.
Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu
sắc và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng
dạy kiến thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc
biệt, tư duy của các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình
bày phải hết sức coi trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất
các biện pháp hình thành năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học.
Phần Lịch sử lớp 5 không trình bày theo một hệ thống chặt chẽ. Mỗi bài
học là một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử không thể hình thành một
cách cô lập mà luôn gắn liền với bối cảnh lịch sử. Giáo viên phải có kiến thức
vững vàng, am hiểu lịch sử của dân tộc và bản thân người giáo viên phải yêu
mến, tự hào về lịch sử của dân tộc mình thì mới làm tròn được trách nhiệm vẻ
vang đó.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng
2.2.1. Thuận lợi
Luôn được sự quan tâm của các cấp và nhà trường, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho giáo viên và học sinh về cơ sở vật chất. Đồ dùng dạy học cũng
được trang bị tương đối đầy đủ.

Được sự ủng hộ giúp đỡ của đồng nghiệp, nhất là chị em trong khối 5.
3


Hiện nay đã có nhiều nguồn thông tin, sách báo để giáo viên tham khảo,
nghiên cứu, tự học để nâng cao tay nghề. Nội dung chương trình đã được lựa
chọn biên soạn phù hợp với học sinh lớp 5 giúp các em dễ dàng tiếp cận và ham
thích môn Lịch sử.
Bản thân đã dạy lớp 5 nhiều năm cũng có chút ít kinh nghiệm trong giảng
dạy. Học sinh đã có ý thức học tập, ham học hỏi, chuyên cần.
2.2.2. Khó khăn
Trường Tiểu học đóng trên địa bàn xã Xuân Cẩm, một xã thuộc vùng khó
khăn của huyện. Trình độ dân trí thấp, tỉ lệ hộ nghèo khá cao. Mặt khác địa bàn
dân cư khá rộng các em ở nhiều thôn. Đường sá xa xôi đi lại khó khăn, có em
cách trường 6 km, phần đông là con dân tộc. 100% bố mẹ làm nông nghiệp ít
quan tâm đến việc học tập ở trường cũng như ở nhà, ít gặp gỡ giáo viên để trao
đổi về việc học tập, sinh hoạt của con em mình. Trình độ tiếp thu của học sinh
không đồng đều.
Tuổi trẻ chưa quan tâm nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của cha ông ta. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên
cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Ở học sinh Tiểu học các em chỉ dành nhiều thời
gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt.
Phân môn Lịch sử trong trường Tiểu học có một vị trí hết sức quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh đồng thời tạo cơ sở để các
em tiếp thu có hệ thống và vững chắc chương trình của môn Lịch sử ở các cấp
học trên. Với những cố gắng nhất định, việc dạy lịch sử trong trường Tiểu học
đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh.
Có nhiều tiết dạy lịch sử rất hay, làm cho người dạy và người tham dự không
khỏi tự hào rằng mình là người Việt Nam, một dân tộc có truyền thồng “ Nghìn
năm văn hiến”. Những tiết dạy lịch sử như thế thực sự đã mang lại những giá trị

to lớn trong việc hình thành ở học sinh những phẩm chất cao đẹp của người Việt
Nam.
2.2.3. Thực trạng việc dạy học Lịch sử hiện nay`
Chương trình Lịch sử lớp 5 được đưa vào giảng dạy nhiều năm, nhưng
nhiều giáo viên vẫn không tránh khỏi lúng túng trong việc sử dụng và khai thác
sách giáo khoa. Trong những tiết dạy người giáo viên vẫn chưa tổ chức được
cho học sinh sưu tầm tư liệu và chuẩn bị bài chu đáo, chưa tạo ra được sự hứng
thú cho học sinh. Nhiều giờ lịch sử diễn ra nặng nề, hiệu quả thấp. Điều này dẫn
đến có những học sinh không biết gì về truyền thống lịch sử cha ông. Đó cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn các nhân vật và triều đại lịch sử.
Chúng ta rất buồn sau mỗi kì thi đại học lại có nhiều bài thi nhầm lẫn khi trả lời
các kiến thức cơ bản về lịch sử. Điều này một phần có lỗi từ cái gốc tiểu học của
các em. Đây là một điểm yếu cần khắc phục.
4


Trong những năm gần đây, tỉ lệ giáo viên đi học để nâng cao trình độ đào
tạo tăng nhiều, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, hầu hết số
giáo viên được đào tạo để nâng chuẩn đều vừa dạy vừa học theo các hình thức
đào tạo tại chức, đào tạo từ xa nên việc học tập có nhiều hạn chế. Bộ, Sở, Phòng
giáo dục và đào tạo cũng đã có các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi
dưỡng về phương pháp dạy học nhưng việc tiếp cận với phương pháp dạy học
mới, phát huy tính tích cực của học sinh còn dừng lại ở mức độ.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong quá trình giảng dạy ở lớp 5, tôi nhận thấy rằng việc hình thành kiến
thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự cường dân tộc
cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong
muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử cho học
sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn xin được trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử
dụng :

2.3.1. Giáo dục ý nghĩa môn Lịch sử.
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỗ đứng
xứng đáng trong nhà trường. Lịch sử chỉ được xem là một “môn phụ” trong hệ
thống các môn học, số tiết vào loại ít nhất. Phải có sự thay đổi mang tính cách
mạng về quan niệm đối với môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan
niệm đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí
giáo dục đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng đắn về
môn học thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn đều không thể thực hiện để đem lại kết quả như
mong muốn.
Vì vậy, khi giảng dạy, tôi luôn quan niệm Lịch sử là một môn học quan
trọng, luôn dành thời lượng từ 35- 40 phút cho một tiết lịch sử, không cắt xén
thời gian của môn Lịch sử cho việc dạy các môn khác.
2.3.2. Tìm hiểu chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 5. Từ đó,
xác định những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài.
Trong chương trình dạy học Lịch sử ở lớp 5, tập trung cung cấp cho các
em về một số sự kiện, hiện tượng lịch sử và một số nhân vật lịch sử theo từng
mốc giai đoạn thời gian 1858- 1945: Hơn 80 năm chống thực dân Pháp;
1945 - 1954 Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống Pháp;
1954 - 1975 Xây dựng Chủ nghĩa xã hội miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất
nước; 1975- nay. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, chúng ta gặp các
dạng bài học cơ bản sau:
Dạng bài có nội dung về tình hình kinh tế - chính trị, văn hóa- xã hội.
Gồm các bài:
Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
5


Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập.

Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước.
Hậu phương sau những năm chiến dịch Biên Giới.
Nước nhà bị chia cắt.
Bến Tre đồng khởi.
Vượt qua tình thế hiểm nghèo.
Thà hi sinh chứ nhất định không chịu mất nước.
Cách mạng mùa thu.
Lễ kí hiệp định Pa – ri.
Tiến vào Dinh Độc Lập.
Hoàn thành thống nhất đất nước,...
Khi dạy các bài dạng này, cần lưu ý một số điểm sau:
Phải cho học sinh biết được hoàn cảnh ra đời, địa phận (cương vực địa lí);
thời gian ra đời và tồn tại của Đảng và nhà nước,…
Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ được sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước
một cách đơn giản hoặc ở mức độ thấp hơn là mô tả được tổ chức bộ máy nhà
nước: Đứng đầu chính quyền (Nhà nước) là ai? Gồm những tầng lớp nào? Bên
dưới chính quyền trung ương là những đơn vị hành chính nào? Gồm mấy cấp?
Đứng đầu mỗi cấp là tầng lớp nào?...
Mô tả được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất, tinh thần của
con người trong xã hội; cách tổ chức quân đội, luật pháp…
Đối với dạng bài này, tôi thường sắp xếp thành từng ý, gợi mở vấn đề rồi
tổ chức dẫn dắt cho học sinh tìm hiểu thông tin qua phương pháp vấn đáp- tìm
tòi, thảo luận nhóm, đàm thoại,…. Với dạng bài này, cần áp dụng tối đa phương
pháp sử dụng đồ dùng dạy học. Mặt khác, việc miêu tả, giải thích, phân tích của
giáo viên cũng rất quan trọng vì nó liên quan tới một số thuật ngữ, khái niệm
khó.
Để dạy tốt loại bài này, tôi thường thực hiện trình tự bài giảng như sau:
Mô tả tình hình nước ta cuối hay sau thời kì nào đó(tình hình đất nước,
chính quyền, cuộc sống của các tầng lớp trong xã hội,…).
Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân hoặc nhân vật lịch sử,…)

đã làm gì và làm như thế nào?
Kết quả của những việc làm đó?
Ví dụ: Bài 4 Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.(trang 10SGK)
Hoạt động của giáo viên
+ Theo dõi bài, em hãy cho cô biết
những biểu hiện mới về kinh tế ở
nước ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX như thế nào?

Hoạt động của học sinh
+ Sau khi dập tắt phong trào đấu tranh
của nhân dân ta, thực dân Pháp đặt ách
thống trị, tăng cường vơ vét bóc lột.
Chúng đẩy mạnh khai thác khoáng
sản, lập nhà máy, đồn điền, đồng thời
6


hệ thống giao thông vận tải được xây
dựng,…
+ Trong tình hình đó, tình cảnh + Trước tình hình đó người nông dân
người nông dân Việt Nam như thế vô cùng khổ cực, lầm than ,…
nào?
+ Những thay đổi về kinh tế đã tạo +Sự xuất hiện các ngành kinh tế mới
ra những giai cấp, tầng lớp mới nào đã tạo ra những thay đổi trong xã hội
trong xã hội?
Việt Nam :các giai cấp, tầng lớp mới
ra đời như công nhân, chủ xưởng, nhà
buôn, viên chức, trí thức,....
Trên cơ sở những nội dung cơ bản trên, tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể

của từng bài để vận dụng linh hoạt các phương pháp: kể chuyện, thảo luận
nhóm, truyền đạt,… để chuyển tải nội dung bài học một cách hiệu quả.
Dạng bài có nội dung về nhân vật lịch sử.
Gồm các bài:
Bình Tây Đại nguyên soái” Trương Định.
Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước.
Phan Bội Châu và phong trào Đông Du.
Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước,...
Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Chương trình lịch sử Tiểu học không giới thiệu tiểu sử các nhân vật lịch
sử, mà thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của nhân vật để làm sáng tỏ
những sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ “Bình Tây Đại nguyên soái ’’
Trương Định, chiêu mộ nghĩa binh đánh Pháp ngay khi chúng vừa tấn công Gia
Định năm 1859… Như vậy nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền với sự kiện
lịch sử, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật những hoạt
động và công lao to lớn của nhân vật.
Khi dạy những bài về nhân vật lịch sử, giáo viên cần lưu ý một số điểm cơ
bản sau:
Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử giúp
học sinh nắm bắt được diện mạo, hình thức bên ngoài của nhân vật. Giáo viên
cần sử dụng và khai thác triệt để những bức ảnh này nhằm phục vụ nội dung bài
học.
Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật đó là người
như thế nào?(Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nổi bật? Tài
năng, đức độ ra sao?...)
Kể chuyện hoặc miêu tả những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc
đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể chuyện
hay tường thuật, miêu tả tình tiết các hoạt động,có thể kết hợp phân tích để học
sinh hiểu hơn nội dung, bản chất sự kiện.
Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư

tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng
7


đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả nhất. Thông thường, đối
với dạng bài này phương pháp chủ đạo là kể chuyện, miêu tả, tường thuật kết
hợp với hỏi đáp để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí học sinh.
Ví dụ: Bài 2- Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất nước( SGK trang 10)
Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

Cho HS quan sát tranh minh họa.
+ Theo dõi bài, em hãy cho cô biết
những đề nghị canh tân đất nước của
Nguyễn Trường Tộ như thế nào?

+ Trong tình hình đó, vua Tự Đức
đã có ý kiến như thế nào đối với
những đề nghị đó?

+ Kết quả của những việc làm đó?

+ Ông đề nghị mở rộng quan hệ ngoại
giao với nhiều nước, thông thương với
thế giới, thuê người nước ngoài đến
giúp nhân dân ta khai thác nguồn lợi
về biển, rừng, đất đai, khoáng sản; mở
các trường dạy học đóng tàu, đúc
súng, sử dụng máy móc,…

+ Trước những đề nghị canh tân của
Nguyễn Trường Tộ, các quan trong
triều có nhiều ý kiến trái ngược nhau.
Vua Tự Đức cho rằng không cần nghe
theo Nguyễn Trường Tộ, bởi: những
phương pháp cũ đã đủ để điều khiển
quốc gia rồi,…
+ Những đề nghị của ông không
được vua quan nhà Nguyễn nghe theo
và thực hiện.

Dạng bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến
thắng, chiến dịch, phản công,…
Gồm các bài:
Cuộc phản công ở kinh thành Huế.
Thu đông 1947 Việt Bắc “ Mồ chôn giặc Pháp”.
8


Chiến dịch Biên giới thu đông 1950.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Bến Tre đồng khởi.
Sấm sét đêm giao thừa.
Chiến thắng “ Điện Biên Phủ trên không”
Xô viết Nghệ - Tĩnh,...
Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Với loại bài này, cần cho học sinh biết, hiểu những nội dung sau:
Nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến
dịch,…
Khái lược diễn biến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,…

Để học sinh hiểu sâu hơn những nội dung trên, giáo viên nhất thiết sử
dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh,… dẫn dắt học sinh xác định và mô tả được vị
trí, khu vực, địa bàn diễn ra cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,…, phải
trình bày diễn biến của các sự kiện trên hệ thống kênh hình. Đặc biệt phải coi hệ
thống kênh hình là nguồn tri thức để khai thác.
Ví dụ: Bài 17- Chiến thắng Lịch sử Điện Biên Phủ .
Khi dạy bài này, người giáo viên không thể tường thuật hay mô tả “chay”
mà phải sử dụng kênh hình, để học sinh thấy được vị trí của Điện Biên Phủ trên
cơ sở đó bằng câu hỏi gợi ý: Em có nhận xét gì về vị trí của Điện Biên Phủ? Tại
sao gọi chiến thắng lịc sử Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi chống giặc ngoại
xâm?...

Như vậy, theo tôi, phương pháp chủ đạo khi dạy dạng bài học này là
tường thuật, miêu tả kết hợp với kể chuyện cho học sinh nghe chuyện anh hùng
Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn
Đàn lấy thân mình làm giá súng và khai thác kiến thức từ hệ thống kênh hình để
làm sống dậy diễn biến của cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch hay cuộc
tiến công.
9


Dạng bài có nội dung về thành tựu văn hóa- khoa học.
Gồm các bài:
Đường Trường Sơn.
Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta.
Xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình,...
Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Khi dạy dạng bài này, cần lưu ý những điểm sau:
Phải mô tả được những đặc điểm nổi bật của công trình kiến trúc (Quá
trình xây dựng, quy mô, cấu trúc, kiểu dáng,...

Nêu được các thành tựu cơ bản về văn hóa, khoa học trong thời kì lịch sử
ấy.
Trên cơ sở đó, giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ các công trình nghệ
thuật kiến trúc, văn hóa, khoa học cho học sinh.
Ở loại bài này, thường có nhiều tranh ảnh về các công trình kiến trúc, các
thành tựu về văn hóa… Vì vậy, tôi thường hướng dẫn học sinh đi từ quan sát đến
mô tả và nêu ra nhận xét. Như vậy, khai thác kiến thức từ kênh hình là phương
pháp cực kì quan trọng với dạng bài này.

Nhà máy thuỷ điện đầu tiên của nước ta

Đường Trường Sơn

Dạng bài có nội dung ôn tập, tổng kết.
Gồm các bài:
Bài 11: Hệ thống lại những sự kiện điển hình hơn tám mươi năm chống
thực dân Pháp xâm lược và đô hộ 1858- 1945.
Bài 18: Tổng hợp những nét cơ bản của lịch sử kháng chiến bảo vệ độc
lập dân tộc ( 1945- 1954).
Bài 29: Tổng kết lịch sử nước ta giữa thế kỉ XIX đến nay.
Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
10


Loại bài ôn tập, tổng kết là loại bài nhằm hệ thống hóa và củng cố lại
những kiến thức đã học cho học sinh sau mỗi thời kì hay giai đoạn lịch sử nhất
định, giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu
sắc và toàn diện hơn, đồng thời chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra, thi cử.
Để dạy tốt dạng bài này, mở đầu bài học, tôi thường nêu nhiệm vụ cần
giải quyết rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của

giáo viên.
Thông thường, với dạng bài ôn tập, tổng kết phải vận dụng tổng hợp
nhiều phương pháp. Tuy nhiên cũng tùy từng phần, từng nội dung cụ thể trong
từng bài mà giáo viên lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy học phù hợp.
Riêng tôi lại thấy trò chơi là một phương pháp rất thích hợp với dạng bài này vì
nó có thể tổng hợp kiến thức từ nhiều bài học khác nhau, đồng thời cũng tạo ra
không khí sôi nổi, hấp dẫn cho học sinh trong quá trình học tập. Qua những hoạt
động “học mà chơi, chơi mà học”, học sinh sẽ ghi nhớ một cách tự giác những
kiến thức lịch sử đã học.
Ví dụ: Bài 18- Ôn tập, tôi tổ chức dưới hình thức trò chơi “Ô chữ kì diệu”
Giáo viên chuẩn bị các thẻ chữ dùng làm đáp án khi học sinh đã tìm ra
đáp án cho từng ô chữ.
Bảng ô chữ.
Hệ thống câu hỏi hàng ngang như sau:
Câu hỏi:
1. Để đẩy lùi giặc đói Bác Hồ tổ chức ngày này ?
2. Để đẩy lùi giặc dốt Bác Hồ tổ chức ngày này ?
3. Nhân dân Phú Thọ đã làm gì để chống quân Pháp nhảy dù?
4. Thu - Đông 1947, Việt Bắc trở thành: “...giặc Pháp”?
5. Ngày 16/9/1950, quân ta nổ súng tấn công cứ điểm này ?
6. Tên của vị anh hùng “ chặt cánh tay phá đồn địch”.
7. Ngày 01/05/1954, ta mở...tấn công lần thứ 3 đánh chiếm các cứ
điểm còn lại trong chiến dịch Điện Biên Phủ?
8. Tên của vị anh hùng lấy thân mình lấp lỗ Châu mai.
9. Học sinh tìm ra ô chữ hàng dọc.
1
2
3
4


N

G
B

À
Ì

Y
N
M

Đ
H



D
C

N
Â
H

G
N
C
Ô

T

H

N

Â

M

M
C
C

V Ụ
H Ô N

G
11


5
6
7
8

Đ

Ô

N


G K H Ê
L A V Ă N C Ầ U
Đ Ợ T
P H A N Đ Ì
N H G I
Ó T
Cách tiến hành: Chia lớp làm 2 đội chơi, bầu ban giám khảo. Giáo viên
phổ biến luật chơi:
Khi giáo viên đọc câu hỏi, đội nào tìm ra đáp án trước, đội đó được một
bông hoa.
Sau khi giải xong ô chữ hàng ngang, tìm ô chữ hàng dọc. Tuy nhiên, nếu
đội nào đoán được ô chữ hàng dọc trước thì có thể giơ lá cờ để trả lời và sẽ 10
bông.
Trọng tài ghi điểm cho từng đội.
Mỗi câu hỏi, mỗi đội chỉ được trả lời một lần. Nếu trả lời sai thì quyền trả
lời thuộc về đội kia.
Thời gian cho mỗi câu là 20 giây.
Kết thúc trò chơi,đội nào ghi được nhiều điểm nhất sẽ thắng cuộc.
Tất cả các chữ ghép lại thành “ Thắng lợi”
2.3.3. Công tác chuẩn bị cho giờ dạy học Lịch sử.
Đối với học sinh:
Để giúp các em học tốt một bài lịch sử, cuối tiết dạy lịch sử trước, tôi
thường hướng dẫn các em chuẩn bị một cách chu đáo, cụ thể như sau:
Trước tiên các em cần đọc thành tiếng ít nhất 3 lần, sau đó đọc thầm.
Đọc kỹ phần giải nghĩa từ ngữ khó ở cuối bài.
Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa,
từ đó các em có thể nêu được những ý chính của bài học.
Đối với giáo viên.
Cùng với phương pháp dạy học mới nói chung, phương pháp dạy môn
Lịch sử nói riêng, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy và sự học hỏi, giúp đỡ của

đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng để tổ chức dạy - học thành công một tiết Lịch
sử, học sinh hiểu bài và ghi nhớ được theo mục tiêu, yêu cầu của tiết học, giáo
viên cần chuẩn bị những việc sau:
Soạn bài cụ thể, chi tiết rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng các
phương pháp giảng dạy kết hợp với phương tiện dạy học một cách linh hoạt để
giờ dạy nhẹ nhàng và đạt hiệu quả.
Nắm chắc mục tiêu, yêu cầu ở từng bài. Đọc kỹ nội dung sắp dạy, trao đổi
học tập bổ sung thêm kiến thức liên quan, dự kiến các tình huống học sinh sẽ
mắc phải và cách xử lí những tình huống đó.
Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài Lịch sử. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi
phù hợp với từng đối tượng học sinh để học sinh hiểu nội dung bài một cách
hiệu quả nhất, từ đó tìm ra nội dung cần ghi nhớ.
12


2.3.4. Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ dùng dạy học
kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử.
Học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong
quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Đặc trưng nổi
bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực
trong quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể “phán đoán”, “suy luận”,… để
biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn Lịch sử trong nhà
trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp xúc với những chứng cứ vật
chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh
động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về
con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định,
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước hết phải
kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo viên dùng

phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch
sử. Có thể nói, chỉ có miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái hiện được những
biến cố lịch sử quan trọng, đem đến cho học sinh những hứng thú mạnh mẽ. Do
sách giáo khoa viết rất cô đọng, trừu tượng nên tôi đã sử dụng nhiều tư liệu, kết
hợp với đồ dùng trực quan (tranh ảnh, bản đồ) để miêu tả, tường thuật. Các
phương tiện trực quan sẽ tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác
hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tạo biểu tượng lịch sử.

Đồ dùng trực quan trong tiết học

13


Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch sử còn
nhiều hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại vừa không phù hợp. Thử lấy ví dụ về
hệ thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng hệ thống bản đồ và
tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành
không đủ. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu, thiếu đồng bộ.
Trước những khó khăn đó, việc dạy học theo hướng ứng dụng công nghệ thông
tin là một giải pháp tích cực, là hướng đi kịp thời để giải quyết những khó khăn
nêu trên. Nhận thấy điều đó, tôi thường soạn giáo án điện tử môn Lịch sử . Khi
giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng. Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực
hoạt động. Được tiếp xúc với tranh ảnh lịch sử sinh động, các em chủ động tiếp
thu và nắm vững kiến thức hơn.

Tiết học Lịch Sử bằng công nghệ thông tin

2.3.5. Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự phát
hiện kiến thức.
Khi dạy học, tôi thường tạo điều kiện cho học sinh độc lập suy nghĩ, tự

tìm tòi, phát hiện kiến thức chứ không áp đặt những kết luận có sẵn. Để làm
được việc này, tôi không chỉ sử dụng các phương pháp diễn giải mà tổ chức bài
học thành những vấn đề rồi dùng hệ thống câu hỏi, kích thích học sinh tự tìm tòi,
tự phát hiện kiến thức một cách độc đáo, sáng tạo. Phương pháp dạy học vấn
đáp- tìm tòi này giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn. Để
sử dụng phương pháp này hiệu quả, tôi thường đầu tư xây dựng các câu hỏi
14


ngắn gọn, dễ hiểu, tường minh, tránh những câu hỏi rườm rà, không có tác dụng
phát triển tư duy. Trong một bài hoặc một phần không nên đặt quá nhiều câu hỏi.
Ngoài ra, tôi còn sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Giáo viên đưa ra
các ý kiến khác nhau để học sinh trao đổi, thảo luận, lựa chọn, nêu ý kiến riêng
của mình. Tuy nhiên, không phải bất cứ bài học nào, phần kiến thức nào cũng
đem ra thảo luận. Tùy từng dạng bài, tùy từng phần kiến thức mà giáo viên cho
học sinh thảo luận.Thông thường chỉ những phần kiến thức phức tạp, có nhiều
cách hiểu khác nhau, hay những câu hỏi, những bài tập khó cần có sự hợp tác
giữa các cá nhân thì nên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm. Khi thảo luận
nhóm, giáo viên cần lưu ý đến thời gian tiết học, không gian lớp học và số lượng
học sinh … để tổ chức thảo luận nhóm một cách hợp lí. Không nên lạm dụng
phương pháp này trong suốt tiết học cũng như phải hết sức tránh tính hình thức
trong thảo luận nhóm.

Thảo luận nhóm trong tiết học Lịch sử.

2.3.6. Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp xúc các nguồn
sử liệu trong thực tế.
Lịch sử đã đi qua nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại dấu vết
của nó qua kí ức của nhân loại(văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội);
qua những thành tựu văn hóa vật chất (thành quách, nhà cửa; đình, chùa, miếu

15


mạo, tượng đài,…); qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa; qua
tên đất, tên làng, tên đường phố; qua tranh ảnh, báo chí đương thời; qua thái độ
của người đương thời đối với các sự kiện lịch sử (những ngày kỉ niệm, những
ngày lễ lớn,…) Chỉ có trên cơ sở những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự
nhận thức và trình bày về lịch sử.
Tại địa phương tôi, những dấu vết cổ xưa của lịch sử phong kiến không
còn nữa. Những mái chùa nay đã được xây dựng lại, khang trang hơn, to đẹp
hơn. Vì vậy, khi dạy bài Xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, tôi đã yêu cầu
các em quan sát và nhận xét về đặc điểm nhà mày thuỷ điện Cửa Đạt ở địa
phương mình rồi từ đó đối chiếu với nội dung tìm hiểu trong bài, các em sẽ có
nền tảng kiến thức thực tế vững chắc hơn.

Nhà máy thuỷ điện Cửa Đặt

Hội thề Lũng Nhai xã Ngọc Phụng, Thường Xuân

Trong chương trình có hai bài dành cho Lịch sử địa phương. Tôi thường yêu
cầu học sinh tìm hiểu qua suy nghĩ của ông, bà, cha, mẹ về những anh hùng lịch
sử ấy, những chiến công oanh liệt ấy. Sự kế thừa lòng yêu nước, ngưỡng mộ các
danh nhân lịch sử Việt Nam của các em qua ông bà, cha mẹ. Bên cạnh đó tôi
dùng tranh ảnh các khu di tích lịch sử như Đền Cầm Bá Thước ở xã Vạn Xuân,
Hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc Phụng, đề các em được thấy, các di vật từ lịch sử,
được cảm nhận khí thế Đông A hùng thiêng, Lớp tôi có nhiều em nhà gần khu di
tích lịch sử Cửa Đạt các em tự miêu tả cảnh quan nơi di tích… các em sẽ hứng
thú hơn với Lịch sử nước nhà, hình thành thói quen tự giác tìm hiểu Lịch sử
quốc gia. Tất cả các kiến thức ấy sẽ thấm dần vào nhận thức của học sinh một
cách tự giác chứ không phải nhồi nhét một cách thụ động, tiêu cực.


16


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Được sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, sự cố gắng nỗ lực của bản thân, với
Di tích Lịch Sử đền Cầm Bá Thước.
các biện pháp trên tôi đã tiến hành thường xuyên và thực sự chu đáo nên năm
học 2015- 2016, theo chủ quan đánh giá của tôi đã thu được một số kết quả sau:
Các em học sinh trong lớp đều rất thích học Lịch sử và thích được gọi trả
lời, nêu cảm nghĩ trong giờ học Lịch sử, không khí những tiết Lịch sử rất sôi
nổi.
Các em được phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, hứng thú trong
các giờ học, được tự tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Từ
đó bồi dưỡng cho các em lòng yêu quê hương, đất nước, lòng tự tôn, tự cường
dân tộc.
Chất lượng học Lịch sử của lớp được nâng cao rất nhiều. Học sinh nắm
vững các kiến thức lịch sử nước nhà, bộc lộ được thái độ tình cảm đối với các
nhân vật, sự kiện lịch sử đã học, tự rút ra được cho mình bài học, ý chí quyết
tâm, kiên cường trong cuộc sống ... Trong các lần kiểm tra, các em thường đạt
chất lượng theo yêu cầu. Ngay cả những em học sinh vốn học chưa hoàn thành,
nhưng nhờ học tập có phương pháp và được các bạn giúp đỡ nên các em có tiến
bộ rất nhiều.
Chất lượng này được thể hiện qua kết quả cuối kì I như sau: (Do môn
Lịch sử và Địa lí kiểm tra trên cùng một bài thi, thang điểm mỗi phần là 5 điểm.
Để tiện theo dõi, tôi đã lấy riêng điểm phần Lịch sử nhân theo hệ số 2 thành
thang điểm 10)
Điểm 4 trở
Điểm 9-10
Điểm 7-8

Điểm 5-6
Tổng
xuống
số HS
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
17
7
41.2%
7
41.2%
3
17.6%
Từ kết quả thu được thông qua bảng thống kê trên, và qua thực tế giảng
dạy, tôi thấy rằng đề tài đã đem lại kết quả tương đối khả quan. Kết quả này cho
thấy các biện pháp được đề xuất trong đề tài mang tính khả thi. Những tiết dạy
thực hiện các biện pháp đã nêu được tổ khối chuyên môn đánh giá cao.
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã khiến mối
quan hệ thấy trò trong nhà trường bắt đầu có sự thay đổi. Người thầy không còn
ở nghĩa truyền thống và đã bắt đầu dịch chuyển sang học sinh. Giáo viên không
17



chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức cho học sinh tiếp nhận, mà còn sự phản
ánh trở lại của các em học sinh. Trong thời đại bùng nổ thông tin khi học sinh có
nhiều kênh tiếp nhận thông tin thì trường học phải là kênh duy nhất truyền đạt
kiến thức một cách có hệ thống, trong đó giáo viên đóng vai trò là người hướng
dẫn. Trên quan điểm như vậy cần khuyến khích học sinh phải chuẩn bị bài mới
trước khi đến lớp để hình dung trước những khái niệm, kiến thức sẽ khắc sâu
trong từng tiết học.
Một dân tộc phát triển là một dân tộc biết gìn giữ và phát huy những
truyền thống lịch sử. Nhiệm vụ ấy đang đặt nặng trên “đôi vai” ngành giáo dục
nước nhà, mà cụ thể là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo chúng ta. Dạy học sinh
biết, hiểu, tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc là góp phần giữ gìn,
phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc, góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam thành một khối đoàn kết vững chắc. Học sử để rút ra những bài học về
nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành như câu nói
của Bác:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Có được kết quả như trên, bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên, ý thức vươn
lên trong học tập của học sinh còn có sự chỉ đạo đúng hướng, nhiệt tình, sát sao
của Ban Giám hiệu nhà trường, của lãnh đạo các cấp. Chính vì vậy mà giờ Lịch
sử không phải là giờ học khó, giúp các em phấn khởi, tích cực, tự tin trong học
tập, giúp chất lượng môn Lịch sử được nâng cao, làm nền tảng cho khả năng học
Lịch sử sau này của các em ở những cấp học cao hơn.
Để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức Lịch sử tốt, không chỉ dạy học lịch sử
trong giờ Lịch sử mà tôi còn kết hợp giảng dạy trong các tiết Tập đọc, Kể
chuyện, Đạo đức, …
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số
kiến nghị sau:

Có tài liệu hướng dẫn dạy phân môn “Lịch sử địa phương”
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thường Xuân, ngày 14 tháng 03 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

18


Lê Thị Mai

19



×