Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 trường tiểu học nga nhân tham gia chơi tốt trò chơi vận dụng trong môn thể dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 27 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trò chơi vận động là một trong những hoạt động của con người nảy sinh
từ lao động sản xuất. Ngay từ thời nguyên thủy, con người đã biết tạo ra công cụ
lao động để cải tạo tự nhiên, sản xuất ra thức ăn và các vật liệu như quần áo và
đồ tiêu dùng. Quá trình lao động đã nảy sinh ngôn ngữ, nhu cầu nghỉ ngơi, vui
chơi giải trí và các bài tập thể chất.
Trò chơi luôn mang tính hiện thực của xã hội loài người. Trò chơi vận
động là một trong những phương tiện giáo dục thể chất.
Giáo dục thể chất là một trong những nội dung cơ bản của giáo dục toàn
diện. Mục đích của giáo dục thể chất làm cho học sinh phát triển về các mặt:
“đức, trí, thể, mỹ ...”. Nó góp phần giáo dục tố chất vận động, nhân cách, đạo
đức lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật. Do vậy, bồi dưỡng sức khỏe cho học sinh
đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đặc biệt là giáo viên chuyên ngành giáo
dục thể chất.
Ở lứa tuổi học sinh, tính vui chơi, hồn nhiên, hiếu động là không thể thiếu
được trong các em. Vì vậy, dạy học môn Thể dục không nên dạy theo khuynh
hướng đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm
chán, dẫn đến phản tác dụng rèn luyện. Học thể dục tác động đến hoạt động toàn
diện cả về mặt tâm-sinh lý ở các em. Vì vậy, cần tạo sự hứng thú giúp các em
ham thích tập luyện.
Qua những bài tập về: đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, bài
tập rèn luyện tư thế cơ bản, trò chơi vận động .... thì trò chơi vận động giúp các
em phát triển toàn diện hơn. Thể dục góp phần bảo vệ tăng cường sức khỏe cho
học sinh phát triển tốt hơn.
Giáo dục thể chất là một hình thức giáo dục chuyên biệt. Cùng với các
hoạt động khác nó góp phần giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, thực hiện mục
tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông.
Mục đích giáo dục thể chất trong trường Tiểu học nhằm góp phần bảo vệ
sức khỏe, cung cấp kiến thức cơ bản về vệ sinh cơ thể, môi trường..., hình thành
thói quen tập luyện, tạo không khí vui tươi lành mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn,


dũng cảm...
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới cho đất nước
phù hợp với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì đổi mới giáo dục là nhiệm vụ cấp
thiết, quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo. Giáo
dục trí tuệ phải đi đôi với giáo dục thể chất. Hai mặt này luôn luôn song song và
quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên sự phát triển toàn diện, góp phần giữ gìn,
nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực cho học sinh.


Theo phân phối chương trình trò chơi vận động ở các khối lớp từ lớp 1
đến lớp 5 được lặp đi lặp lại qua từng khối lớp dễ gây sự nhàm chán cho các em
học sinh. Bên cạnh đó, một số giáo viên chưa đầu tư đến giờ dạy, chưa quan tâm
gần gũi học sinh nên không phát huy được tính tích cực của các em.
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng việc sử dụng trò chơi nhằm
kích thích hứng thú học tập giúp các em rèn luyện sức khỏe, phát triển cơ thể
cân đối toàn diện, ý thức kỷ luật, tinh thần đoàn kết và ý chí vượt qua khó khăn.
Với những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp
học sinh khối 4 trường Tiểu học Nga Nhân tham gia chơi tốt trò chơi vận
động trong môn Thể dục” nhằm giúp học sinh bớt căng thẳng, tạo hưng phấn
khi tham gia môn học, bởi khi chơi trẻ vui sướng vì được sống với chính mình,
sống đúng với bản thân mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích 1: Thông qua nội dung“trò chơi vận động” đem đến cho các em
khi học một trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái, dễ chịu. Giúp các em có sức
khỏe tốt, phát triển năng lực, thể chất và trí tuệ của các em.
Mục đích 2: Muốn tham gia “trò chơi vận động” được nhanh nhẹn, các
em phải có khả năng vận động tốt, nắm bắt được thao tác kĩ thuật và thực hiện
đúng luật trò chơi.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài này, tôi đã lựa chọn học sinh khối 4 (lớp 4A và lớp 4B) gồm 50

em, ở Trường Tiểu học Nga Nhân. Lớp 4A có 25 học sinh thuộc nhóm đối
chứng; Lớp 4B có 25 học sinh thuộc nhóm thực nghiệm, số lượng học sinh nam
và nữ của 2 lớp là bằng nhau.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp quan sát: Thông qua việc kết hợp tranh ảnh, việc làm
mẫu để học sinh được quan sát, giúp các em nhìn nhận vấn đề linh hoạt hơn.
b. Phương pháp dùng lời nói: Mục đích của phương pháp này giúp tôi
trình bày, giải thích nội dung bài học một cách có hệ thống, logic, giúp cho học
sinh tiếp thu, cũng như nắm bắt bài được dễ hơn.
c. Phương pháp thị phạm: Bằng việc làm mẫu động tác, nhằm hướng dẫn
cho học sinh tiếp thu được bài học. Giáo viên làm mẫu động tác “chuẩn” để học
sinh quan sát, khi có nhiều học sinh thực hiện động tác sai, giáo viên làm cả
động tác đúng và động tác sai cho học sinh quan sát, rồi giáo viên nhận xét nhấn
mạnh lỗi học sinh thường mắc phải để học sinh biết cách sửa sai.
d. Phương pháp dạy học đặc trưng bộ môn: Thể dục là môn học “học mà
chơi, chơi mà học”, do đặc thù môn học nên tôi luôn gần gũi các em để nắm
được tâm tư nguyện vọng của các em, đồng thời phát huy tính tích cực của các
em, có phương pháp dạy học phù hợp trong tiết học.


e. Cách sử dụng đồ dùng dạy học: Mục đích của việc sử dụng đồ dùng
dạy học nhằm giúp học sinh có hứng thú khi nhìn thấy đồ dùng đa màu sắc và
muốn tham gia vào trò chơi.
f. Phương pháp thực nghiệm: Mục đích của phương pháp này là chứng
minh hiệu quả của việc ứng dụng trò chơi vận động vào các giờ thể dục của học
sinh tiểu học nhằm nâng cao sức khỏe và phát triển thể lực cho các em.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận:
Trò chơi vận động nhằm rèn luyện các tố chất vận động cho học sinh. Đây
là phương tiện chủ yếu giáo dục thể lực, giải quyết các nhiệm vụ vận động dưới

dạng trò chơi nên các em vận động tích cực thoải mái.
Đối với học sinh tiểu học, trò chơi vận động được sử dụng tích cực để
giảng dạy những động tác, những kỹ năng vận động cơ bản như: đi, chạy, nhảy,
ném, đi vượt chướng ngại vật…
Nội dung trò chơi ở các lứa tuổi (các khối lớp 1-2-3-4-5) có khác nhau
nhưng không thay đổi, không tạo hứng thú cho học sinh. Ở khối lớp 1, học trò
chơi diễn ra theo xu hướng hình thành thói quen vận động, khả năng giao tiếp
các mối quan hệ cá nhân với tập thể tạo cho học sinh môi trường hoạt động tự
nhiên, kích thích và đảm bảo sự phát triển thể chất một cách bình thường. Với
học sinh các lớp cao hơn (cuối bậc tiểu học) trò chơi vận động có đặc điểm
mang nhiều ý nghĩa đến sự phát triển các tố chất thể lực, khối lượng vận động
tăng, thời gian chơi kéo dài hơn, cần huy động nhiều các nhóm cơ toàn thân
tham gia, qua đó củng cố, tăng cường sức khỏe, rèn luyện khả năng nhanh nhẹn,
khéo léo, thông minh, tinh thần đoàn kết. Ngoài ra, trò chơi vận động còn là
phương tiện vui chơi giải trí, là một hoạt động có tính văn hóa, một hình thức
nghỉ ngơi tích cực, có tác dụng giải tỏa tâm lý sau những giờ học căng thẳng.
Trò chơi góp phần nâng cao đời sống tinh thần, tăng cường sức khỏe và phát
triển các tố chất thể lực cho học sinh.
Mặt khác, học sinh lớp 4 (lứa tuổi 9-10) có đặc điểm tâm sinh lý còn hồn
nhiên, chưa cân bằng nên biểu hiện ở môn học và nhất là ở các trò chơi chưa
được chính xác, các em rất hiếu động nên rất khó khăn khi tổ chức trò chơi, hoặc
tham gia chơi nhưng chưa đúng yêu cầu của trò chơi. Trong quá trình giảng dạy
tôi thấy trò chơi qua các lớp học thường lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu. Học
sinh khó nắm bắt cách chơi, luật chơi, cách thưởng phạt và hình thức chơi.
Ở lứa tuổi này cơ thể các em đang trong thời kỳ phát triển nên các em rất
thích chơi trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa…các em thích quan sát các
đồ dùng nhiều màu sắc. Do khả năng phân tích tổng hợp của trẻ còn sơ sài. Vì
thế, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những ý nghĩ của mình một cách
vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng. Những năng lực, tố chất của các em



còn mang tính tiềm ẩn, chưa được bộc lộ rõ rệt nên rất khó khăn khi tổ chức trò
chơi, hoặc tham gia chơi nhưng chưa đúng yêu cầu của trò chơi.
Mặt khác, Thể dục là môn học cần sử dụng nhiều đồ dùng. Nhưng bộ đồ
dùng ở trên cấp về chỉ có số ít không đủ đáp ứng nhu cầu tất cả các bài dạy. Nói
chung đồ dùng và thiết bị dạy học tuy đã có sự quan tâm của cấp trên và ban
giám hiệu, nhưng qua thời gian phần lớn đã bị hư hỏng hoặc chưa phù hợp với
một số tiết dạy, nhất là khi thời tiết thay đổi, giáo viên phải dạy trong lớp học,
điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy và học. Nên khi dạy các nội dung các
giáo viên thường dạy chay làm cho học sinh khó hiểu, khó nhớ về kỹ thuật,
không luyện tập được theo yêu cầu của bài. Chính vì thế, dễ tạo ra sự nhàm chán
và ức chế khi học. Một số trò chơi trong chương trình chưa phù hợp với đối
tượng và điều kiện thực tế của địa phương nhưng giáo viên lại không có biện
pháp thay thế cho phù hợp, từ đó dẫn đến học sinh xem nhẹ giờ học Thể dục.
Trò chơi vận động là một trong những phương tiện giáo dục thể chất
nhằm rèn luyện khả năng nhanh nhẹn, khéo léo, thông minh, tinh thần đoàn
kết… Muốn được vậy, người giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi truyền đạt cho
các em. Giáo viên nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng. Cụ thể đó là đưa các trò chơi vận động trong các tiết học bước
đầu giúp học sinh các khối lớp nói chung và khối 4 nói riêng, yêu thích và hứng
thú với môn Thể dục. Thông qua sự vận động của trò chơi còn tìm ra những học
sinh có “năng khiếu”, để bồi dưỡng cho đội tuyển “học sinh giỏi” của nhà
trường nói riêng và ngành giáo dục nói chung.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công giảng dạy môn Thể dục của
trường Tiểu học Nga Nhân. Ngay từ khi bắt đầu năm học tôi chủ động nắm bắt
tình hình tập luyện của học sinh toàn trường và nhất là khối 4 để có biện pháp
phù hợp trong giảng dạy đáp ứng thực tế địa phương.
a. Nhận định chung:
Về nhà trường đã đầu tư nhiều trang thiết bị để phục vụ cho môn học. Tuy

nhiên cũng giống như các trường khác trong huyện trường Tiểu học Nga Nhân
cũng chưa có đầy đủ trang thiết bị và nhà tập đa năng. Vì thế mỗi khi thời tiết
không thuận lợi như mưa, rét, nắng to…thì giáo viên phải cho học sinh học
trong lớp. Học trong lớp nội dung học luôn bị hạn chế bởi không có không gian
học hoặc sợ làm ảnh hưởng đến các lớp học bên cạnh nên nội dung bài học bị
đơn điệu dễ gây nên sự nhàm chán cho các em;
Dụng cụ phục vụ cho môn học tuy đã có sự đầu tư từ cấp trên và Ban
giám hiệu tuy nhiên qua thời gian đã bị mất và hư hỏng nhiều, chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tiễn. Trò chơi qua các lớp học thường lặp đi lặp lại một cách
đơn điệu cách chơi, luật chơi, cách thưởng phạt và hình thức chơi.


Để các em vừa được học tâp, vừa được vui chơi đòi hỏi người giáo viên
lòng nhiệt tình, tận tụy, tìm tòi những nội dung, phương pháp dạy học phù hợp,
những trò chơi hấp dẫn đổi mới và linh hoạt để lôi cuốn học sinh mà lại vừa đảm
bảo chương trình mà bộ đã đề ra.
Là người trực tiếp phụ trách môn học - giáo viên phải cho học sinh chơi
tất cả các trò chơi đã quy định. Ngoài ra giáo viên phải thay đổi trò chơi hoặc
thay đổi cách chơi mới tạo nên một tiết học vui vẻ. Thế nhưng, một số giáo viên
không thay đổi cách chơi cùng một trò chơi qua các tuần, qua các lớp, nên học
sinh không hào hứng, tham gia không tích cực, dẫn đến chất lượng tổ chức trò
chơi vận động còn thấp thiếu tác động rèn luyện cơ thể cho học sinh, lượng vận
động thấp gây nhàm chán dẫn tới chất lượng môn học chưa cao.
Với phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” tôi luôn để cho
các em chủ động và sáng tạo trong giờ học còn bản thân mình là người chỉ dẫn,
động viên các em.
Ở lớp 4 ngoài việc yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo vận động, các em
còn phải biết tên gọi các trò chơi đã được giới hạn trong chương trình.
b. Quá trình giảng dạy và tổ chức cho học sinh chơi “Trò chơi vận động” ở
lớp 4 Trường Tiểu học Nga Nhân còn gặp những khó khăn sau:

* Đối với giáo viên:
- Quan tâm đến việc rèn luyện thao tác kĩ thuật, khả năng vận động của
học sinh chưa sâu sát.
- Nêu tên trò chơi và giải thích cách chơi chưa tiến hành theo nhiều cách
khác nhau.
- Chưa có biện pháp cụ thể và trực quan trong giờ thực hành trò chơi.
- Có khi chỉ hướng dẫn để học sinh tự thực hành trò chơi.
- Đối với những trò chơi có chủ đề, chưa hỏi những câu hỏi để dẫn dắt
học sinh sao cho các em “nhập vai” vào trò chơi.
- Tổ chức đội hình chơi cho học sinh có lúc chưa hợp lí.
* Đối với học sinh:
- Do khả năng phân tích và tổng hợp của các em còn non yếu. Đặc biệt là
khả năng phân tích những hiện tượng, những thay đổi trong khi thực hành trò
chơi, nên các em luôn trong tình trạng bị động. Chủ yếu chỉ quan sát và làm
theo. Do vậy, không hình thành được thao tác kĩ thuật trong khi chơi, khả năng
vận động chưa cao.
- Chưa nắm kĩ được nội dung, yêu cầu của các trò chơi, xử lí các tình
huống trong khi chơi chưa đạt được hiệu quả cao.
- Nhiều khi chơi nhưng chưa nắm rõ cách chơi và luật chơi.
- Chưa biết cách “chơi mà học” và tự tổ chức vui chơi ở trường, ở nhà.
* Cụ thể qua một số trò chơi sau:


- Trò chơi “Lăn bóng bằng tay”
Cách chơi: Khi có lệnh, em số 1 của mỗi đội nhanh chóng di chuyển dùng
tay lăn bóng về phía cờ đích. Khi qua cờ đích thì vòng quay lại và lại tiếp tục di
chuyển lăn bóng trở về. Sau khi em số 1 thực hiện xong về đứng ở cuối hàng,
em số 2 của các hàng thực hiện như em số 1. Cứ như vậy, đội nào xong trước ít
phạm quy, đội đó thắng cuộc.
Thế nhưng khi chơi các em lại thực hiện:

+ Không dùng tay lăn bóng mà dùng chân hoặc ôm bóng chạy;
+ Không vòng qua cờ đích mà đã quay về vạch xuất phát;
+ Em lăn bóng trước chưa về đến vạch xuất phát, em tiếp theo đã rời vạch
xuất phát hoặc xuất phát trước khi có lệnh;
+ Khi di chuyển bóng lăn xa quá tầm tay.
- Trò chơi: “Chạy theo hình tam giác”.
Cách chơi: Khi có lệnh xuất phát, số 1 của mỗi đội rút một lá cờ nhanh
chóng chạy theo cạnh của tam giác sang góc kia rồi chạy về để cắm cờ đó vào
hộp. Sau khi em số 1 cắm cờ vào hộp, số 2 mới được xuất phát. Em số 2 thực
hiện tương tự như em số 1. Trò chơi cứ như vậy cho đến hết, đội nào xong trước
ít phạm quy là thắng.
Thế nhưng khi chơi các em lại thực hiện:
+ Xuất phát trước lệnh hoặc trước khi bạn chưa cắm cờ xong.
+ Rút và cắm cờ sai quy định, làm rơi cờ trong khi chạy hoặc quên không
thực hiện tuần tự theo các khu vực đã quy định.
- Trò chơi “Dẫn bóng”.
Cách chơi: Khi có lệnh xuất phát, em số 1 của các hàng nhanh chóng chạy
lên lấy bóng, dùng tay dẫn bóng về vạch xuất phát, rồi trao bóng cho số 2. Em
số 2 vừa chạy vừa dẫn bóng về phía trước rồi đặt bóng vào thùng, sau đó chạy
nhanh về phía vạch xuất phát và chạm tay vào bạn số 3. Số 3 thực hiện như số 1
và cứ lần lượt như vậy cho đến hết, đội nào xong trước, ít lỗi đội đó thắng.
Thế nhưng khi chơi các em lại thực hiện:
+ Xuất phát trước lệnh. Không đập bóng hoặc không dẫn bóng mà ôm
bóng chạy hoặc để bóng lăn về trước cách người quá 2m.
+ Chưa nhận được bóng hoặc chạm tay của bạn thực hiện trước đã rời
khỏi vạch xuất phát.
Các trò chơi mà học sinh thực hiện như vậy thì không đạt được kết quả.
Một số hình ảnh minh họa các trò chơi trên: Xem phần phụ lục 1
* Trong những năm học vừa qua tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu nhiều
phương pháp và hình thức tổ chức lên lớp khác nhau, tuy nhiên tôi mới cho học

sinh tập luyện những nội dung và trò chơi có trong chương trình giảng dạy mà
chưa quan tâm đến những trò chơi mà học sinh yêu thích và chưa đưa trò chơi


dân gian khác vào môn học nên nội dung còn khô khan. Tỷ lệ học sinh yêu thích
và hưng thú với môn học chưa thực sự cao.
Các em là những học sinh vô tư hồn nhiên và ham học hỏi, ngoan ngoãn,
biết giúp đỡ bạn bè và nghe lời thầy cô giáo. Tuy nhiên, một số em còn xem nhẹ
giờ Thể dục, các em tập thiếu nghiêm túc, tập các động tác thiếu chuẩn xác, sai
kỹ thuật nên không có tác dụng rèn luyện thân thể. Các em thích giờ Thể dục
nhưng chỉ là để thay đổi không khí.
Qua tìm hiểu thực trạng như đã nêu ở trên, tôi đã tiến hành khảo sát sự
yêu thích của học sinh đối với bộ môn Thể dục, đặc biệt là nội dung phần “trò
chơi vận động”, để đưa ra phương pháp sử dụng trò chơi hợp lý nhằm gây hứng
thú giúp học sinh tập luyện hiệu quả hơn.
Để nghiên cứu thông qua tiết học tôi đã khảo sát học sinh khối 4 Trường
Tiểu học Nga Nhân. Trong đó lớp 4A (nhóm đối chứng) tôi dạy học theo phân
phối chương trình và lớp 4B (nhóm thực nghiệm) tôi dạy học theo phương pháp
tôi đã xây dựng.
Kết quả cụ thể đạt được như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng học sinh khối 4 Trường Tiểu học
Nga Nhân đối với bộ môn Thể dục đầu năm học 2016 -2017 (gồm 50 học sinh,
25 em lớp 4A nhóm đối chứng, 25 em lớp 4B nhóm thực nghiệm; số học sinh
nam nữ ở 2 lớp là bằng nhau)
Kết quả thu được
Lớp 4a (nhóm đối chứng)
Lớp 4b (nhóm thực nghiệm)
HS hoàn
HS hoàn
HS chưa

HS hoàn
HS hoàn
HS chưa
thành tốt
thành
hoàn thành
thành tốt
thành
hoàn thành
SL Tỷ
SL
Tỷ
SL
Tỷ
SL
Tỷ
SL
Tỷ SL Tỷ lệ
lệ
lệ
lệ
lệ
lệ
%
%
%
%
%
%
4

16
16
64
5
20
4
16
16
64
5
20
Sau khi tiến hành kiểm tra ban đầu của hai lớp: lớp 4A (nhóm đối chứng)
và lớp 4B (nhóm thực nghiệm) thì tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt là 4/25 em chiếm
16%, tỉ lệ học sinh hoàn thành là 16/25 em chiếm 64%, tỉ lệ học sinh chưa hoàn
thành nội dung môn học chiếm 20%. Điều này nói lên tỉ lệ học sinh yêu thích
nội dung trò chơi trong môn học còn chưa cao. Trò chơi vận động là hoạt động
sôi nổi, vận động nhiều nên một số em còn sợ và ngại vận động.
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục thể chất trong nhà trường.
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn các em rèn luyện thể chất.
Qua thực tế công tác tại trường Tiểu học Nga Nhân, tôi luôn trăn trở làm thế nào


để các em học sinh chủ động, sáng tạo, tích cực và có hứng thú trong môn học
Thể dục nói chung và phần trò chơi nói riêng, giúp các em trở thành những
người có sức khoẻ tốt, có tri thức, có đạo đức và thành người có ích cho xã hội.
2.3. Biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề:
a.Biện pháp 1: Tạo hứng thú cho các em.
Ngay từ đầu giờ học cần phải gây hứng thú cho các em bằng nhiều
phương pháp khác nhau. Nhất là thông qua nội dung “trò chơi vận động” tạo sự
hưng phấn cho các em.

Ví dụ: thấy các em ra sân học thể dục có dấu hiệu mệt mỏi, tôi nhanh
chóng nhận lớp và lôi cuốn các em vào một trò chơi mang tính sôi động dễ chơi
ở phần khởi động như trò chơi: kể tên các con vật, ồ sao bé không lắc, gọi
thuyền, làm đàn vịt ..., nhằm tạo hưng phấn cho các em.
Theo tôi tiết học Thể dục, không nhất thiết phải tuân thủ theo các quy
định, theo khuôn khổ, mà đòi hỏi người giáo viên cần phải có phương pháp dạy
học phù hợp với thực tế. Vì đặc điểm của học sinh tiểu học là “vừa học vừa
chơi”.
Mỗi tiết học, tôi chủ động áp dụng hình thức tích cực hóa học sinh bằng
các phương pháp trò chơi. Để tiết học đạt kết quả cao, tạo cho các em niềm say
mê, hứng thú nắm vững được nội dung bài học, hình thành kỹ năng kỹ xảo mà
không có dấu hiệu chán nản, mệt mỏi khi tập luyện thì trước lúc lên lớp tôi luôn
chuẩn bị bài tốt như: nghiên cứu sách giáo viên, tham khảo tài liệu có liên quan,
chuẩn bị đầy đủ sân bãi dụng cụ cộng với kinh nghiệm giảng dạy qua các năm
để lựa chọn trò chơi phù hợp. Từ đó, tạo cho các em sự vui vẻ, thoải mái sau
những nội dung học căng thẳng. Thông qua trò chơi giúp các em có tác phong
nhanh nhẹn, hoạt bát, có tính chủ động và kỷ luật cao trong học tập cũng như
trong lao động.
b.Biện pháp 2: Chọn trò chơi phù hợp với yêu cầu của bài học.
Để có được một tiết học đảm bảo học sinh vừa nắm bắt được nội dung,
vừa được vui chơi thì trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải thực sự
hiểu học sinh muốn và cần gì?. Trong phần mở đầu giáo viên nên sử dụng một
số trò chơi thường được các em yêu thích hoặc cho cả lớp đứng vỗ tay hát để
gây được sự tập trung và hứng thú trước khi vào phần cơ bản. Trước khi chuyển
nội dung học hoặc chơi trò chơi giáo viên nên dẫn dắt học sinh bằng một câu hỏi
và cho học sinh suy nghĩ trả lời. Trước khi kết thúc trò chơi thì cho học sinh tự
nhận xét đánh giá kết quả cá nhân, nhận xét tổ, nhận xét chung cả lớp. Cuối
cùng giáo viên mới đánh giá kết quả, ưu khuyết điểm trong tiết dạy.
Trong một tiết học không nhất thiết phải tuân theo qui định, khuôn khổ
mà phải luôn thay đổi phù hợp với từng lớp, từng đối tượng học sinh và điều

kiện thực tế sân bãi của trường. Giáo viên nên lựa chọn đưa vào một số tình tiết


mới gây hứng thú cho học sinh như: thông qua một số biện pháp trò chơi, thi
đấu giữa các nhóm, các tổ, tăng dần độ khó trong quá trình tập luyện...
Ngoài những trò chơi có trong chương trình học, giáo viên cần cho học
sinh chơi thêm những trò chơi dân gian. Trò chơi dân gian gắn liền với tuổi thơ
các em vì thế tạo cho các em sự vui tươi hồn nhiên.
c.Biện pháp 3: Cách thực hiện một trò chơi (trò chơi mới hoặc cũ)
Khi dạy trò chơi mới hay ôn tập cần thực hiện một số công việc sau:
- Chuẩn bị địa điểm và phương tiện. Tổ chức đội hình cho học sinh thực
hiện trò chơi. Nêu tên trò chơi, giải thích kết hợp làm mẫu cách thực hiện trò
chơi. Tổ chức cho học sinh chơi thử rồi chính thức. Điều khiển trò chơi. Đánh
giá kết quả trò chơi, khi chơi đảm bảo an toàn cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy trò chơi “mèo đuổi chuột”, trước tiên tôi cần đảm bảo sân
bãi sạch sẽ an toàn. Tiếp theo tôi tổ chức đội hình cho học sinh thực hiện trò
chơi (đội hình vòng tròn). Tôi nêu tên trò chơi (trò chơi mèo đuổi chuột). Tôi kết
hợp giải thích rồi làm mẫu để học sinh nghe và quan sát. Tôi cho học sinh chơi
thử rồi chơi chính thức, xen kẽ các lần chơi tôi nhận xét đánh giá để các lần chơi
sau các em chơi tốt hơn và đúng luật hơn.
Hình ảnh tổ chức trò chơi “mèo đuổi chuột”: Xem phụ lục 2
- Khi nêu tên trò chơi và giải thích cách thực hiện trò chơi, tôi có thể tiến
hành theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần ngắn gọn, dễ hiểu, sinh động hấp
dẫn. Giải thích cách chơi (nhất là trò chơi mới) cần chỉ dẫn trên các phương tiện
đã chuẩn bị, sau đó chính giáo viên hoặc cho cán sự làm mẫu, tiếp tục chỉ dẫn,
giải thích cho đến khi các em biết cách chơi, mới cho chơi chính thức, có phân
thắng thua và nên có hình thức khen thưởng cho học sinh.
- Đối với những trò chơi đã được chơi một số lần (trò chơi cũ), cần nhắc
lại cách chơi thật ngắn gọn, sau đó tổ chức cho học sinh chơi.
- Đối với trò chơi có chủ đề, cần có những câu hỏi dẫn dắt học sinh sao

cho các em “nhập vai” vào trò chơi.
Ví dụ: Khi tổ chức trò chơi “Bịt mắt bắt dê”, giáo viên cần dẫn dắt các em
vào trò chơi như: hôm nay cô trò mình sẽ cùng nhau đi săn dê tại một khu rừng
nhé. Giáo viên cho các em biết về con dê, bác thợ săn, khu rừng. Giáo viên nêu
tên trò chơi: “Bịt mắt bắt dê”, quy định cách chơi, luật chơi, tổ chức chơi thử,
chơi chính thức. Trò chơi có phân thắng thua, khi bác thợ săn bắt được dê giáo
viên tuyên dương bác thợ săn và đổi vai trò chơi hoặc khi bác thợ săn bắt được
dê thì thưởng cho bác thợ săn một tràng pháo tay và chú dê lò cò một vòng
quanh lớp. Sau mỗi lần chơi thấy học sinh còn vướng mắc thì giáo viên kết hợp
chỉ dẫn để các lần chơi sau các em chơi tốt hơn.
Hình ảnh: Trò chơi “bịt mắt bắt dê”: Xem phụ lục 2


- Khi điều khiển trò chơi, có thể dùng lời nói, tiếng vỗ tay, tiếng còi để
điều chỉnh nhịp điệu cuộc chơi, kết hợp với thay đổi thời gian, khoảng cách, số
lần tập..., để điều chỉnh khối lượng vận động cho hợp lí. Trước khi tổ chức chơi
chính thức giáo viên cùng học sinh thống nhất cách thưởng phạt, tạo sự hấp dẫn
khi chơi.
- Khi tổ chức trò chơi, cần theo dõi sát diễn biến cuộc chơi để xử lí kịp
thời các tình huống và nắm vững kết quả để phân thắng thua.
* Lưu ý: Không coi trọng hoặc xem nặng vấn đề thắng thua, hình phạt
không quá sức học sinh. Đối với học sinh yếu và khuyết tật thì giáo viên phải
luôn động viên khích lệ để các em hòa đồng cùng các bạn
- Cần phân loại một số trò chơi phù hợp thể chất của học sinh.
Ví dụ: Khi tổ chức trò chơi “thăng bằng” tôi cho nam thi với nam, nữ thi
với nữ chọn từng cặp tương xứng nhau, đảm bảo cân xứng và phù hợp tạo không
khí chơi.
- Đặc biệt khi tổ chức trò chơi cần đảm bảo khâu an toàn:
+ An toàn về sân bãi: Sân bãi phải được vệ sinh sạch sẽ đảm bảo an toàn
+ An toàn về dụng cụ: Trước khi chơi phải kiểm tra độ an toàn về dụng cụ

+ An toàn về học sinh: Do các em chưa có trang phục, dày dép để phục vụ
cho việc học nên đòi hỏi giáo viên cũng rất chú trọng độ an toàn, đảm bảo cho
học sinh.
d. Biện pháp 4: Xác định đúng thao tác kĩ thuật, luật chơi:
- Trong một tiết dạy thể dục, nếu luyện tập dưới hình thức thi đua hoặc
dưới dạng trò chơi vận động sẽ đạt hiệu quả cao. Để dạy tốt nội dung “trò chơi
vận động” này, tôi cần phổ biến kĩ về luật lệ của trò chơi cũng như những yêu
cầu cần đạt. Tôi trực tiếp làm trọng tài (ở trò chơi mới) hoặc cho cán sự làm (ở
trò chơi cũ) và có thể quy định thêm về cách tổ chức, hình thức chơi, tạo thêm
sự phong phú, vui vẻ của trò chơi. Cần cho các em hiểu được cách chơi, nắm
chắc luật chơi. Trên cơ sở đó rèn luyện trí thông minh, tính sáng tạo, phản ứng
linh hoạt và phát triển thể lực cho học sinh.
- Cần hướng dẫn cho các em biết cách “học mà chơi, chơi mà học” và có
tính tự tổ chức vui chơi ở trường và ở nhà.
Ví dụ: Khi dạy trò chơi “nhảy lướt sóng”, trò chơi “mèo đuổi chuột” ...
giáo viên tổ chức cho học sinh chơi và khuyến khích các em các em có thể chơi
khi ra chơi hoặc tổ chức chơi ở nhà.
- Thực hiện một trò chơi nào đó cần có những thao tác kĩ thuật, luật chơi
thật cụ thể. Tuy có mất thời gian nhưng chắc chắn chúng ta sẽ hình thành được
cho các em thói quen cẩn thận và một con đường phát triển tư duy một cách
chắc chắn, con đường đó có thể xem như một quy trình. Tạo bước đi có hệ thống
thứ tự.


e. Biện pháp 5: Trường hợp phạm quy và cách sửa chữa.
- Từ trường hợp phạm quy của các em, khi sửa sai giáo viên nên nhấn
mạnh vào những điều các em còn hay mắc lỗi, có thể thị phạm lại cả động tác
“đúng và sai” rồi cho học sinh so sánh nhận xét. Giáo viên chốt lại cách thực
hiện động tác đúng, chơi đúng và chỉ ra cái sai để học sinh tìm ra lỗi sai của
mình, giúp các em tìm ra lỗi và sửa chữa. Giáo viên giúp học sinh chơi được

đúng luật. Mong rằng những lần chơi sau các em chơi tốt hơn.
Cụ thể:
* Trò chơi “Lăn bóng bằng tay”
- Trường hợp vi phạm:
+ Không dùng tay lăn bóng mà dùng chân hoặc ôm bóng chạy.
+ Không vòng qua cờ đích mà quay về vạch xuất phát.
+ Em lăn bóng trước chưa về đến vạch xuất phát, em tiếp theo đã rời vạch
xuất phát hoặc xuất phát trước khi có lệnh.
- Cách sửa: Giáo viên nhấn mạnh 3 trường hợp phạm quy để học sinh
không phạm phải và dùng tay lăn bóng, lăn bóng phải vòng qua cờ đích mới
quay về vạch xuất phát, em số 1 về đến vạch xuất phát, em số 2 mới được quyền
xuất phát.
Giáo viên cần uốn nắn sửa sai gúp học sinh tham gia tốt trò chơi.
* Trò chơi “Chạy theo hình tam giác”.
- Trường hợp vi phạm:
+ Xuất phát trước lệnh hoặc trước khi bạn chưa cắm cờ xong.
+ Rút và cắm cờ sai quy định, làm rơi cờ trong khi chạy hoặc quên không
thực hiện tuần tự theo các khu vực đã quy định.
- Cách sửa: Giáo viên lưu ý các trường hợp phạm quy như trên, nhắc nhở
các em xuất phát khi có lệnh, em số 1 cắm cờ xong, em số 2 mới được xuất phát.
Rút và cắm cờ theo quy định, không làm rơi cờ trong khi chạy, thực hiện tuần tự
theo các khu vực đã quy định.
Giáo viên cần chỉ ra cái sai của các em, các đội chơi và sửa sai cho các
em và các đội.
* Trò chơi “Dẫn bóng”.
- Trường hợp vi phạm:
+ Xuất phát trước khi có lệnh. Không đập bóng hoặc không dẫn bóng mà
ôm bóng chạy hoặc để bóng lăn về trước cách người quá 2m.
+ Chưa nhận được bóng hoặc chạm tay của bạn thực hiện trước đã rơi
khỏi vạch xuất phát.

- Cách sửa: Khi có lệnh xuất phát, em số 1 của các hàng nhanh chóng
chạy lên lấy bóng, dùng tay dẫn bóng về vạch xuất phát, rồi trao cho số 2. Em số
2 vừa chạy vừa dẫn bóng về trước rồi đặt vào thùng chạy về chạm tay số 3


Giáo viên chỉ dẫn cụ thể về cái sai các em mắc phải giúp các em nhận biết
cái sai và chơi đúng luật.
Một số hình ảnh giáo viên thị phạm để chỉ ra lỗi học sinh thường mắc
phải. Xem phụ lục 3
Ví dụ minh chứng: Khi giảng dạy trò chơi “Lăn bóng bằng tay” các em
thường vi phạm như:
+ Không dùng tay lăn bóng mà dùng chân hoặc ôm bóng chạy.
+ Không vòng qua cờ đích mà quay về vạch xuất phát.
+ Em lăn bóng trước chưa về đến vạch xuất phát, em tiếp theo đã rời vạch
xuất phát hoặc xuất phát trước khi có lệnh.
Nắm được lỗi sai của các em tôi sửa chữa bằng cách dùng lời nói phân
tích cùng với thị phạm lại cả động tác sai và đúng để học sinh quan sát. Tiếp tục
tổ chức cho học sinh chơi và quan sát thấy học sinh chơi sai thì tiếp tục trực tiếp
sửa sai cho học sinh, chỉ cho các em thấy cái sai của mình cho đến khi các em
nắm được đúng luật chơi.
- Như vậy: Trong giảng dạy “Trò chơi vận động” cần phải chú trọng thêm
một số biện pháp sửa sai thao tác kĩ thuật cho học sinh như:
+ Chỉ ra chỗ sai và làm mẫu để cho các em quan sát.
+ Giúp cho học sinh xác định đúng thao tác kĩ thuật, luật chơi.
+ Trình bày các thao tác kĩ thuật theo một hệ thống.
+ Trực tiếp sửa chữa, uốn nắn, điều chỉnh sai sót cho các em.
- Tùy thuộc trò chơi mà giáo viên truyền đạt cho học sinh cách chơi, luật
chơi, giúp các em hiểu rõ thao tác kĩ thuật trò chơi, lôi cuốn các em thích và
tham gia trò chơi nhiệt tình chủ động.
f. Biện pháp 6: Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả.

Dụng cụ phục vụ cho học tập và trò chơi vận động rất quan trọng, nên áp
dụng triệt để vì nó dễ tạo nên hưng phấn cho người học. Vì vậy, mỗi nội dung,
mỗi tiết học giáo viên nên thay đổi dụng cụ như: Bóng đá, bóng rổ, bóng ném,
cầu…hay các vật dụng tự làm mang màu sắc sẽ tác động vào mắt gây hứng thú,
hấp dẫn lôi cuốn các em
Do đặc trưng của bộ môn với phương pháp yêu cầu tổ chức cho học sinh
theo kiểu “học mà chơi, chơi mà học” việc lồng ghép trò chơi hấp dẫn phù hợp
gây hứng thú học tập cho môn học đạt kết quả cao là cần thiết điều này phụ
thuộc vào khả năng, năng khiếu của từng giáo viên. Bởi vậy khi dạy học sinh tôi
thấy các em rất hưng thú với những tiết học có trò chơi. Tuy nhiên dụng cụ để
phục vụ cho các trò chơi không đủ, điều đó làm giảm đi tính hấp dẫn vốn có của
nó. Vì vậy, tôi đã kích thích sự sáng tạo của các em bằng cách hướng dẫn các em
làm một số dụng cụ như: cờ cán nhỏ, cầu đá (làm bằng lon bia, nước ngọt và


lông gà), dây nhảy (bện bằng cây cói), bóng nhỏ (làm bằng vải vụn),… Điều này
làm các em rất vui khi tự tay làm ra những sản phẩm học tập có ích.
Ví dụ: Ở trò chơi “Ném bóng trúng đích” là một trò chơi rèn luyện sự
khéo léo, chính xác và kỹ năng ném bóng. Với việc dùng những quả bóng nhỏ
do học sinh tự làm bằng những vật liệu đơn giản dễ tìm như vải vụn. Quả thật
khi tôi cho học sinh chơi trò chơi này thì giờ học sôi nổi hẳn lên, các em rất
thích thú, tỷ lệ xung phong tham gia trò chơi khá cao (khoảng 90%), có những
em từ trước đến nay chậm chạp nhút nhát thì cũng tích cực và hào hứng tham
gia trò chơi.
Một số hình ảnh minh họa việc sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả.
Xem phụ lục 4.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Qua quá trình thực hiện áp dụng các giải pháp trên, tôi thấy chất lượng
học tập của học sinh đối với bộ môn Thể dục đã chuyển biến rõ rệt. Các em yêu

thích môn thể dục và luôn mong đến giờ để được tập luyện, nhiều học sinh nhút
nhát nay đã mạnh dạn hơn, một số em có sức khỏe yếu và không thích môn học
đến nay các em cũng rất hào hứng mỗi khi đến giờ. Còn bản thân tôi thấy thật
nhẹ nhàng thoải mái mỗi khi lên lớp. Tôi biết các em luôn mong muốn đến giờ
Thể dục để được vận động và vui chơi “học để chơi, chơi để học”.
Căn cứ vào những kết quả học tập khả quan và tích cực tôi đã khảo sát lại
thành tích học tập của các em đối với môn học thể dục vào giữa học kỳ II. Kết
quả đạt được cụ thể như sau:
Bảng 2: Kết quả khảo sát thành tích của học sinh khối 4 Trường Tiểu học
Nga Nhân đối với bộ môn Thể dục vào giữa học kỳ II năm học 2016 -2017 (gồm
50 em, 25 em lớp 4A, 25 em lớp 4B; số lượng nam - nữ hai lớp là bằng nhau)
Kết quả thu được
Lớp 4A nhóm đối chứng
Lớp 4B nhóm thực nghiệm
HS hoàn
HS hoàn
HS Chưa
HS hoàn
HS hoàn
HS Chưa
thành tốt
thành
hoàn thành
thành tốt
thành
hoàn thành
SL Tỷ
SL
Tỷ
SL

Tỷ
SL
Tỷ
SL
Tỷ SL Tỷ lệ
lệ %
lệ %
lệ %
lệ %
lệ %
%
5
20
17
68
3
12
12
48
13
52
0
0
Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát:
- Đối với lớp 4A (nhóm đối chứng) thì tôi thấy: tỉ lệ học sinh hoàn thành
tốt và hoàn thành môn học có tăng lên nhưng không đáng kể. Đầu năm: hoàn
thành tốt 4/25 em, hoàn thành 16/25 em, chưa hoàn thành 5/25 em đến giữa học
kỳ 2: hoàn thành tốt 5/25 em, hoàn thành 17/25 em, chưa hoàn thành 3/25 em.



Như vậy: sự yêu thích của học sinh đối với bộ môn Thể dục ở đầu năm
học so với giữa học kỳ 2 chênh lệch không đáng kể, tỷ lệ học sinh chưa hoàn
thành nôi dung môn học tuy được cải thiện nhưng chưa cao, vẫn còn 3/25 em
chiếm 12% chưa hoàn thành nội dung trò chơi vận động.
- Đối với lớp 4B (nhóm thực nghiệm) sau khi được áp dụng các biện pháp
thì sự yêu thích môn thể dục của học sinh đã được nâng lên một cách rõ rệt (đầu
năm: hoàn thành tốt 4/25em, hoàn thành 16/25 em, chưa hoàn thành 5/25 em
đến giữa học kỳ II là: hoàn thành tốt 12/25 em, hoàn thành 13/25 em, không còn
học sinh nào chưa hoàn thành môn học. Điều này thể hiện học sinh lớp 4B
(nhóm thực nghiệm) rất yêu thích môn thể dục nói chung và phần trò chơi vận
động nói riêng.
Tôi tin rằng, với những biện pháp trên trò chơi vận động, kết hợp thi đấu
được sử dụng trong giờ học, cộng với sự động viên khích lệ kịp thời của giáo
viên thì tỷ lệ học sinh yêu thích môn học sẽ được cải thiệt từ năm nay cho đến
những năm tiếp theo.
3. Kết luận và đề xuất
3.1. Kết luận:
Từ thực tế nghiên cứu và ứng dụng tôi rút ra:
- Trò chơi vận động góp phần trong việc nâng cao lòng say mê, sự ham
thích học tập, khích lệ học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập
trong môn Thể dục ở trường.
- Giáo viên luôn luôn phải có tâm huyết với nghề, chịu khó đầu tư, tìm tòi
sáng tạo, chuẩn bị tốt các khâu từ đồ dùng cho đến thiết kế nội dung trò chơi sao
cho phù hợp với mục tiêu của bài học.
- Giáo viên luôn không ngừng rèn luyện mình trên mọi lĩnh vực như:
khiếu nói, khiếu dẫn chương trình, giải quyết vấn đề, xử lý kịp thời các tình
huống, đôi khi mang chút hài hước và sự tế nhị trong bài học.
- Giáo viên biết tiếp thu “cái mới” dựa trên cơ sở thừa kế “cái cũ”, từ đó
xây dựng thành một kỹ năng, thói quen cho bản thân mình.
- Trong quá trình giảng dạy hai nhóm đối chứng (lớp 4A) và nhóm thực

nghiệm (lớp 4B), tôi thấy hiệu quả của nhóm thực nghiệm tăng lên rõ rệt và đạt
hiệu quả cao so với nhóm đối chứng. Cụ thể: Đầu năm học hai lớp 4A và 4B
(nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm) có tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt (4/16
em) và hoàn thành nội dung môn học (16/25 em) là bằng nhau. Nhưng đến giữa
học kì II thì học sinh hoàn thành tốt và hoàn thành ở nhóm đối chứng và nhóm
thực nghiệm là khác nhau (hoàn thành tốt: nhóm đối chứng đạt 5/25 em chiếm
20% nhóm thực nghiệm đạt 12/25 em chiếm 48%; hoàn thành: nhóm đối chứng
đạt 17/25 em chiếm 68% nhóm thực nghiệm đạt 13/25 em chiếm 52%. Học sinh
chưa hoàn thành nội dung môn học ở nhóm đối chứng còn 12% ở nhóm thực


nghiệm không còn em nào chưa hoàn thành nội dung môn học. Điều này nói lên,
đa số các em ở lớp 4B không còn dấu hiệu chán nản học thể dục. Ngược lại, các
em giờ đây còn rất mong nhanh đến tiết thể dục để được học và vui chơi, các em
rất hứng thú đối với môn học. Phương pháp và biện pháp mà tôi vận dụng cho
nhóm thực nghiệm ta thấy, các nội dung và hình thức tập luyện phong phú, phù
hợp với từng tiết học cũng như khả năng phát huy các tố chất vận động của học
sinh và tạo cho các em sự hứng thú trong tập luyện. Ngoài ra, với phương pháp
này còn kích thích sự vận động tích cực cho học sinh thể hiện bằng các bài tập
trò chơi đặc trưng đó là điều kiện cần thiết và không thể thay thế đối với sự phát
triển hài hòa về thể chất, tâm lý và sức khỏe cho học sinh. Thông qua nôi dung
trò chơi còn giúp tôi tìm được học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng đội tuyển.
Với đề tài này rất dễ vận dụng, bởi vì rất gần gũi và trong tầm tay của
mình. Nó rất thực tế nên đề tài này có thể nhân rộng ở các trường tiểu học trong
huyện và nếu có điều kiện sẽ được nhân rộng hơn.
Từ những kết quả trên, theo tôi các phương pháp trò chơi phải được thay
đổi một cách đa dạng, phong phú.
3.2. Đề xuất:
a, Đối với Sở giáo dục:
Sở giáo dục nhân rộng những sáng kiến có chất lượng, nhất là những sáng

kiến trong tỉnh về đến huyện, đến trường để các đồng nghiệp được học tập, học
hỏi và ứng dụng.
b, Đối với Phòng giáo dục:
Mỗi năm, Phòng giáo dục tổ chức các lớp chuyên đề, các buổi tập huấn
chỉ đạo cho giáo viên cách tiến hành một công trình khoa học. Đồng thời, cho
chúng tôi được tham khảo, học tập một số sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng
nhằm giúp giáo viên cách tiến hành một công trình khoa học. Mặt khác, cho
chúng tôi được tham khảo, học tập một số sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng
nhằm giúp giáo viên học hỏi, ứng dụng, đổi mới được những phương pháp, kỹ
thuật dạy học.
c, Đối với ban giám hiệu:
Ban giám hiệu cần trang bị kịp thời và bổ sung trang thiết bị và cơ sở vật
chất để đảm bảo cho nội dung môn học.
c, Đối với giáo viên chuyên ngành:
Giáo viên cùng học sinh tự làm thêm đồ dùng thiết thực để phục vụ cho
tiết học, làm tiết học thêm sinh động.
d, Đối với học sinh:
Học sinh cùng giáo viên tự làm thêm đồ dùng thiết thực phục vụ cho tiết
học.


Học sinh cần có trang phục, giầy dép phù hợp để tham gia môn Thể dục,
nhất là nội dung “trò chơi vận động” được thoải mái.
Trên đây là một vài suy nghĩ nhỏ của tôi về việc: “giúp học sinh tham gia
chơi tốt và có hứng thú” khi học thể dục. Qua những giải pháp trên mong góp
một phần nhỏ để các đồng nghiệp cùng tham khảo. Do khả năng và điều kiện có
hạn, chắc chắn không khỏi sự thiếu sót mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý
kiến của hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để đề tài của tôi ngày một hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Nhân, ngày 15 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
Người thực hiện

Hoàng Thị Nga


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, “sách giáo viên thể dục lớp 4”, Nhà xuất bản
Giáo dục.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2007), “Phương pháp dạy học thể dục và trò
chơi vận động cho học sinh tiểu học”. Nhà xuất bản Đại học sư phạmNhà xuất bản giáo duc.
3. Đỗ Vĩnh (2007), “Giáo trình Lý thuyết và phương pháp nghiên cứu khoa
học thể dục thể thao”, Nhà xuất bản Thể dục thể thao .
4. Sách “Trò chơi thi đua ngoài trời”, Nhà xuất bản trẻ.
5. Bộ Giáo dục và đào tạo, Sách “150 trò chơi thiếu nhi”, Nhà xuất bản Giáo
dục.


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHỐI 4
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA NHÂN THAM GIA CHƠI TỐT
TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG TRONG MÔN THỂ DỤC

Người thực hiện: Hoàng Thị Nga
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga nhân
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Thể dục

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
a. Phương pháp quan sát.
b. Phương pháp dùng lời nói.
c. Phương pháp thị phạm.
d. Phương pháp dạy học đặc trưng bộ môn.
e. Cách sử dụng đồ dùng dạy học.
f. Phương pháp thực nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cở sở lí luận
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.3. Biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề

2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận và đề xuất
3.1. Kết luận
3.2. Đề xuất

Trang
1
2
2
2
2

3
3
4
8
13
14
14
15


PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Một số hình ảnh minh họa các trò chơi.
Trò chơi: Lăn bóng bằng tay

Trò chơi: Dẫn bóng



Phụ lục 2:
Hình ảnh: Trò chơi “mèo đuổi chuột”

Hình ảnh: Trò chơi “bịt mắt bắt dê”


Phụ lục 3: Hình ảnh giáo viên làm mẫu một số trò chơi.
Hình ảnh: Trò chơi “lăn bóng bằng tay”

Hình ảnh: Trò chơi “Dẫn bóng ”


Phụ lục 4: Việc sử dụng đồ dùng dạy học
Hình ảnh: Trò chơi “chạy nhanh theo số”

Hình ảnh: Trò chơi “ném bóng trúng đích”


Hình ảnh: Trò chơi “lăn bóng bằng tay”


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

PHỤ LỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHỐI 4
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA NHÂN THAM GIA CHƠI TỐT
TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG TRONG MÔN THỂ DỤC


Người thực hiện: Hoàng Thị Nga
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga nhân
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Thể dục


×