Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chỉ đạo giáo viên giúp học sinh lớp 4 thực hiện tốt các phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.67 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CHỈ ĐẠO GIÁO VIÊN GIÚP HỌC SINH LỚP 4 THỰC
HIỆN TỐT CÁC PHÉP TÍNH CỘNG, TRỪ, NHÂN, CHIA
SỐ TỰ NHIÊN
Người thực hiện: Lê Thị Ngọc Lan
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường TH Hoằng Đồng
SKKN thuộc môn: Toán

THANH HÓA NĂM 2017

MỤC LỤC
STT
1 MỤC LỤC

NỘI DUNG

TRANG
2
1


2
3
4
5


6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Đối tượng nghiên cứu
1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng chung
2.2. Thực trạng về biện pháp rèn học sinh thực hiện đúng 4
phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên.
2.3. Các giải pháp
2.3.1. Nghiên cứu nội dung chương trình

2.3.2. Tổ chức lớp học
2.3.3. Tổ chức hoạt động Câu lạc bộ
2.3.4. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp
dạy học.
2.3.5. Nắm chắc đối tượng cần bồi dưỡng, kèm cặp hướng
dẫn
2.3.6. Kết quả
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại
Phụ lục

3
3
4
4
4
5
5
5
6
6
6
7
8
9
9
11

12
13
15
16

1 - MỞ ĐẦU
1.1.

Lí do chọn đề tài:
2


Như chúng ta đã biết mỗi môn học ở bậc Tiểu học đều góp phần rèn luyện
cho học sinh những đức tính cần thiết, quan trọng của con người Việt Nam. Nếu
như môn Tiếng Việt rèn cho học sinh 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và
giao tiếp thì môn Toán cũng có vị trí hết sức quan trọng bởi vì nó rèn cho học
sinh kĩ năng tính toán, suy nghĩ độc lập và khả năng giải quyết vấn đề nảy sinh
trong học tập và cuộc sống, nhờ đó mà hình thành và phát triển cho học sinh các
phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động mới.
Ở bậc Tiểu học năng lực tư duy và trình độ của học sinh ở từng lớp luôn
có sự khác nhau. Ở lớp 1,2,3 các em chỉ mới nhận thức được các sự vật hiện
tượng bằng tư duy trực quan hình ảnh. Nhưng từ lớp 4, 5 các em đã bắt đầu phát
triển tư duy trừu tượng. Muốn nhận thức được một sự vật hiện tượng thì các em
phải biết đánh giá, nhận xét và nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó. Môn Toán ở
Tiểu học là môn học thường nảy sinh ra nhiều tình huống có vấn đề nhiều nhất.
Các em muốn giải quyết được tình huống đó thì yêu cầu các em phải có một
năng lực tư duy nhất định. Thông thường trình độ của các em phát triển không
đồng đều dù các em học chung một lớp, một giáo viên giảng dạy, có em nắm
bắt kiến thức và vận dụng tính toán rất nhanh nhưng cũng có nhiều em vận dụng
chậm chậm thậm chí không biết vận dụng gây mất thời gian, khó khăn cho giáo

viên trong quá trình dạy học.
Trong những năm qua có không ít thầy cô giáo nỗ lực giảng dạy và luôn
tìm kiếm những biện pháp hữu hiệu nhằm giúp học sinh có kĩ năng thực hiện 4
phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên. Mặc dù học sinh được quan tâm đúng
mức nhưng vẫn còn nhiều học sinh chưa biết cách tính và chưa thành thạo trong
việc làm tính, điều đó cho thấy việc hướng dẫn học sinh tính toán và hướng dẫn
cách làm toán đạt hiệu quả chưa cao.
Qua dự giờ thăm lớp nhiều năm đối với các khối lớp, đặc biệt đối với học
sinh khối 4 trường Tiểu học Hoằng Đồng mà tôi đang công tác, có nhiều em tiếp
thu tốt nhưng cũng có một số em chưa hoàn thành về kiến thức kỹ năng môn
Toán. Nhiều em tỏ ra không yêu thích khi học Toán, việc truyền đạt kiến thức
cho các em trong những tiết Toán đã trở nên khó khăn. Đứng trước thực trạng
nêu trên một vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để học sinh yêu thích học Toán?
Làm thế nào để chất lượng dạy học môn Toán ở khối 4 được nâng lên? Làm
thế nào để các em tích cực học tập tốt môn Toán và nâng cao được chất lượng
kiến thức kỹ năng để nhiều học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt môn Toán, hạn
chế tối đa học sinh chưa hoàn thành?
Qua việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa học tốt môn Toán từ
đó bản thân tôi có những kinh nghiệm thích hợp nhằm nâng cao chất lượng học
toán của học sinh trong nhà trường nói chung và trong khối 4 nói riêng. Tôi đã
3


nghiên cứu và xin chia sẻ “Kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên giúp học sinh lớp 4
thực hiện tốt các phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Vấn đề tôi nghiên cứu mong muốn mang lại cho học sinh khối 4 có được
giờ học Toán nhẹ nhàng mà đạt chất lượng cao, nhiều học sinh hoàn thành và
hoàn thành tốt yêu cầu của môn Toán, hạn chế tối đa học sinh chưa hoàn thành.
1.3. Đối tượng nghiên cứu :

Học sinh khối 4 trường Tiểu học Hoằng Đồng, huyện Hoằng Hóa: 56 học
sinh.
Tập trung nghiên cứu chương số tự nhiên môn Toán lớp 4 với 4 phép tính
cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp tìm hiểu tư liệu.
*Những tài liệu tham khảo phục vụ đề tài :
+ Thực hành phương pháp dạy học toán ở Tiểu học - Nhà xuất bản
Đà Nẵng. (Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Tam - Chủ biên.)
+ Sách giáo viên - Sách giáo khoa Toán 4 - Nhà xuất bản Giáo dục
(Tác giả Đỗ Đình Hoan - Chủ biên).
+ Tài liệu: “ Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng các môn
học ở Tiểu học Lớp 4” - Nhà xuất bản Giáo dục.
1.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
+ Dự giờ.
+ Đàm thoại.
+ Phương pháp điều tra và khảo sát thực tế.
+ Kiểm tra.
1.4.3. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
Tổng hợp, thống kê các lần khảo sát chất lượng học sinh.
1.4.4. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu công văn số 1751/SGD&ĐT-GDTH ngày 05/09/2016 của Sở
GD&ĐT Thanh Hóa, công văn số 268/GD&ĐT-TH ngày 15/09/2016 của Phòng
GD&ĐT Hoằng Hóa,

2 . NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
4



- Căn cứ vào các công văn hướng dẫn nhiệm vụ năm học của Sở GD&ĐT
Thanh Hóa, Phòng GD&ĐT Hoằng Hóa.
- Theo chuẩn kiến thức kỹ năng lớp 4: “Học xong môn Toán 4 nói chung
nhất là học xong số tự nhiên và 4 phép tính với số tự nhiên, học sinh phải đạt
được các yêu cầu cơ bản sau:
- Nhận biết được dãy số tự nhiên. Biết đọc, viết so sánh và sắp xếp thứ tự
các số tự nhiên. Biết sắp xếp một nhóm các số tự nhiên theo thứ tự từ bé đến lớn
hoặc ngược lại.
- Biết cộng, trừ các số tự nhiên có nhiều chữ số.
- Biết thực hiện phép nhân số tự nhiên với số tự nhiên có đến ba chữ số
(Tích không quá sáu chữ số).
- Biết thực hiện phép chia số tự nhiên.
- Biết tìm một thành phần chưa biết của phép tính khi biết kết quả tính và
thành phần còn lại.
- Biết tính giá trị biểu thức có đến ba dấu phép tính.
- Biết vận dụng tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng và phép nhân,
tính chất nhân một tổng với một số để tính giá trị biểu thức bằng cách thuận tiện
nhất”. ( Theo tài liệu Chuẩn kiến thức kỹ năng)
Trong quá trình giảng dạy trên lớp, làm thế nào để học sinh nắm được khái
niệm về số tự nhiên, vì số tự nhiên là một loại số không mới với hình thức ghi
tiện lợi của nó, học sinh nắm vững và thực hiện tương đối thành thạo các phép
tính đối với số tự nhiên và dùng chúng để biểu diễn số là điều không mấy dễ
dàng.
- Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp dạy trên lớp, tiếp xúc thường
xuyên với các em, giúp các em nắm được kiến thức cần thiết và cũng là người
chịu trách nhiệm về kết quả học tập của các em. Vì thế, tôi đã chỉ đạo giáo viên
chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm phải tìm hiểu kĩ, nắm vững từng đối tượng học
sinh của lớp mình để có biện pháp dẫn dắt, giúp đỡ đối với từng em cụ thể. Dựa
trên cơ sở hiểu biết sẵn của các em, giáo viên đưa ra các tình huống thúc đẩy
từng em học tập và trao dồi kiến thức, tạo điều kiện cho các em thực hành luyện

tập thường xuyên, để các em có thói quen tính đúng, cẩn thận, chính xác.
2.2. Cơ sở thực tiễn:
2.2.1. Thực trạng chung:
Khối 4 trường TH Hoằng Đồng có 56 học sinh .
Đa số các em là con gia đình nông dân, trong đó có 6 em thuộc con gia
đình hộ nghèo, 8 em thuộc gia đình hộ cận nghèo, 10 em bố mẹ đi làm ăn xa
ở nhà với ông bà nội (ngoại). Phần lớn các em được sự quan tâm giúp đỡ của
gia đình nhưng do hạn chế về kiến thức, mạch kiến thức lớp 4 còn mới mẻ
với các em. Một số học sinh chưa được sự quan tâm của gia đình và chưa có
5


tinh thần tự học, tư duy chậm nên gặp khó khăn trong vấn đề học Toán, điều
đó tạo nên sự khó khăn nhất định cho giáo viên. Qua gần 3 tháng nghỉ hè,
kiến thức học được từ lớp 3 đã bị quên đi nhiều.
Khảo sát chất lượng môn Toán khối 4 tháng 9/2016 với 56 học sinh:
Thời điểm
khảo sát
Tháng 9/2016

Hoàn thành tốt
SL
Tỉ lệ
3
5,3%

Hoàn thành
SL
Tỉ lệ
42

75%

Chưa hoàn thành
SL
Tỉ lệ
11
19,7%

2.2.2. Thực trạng về biện pháp rèn học sinh thực hiện đúng 4 phép
tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên trong những năm qua:
* Thuận lợi:
Phần lớn học sinh đã biết đọc và viết được số tự nhiên, có biểu tượng
chính xác về khái niệm số tự nhiên, bước đầu nắm được hàng, lớp của một số tự
nhiên. Học sinh nắm được lý thuyết và cách vận dụng lý thuyết vào bài tập thực
hành; biết được cách thực hiện phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên.
* Khó khăn:
- Học sinh chưa nắm chắc cách thực hiện phép tính. Thường là những em
không tập trung, uể oải và ít khi làm bài tập đầy đủ.
- Thuộc lý thuyết nhưng không biết áp dụng vào thực hành.
- Tính toán sai, nhầm lẫn.
- Còn một bộ phận học sinh tính toán chậm, tính sai và ngán ngẩm khi gặp
những bài toán liên quan đến phép chia số tự nhiên.
- Còn một bộ phận học sinh trong lớp chưa thuộc bảng cửu chương hoặc
thuộc máy móc theo kiểu nhớ bảng nhân không nhớ bảng chia, thuộc cả bảng
nhưng khi áp dụng phép chia cụ thể thì không ước lượng được thương.
* Nguyên nhân:
- Do học sinh chưa có ý thức tự học, chưa biết cách tự học.
- Do thiếu cẩn thận trong tính toán.
- Do không thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia ở các lớp dưới (lớp 1 - 3 ).
- Do có sự nhầm lẫn giữa bài cũ với bài mới, bài này với bài khác.

- Với phép nhân, học sinh chưa thành thạo nhân với số có chữ số 0; hoặc
nhân nhưng quên không nhớ đặt các tích riêng, quên không cộng có nhớ…
- Với phép chia số tự nhiên học sinh chưa thành thạo có sự nhầm lẫn ở
lượt chia thứ hai nếu bắt chữ số của số bị chia không chia được thì phải thêm 0
vào thương.
2.3. Các giải pháp thực hiện:
2.3.1. Nghiên cứu nội dung chương trình:
6


Hết bậc tiểu học, việc học sinh nắm vững kiến thức và kĩ năng để thực
hiện 4 phép tính nói chung và 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên nói
riêng là vô cùng quan trọng, nó giúp cho các em có nền tảng vững chắc để học
tiếp lên bậc Trung học và ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Tôi chỉ đạo để giáo
viên nắm vững nội dung kiến thức cần đạt:
* Phép cộng, trừ các số tự nhiên.
- Biết đặt tính và thực hiện phép cộng, phép trừ các số có đến sáu chữ số,
không nhớ hoặc có nhớ không quá ba lượt và không liên tiếp.
Ví dụ: Đặt tính rồi tính: 367589 + 541708; 647253 - 285749.
- Bước đầu biết sử dụng tính chất giao hoán và tính chất kết hợp của phép
cộng các số tự nhiên trong thực hành tính.
Ví dụ: Tính bằng cách thuận tiện nhất:
921 + 898 + 3079.
- Biết cộng, trừ nhẩm các số tròn chục, tròn trăm, tròn nghìn (dạng đơn
giản).
Ví dụ: Tính nhẩm: 2000 + 3500
* Phép nhân các số tự nhiên.
- Biết đặt tính và thực hiện phép nhân các số có nhiều chữ số với các số có
không quá ba chữ số (Tích không quá sáu chữ số).
Ví dụ: Đặt tính rồi tính: 435 x 253; 563 x 308.

- Bước đầu biết sử dụng tính chất giao hoán, tính chất kết hợp của phép
nhân và tính chất nhân một tổng với một số trong thực hành tính.
Ví dụ: Tính bằng cách thuận tiện nhất:
a) 37 x 25 x 4;
b) 215 x86 + 215 x 14.
- Biết nhân nhẩm với 10, 100, 1000, nhân nhẩm số có hai chữ số với 11.
Ví dụ: 256 x 10; 25 x11; 96 x11.
* Phép chia các số tự nhiên.
- Biết đặt tính và thực hiện phép chia số có nhiều chữ số cho số không
quá ba chữ số (thương có không quá ba chữ số).
Ví dụ: Đặt tính rồi tính: 13498 : 32;
28512 : 216.
- Biết chia nhẩm cho 10, 100, 1000.
Ví dụ: 200200 : 100
- Bước đầu biết vận dụng dấu hiệu chia hết cho 2;3;5;9 trong một số tình
huống đơn giản.
Hiểu rõ tầm quan trọng đó, tôi luôn nỗ lực chỉ đạo giáo viên giảng dạy với
mong muốn các em thành thạo trong tính toán, giúp các em có niềm tin khi đến
lớp học tập nói chung và học môn Toán nói riêng.
7


Kế thừa những biện pháp mà trong những năm trước đây (khi còn là giáo
viên đứng lớp) tôi đã sử dụng để rèn cho các em về kiến thức và kĩ năng của
môn Toán. Bên cạnh đó, qua thực tế giảng dạy ngững năm gần đây, để định
hướng đúng cho giáo viên trong quá trình rèn cho học sinh tính nhanh, cẩn thận
mà chính xác, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc các em làm toán chưa
đạt kết quả như mong muốn. Bản thân tôi đã nêu một số nguyên nhân và biện
pháp khắc phục như sau:
2.3.2. Tổ chức lớp học

Tôi chỉ đạo giáo viên sau khi nhận lớp cần củng cố nề nếp học tập cho các
em. Sau một tháng đầu tiên, phân chia lớp thành bốn nhóm học tập, bầu ra bốn
nhóm trưởng có trình độ có học lực tốt nhất để kiểm tra việc thực hiện các bài
tập thực hành rèn “bốn phép tính cơ bản”. Trước mắt là kiểm tra bảng cửu
chương, kỹ năng cộng trừ có nhớ, sau đó là các bài tập vận dụng. Các bài tập đưa
ra theo quy luật từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cộng, trừ, nhân, chia
số tự nhiên. Các em có một số buổi 15 phút đầu giờ để thực hiện và một số buổi
hoạt động câu lạc bộ.
2.3.3. Tổ chức hoạt động Câu lạc bộ: “Trí tuệ tuổi thơ”
Thực hiện công văn số 1751/SGD&ĐT-GDTH ngày 05/09/2016 của Sở
GD&ĐT Thanh Hóa: “Khuyến khích tổ chức các câu lạc bộ học sinh trong
trường học và tổ chức giao lưu các câu lạc bộ học sinh.” ( trang 11).
Nhà trường đã thành lập câu lạc bộ: “Trí tuệ tuổi thơ” gồm các Câu lạc bộ
như: “Em yêu Toán học”, “Em yêu Tiếng Việt”, “Giao tiếp Tiếng Anh”, “Kỹ
năng sống”.
Với hoạt động Câu lạc bộ: “Em yêu Toán học” là một hoạt động dạy Toán
phong phú, đa dạng các hình thức tổ chức: trắc nghiệm, trò chơi, giao lưu,... Cơ
sở tâm lí và sinh lí khẳng định hoạt động dạy học Toán dưới dạng trò chơi, giao
lưu là rất phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Thực tế cũng cho thấy hình thức tổ chức
trò chơi, giao lưu dễ được học sinh hưởng ứng và tích cực tham gia. Ngay từ khi
họp Ban đại diện phụ huynh đầu năm, tôi đã phổ biến để phụ huynh rõ mục đích
yêu cầu, tác dụng thiết thực của mô hình câu lạc bộ. Triển khai cụ thể cùng với
giáo viên để giáo viên cùng chi hội trưởng triển khai trong cuộc họp phụ huynh
của từng lớp. Tuyên truyền để phụ huynh hiểu: Lợi ích của các câu lạc bộ: vừa
cho học sinh có thể vui vẻ học tập, vui chơi trong môi trường mà chúng
yêu thích, vừa giúp chúng tự tin vào bản thân, hòa đồng với bạn bè.
Không chỉ thế, những hoạt động ngoại khóa như thế này chắc chắn tốt hơn rất
nhiều so với việc học sinh lãng phí thời gian của mình ở những nơi khác như
tiệm internet, rong chơi… Phụ huynh yên tâm hơn khi con em mình tham gia các
CLB của trường học bởi ở đó chúng được an toàn, và vui chơi lành mạnh, kích

thích tính chủ động, là nơi chắp cánh cho những tài năng trong tương lai.
8


Sau đó cho học sinh và phụ huynh đăng ký các câu lạc bộ yêu thích. Hầu
như 100 % học sinh và phụ huynh đăng ký tham gia câu lạc bộ: “Em yêu Toán
học”.
Trong mỗi tiết học, trò chơi toán học thường được đưa vào cuối tiết học
nhằm củng cố kiến thức và luyện tập kĩ năng cho học sinh. Học sinh sử dụng thẻ
trắc nghiệm (hoặc bảng con) giúp giáo viên kiểm tra nhanh những em còn hạn
chế,... Khi được tham gia trò chơi, các em sẽ hứng thú và tích cực trong học tập,
giờ học sẽ trở nên sinh động và đạt kết quả cao. Trò chơi còn giúp các em rèn
luyện kĩ năng tính toán chính xác, tư duy linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn.
Ngoài ra tôi chỉ đạo giáo viên cho các em tham gia giao lưu chung 1-2 tiết/ tuần
vào buổi học câu lạc bộ Toán.
Về phía nhà trường, tôi chỉ đạo Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn
cùng giáo viên thiết lập ngân hàng đề. Mỗi năm tổ chức giao lưu Câu lạc bộ 3
lần/ khối. Khi tổ chức giao lưu, Ban chủ nhiệm câu lạc bộ thường căn cứ vào nội
dung kiến thức bài dạy, trình độ học sinh của lớp và điều kiện hiện có để tổ chức.
Giao lưu Câu lạc bộ: “Trí tuệ tuổi thơ” gồm các kiến thức, lĩnh vực chung như
Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh, Tự nhiên xã hội, Kỹ năng sống,... được thể hiện
như một trò chơi, một hình thức kiểm tra kiến thức, kỹ năng làm bài nhanh nhạy.
Khác với hình thức: “rung chuông vàng”, tất cả học sinh đều được tham gia giao
lưu tất cả các câu hỏi (trong đó có 6-7 câu môn Toán). Em nào đạt số điểm cao
nhất sẽ đạt giải Nhất. Nếu nhiều em đạt điểm cao Nhất thì sẽ có câu hỏi phụ. Sau
mỗi lần giao lưu có công bố giải: Nhất, Nhì, Ba, Khuyến khích, phần thưởng cho
tất cả học sinh tham gia. Các em rất thích hình thức tổ chức giao lưu câu lạc bộ
như thế này. Các em không cảm thấy nhàm chán, đơn điệu vì nếu không hiểu
biết ở lĩnh vực này thì lại được thử sức ở lĩnh vực khác. (Phụ lục 1- Kết quả
giao lưu Câu lạc bộ” “Trí tuệ tuổi thơ” khối 4).

Từ những hoạt động trên giúp các em thay đổi không khí lớp học, kích
thích học sinh tính nhẩm nhanh và chính xác để trả lời, ghi kết quả vào bảng con.
Những học sinh trả lời sai nhiều lần đã cố gắng về nhà học lại bảng cộng, trừ,
nhân, chia cho thuộc để hôm sau giao lưu trả lời đúng. Trong khi đó học sinh có
kiến thức kỹ năng tốt hơn sẽ có những câu hỏi mang tính tư duy sáng tạo, giành
được giải cao.
2.3.4. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học
Phối hợp với chuyên môn chỉ đạo giáo viên trong giờ học cần tránh nói
nhiều và làm việc thay học sinh. Nhất là lúc chữa bài tập, cần để học sinh tham
gia tự đánh giá kết quả học tập của bạn và của bản thân. Trong giờ dạy giáo viên
cần sử dụng nhiều phương pháp một cách hợp lí và có hiệu quả. Giáo viên nêu
vấn đề cho học sinh cùng suy nghĩ, giải quyết. Sử dụng nhiều hình thức chia
nhóm khác nhau phù hợp với từng tiết dạy, từng bài tập.
9


Ví dụ: Chia nhóm đủ trình độ để học sinh hoàn thành tốt giúp đỡ học sinh
còn hạn chế, chưa hoàn thành về kiến thức kỹ năng. Ra bài tập theo 4 mức độ,
mức độ 3,4 đòi hỏi sự tư duy sáng tạo dành cho nhóm học sinh hoàn thành tốt, và
bài tập có mức độ 1,2 cho nhóm học sinh còn lại. Giáo viên theo dõi giúp đỡ học
sinh chưa hoàn thành và hoàn thành chậm.
2.3.5. Nắm chắc đối tượng cần bồi dưỡng, kèm cặp hướng dẫn
Qua việc nghiệm thu của cuối năm học trước, Hiệu trưởng chỉ đạo việc bàn
giao đầu năm những đối tượng còn hoàn thành chậm, học sinh hoàn thành tốt về
môn học. Trên cơ sở khảo sát nắm chắc các đối tượng, từ đó bồi dưỡng cho
những em có năng khiếu về môn Toán, kèm cặp cho những em kiến thức bị
hổng, hay quên đặc biệt là rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản.
Riêng các em hoàn thành còn hạn chế tôi chỉ đạo giáo viên thường xuyên
kiểm tra bảng cửu chương và khả năng vận dụng của các em nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các em học tốt chương trình toán lớp Bốn. Vì nếu học sinh

mất kiến thức căn bản thì các em rất khó tiếp tục thành công trong công việc học
toán. Để rèn luyện cho học sinh làm tốt bốn phép tính cơ bản đầu tiên cần rèn
cho học sinh kĩ năng tính nhẩm. Để giải được bất kì dạng toán nào đạt kết quả thì
các em phải có kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản. Do đó cần dành nhiều
thời gian cho việc rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản (cộng, trừ, nhân,
chia số tự nhiên). Ban giám hiệu cũng lên kế hoạch 2-3 buổi/ tuần kèm cặp cho
các em chưa hoàn thành môn Toán, Tiếng Việt ở các khối. Bản thân tôi (Hiệu
trưởng) phụ trách môn Toán, phó hiệu trưởng phụ trách môn Tiếng Việt. Sau mỗi
tuần chúng tôi tổng hợp chung kết quả, nắm bắt các đối tượng học sinh chưa
hoàn thành. Vì vậy khi Đoàn thanh tra đột xuất của Phòng GD&ĐT về kiểm tra
chất lượng học sinh, tên học sinh, lớp, môn chưa hoàn thành trùng khớp với kết
quả của Đoàn kiểm tra.
Giáo dục học sinh tính cẩn thận. Việc rèn tính cẩn thận trong tính toán là
rất cần thiết. Để khắc phục những sai lầm này đòi hỏi giáo viên ngay từ lớp 1
trong khi dạy phải hết sức tỉ mỉ, hướng dẫn cho học sinh cách đặt tính, đặt
dấu bằng, đến quy trình tính phải cẩn thận thì mới tập được cho các em kĩ năng
tính toán thành thạo, chính xác. Những chi tiết dù rất nhỏ nhưng nếu giáo viên
chú ý sửa sai thường xuyên, uốn nắn kịp thời thì dần dần trở thành thói quen, tạo
ý thức tốt cho các em tính toán. Khi tính toán phải thực hiện phép tính từ phải
sang trái, nhắc nhở nhiều lần sẽ giúp học sinh hình thành khả năng tính toán.
Giáo viên có thể luyện cho học sinh bằng nhiều cách: lúc đầu đặt tính cho học
sinh tính, sau đó cho phép tính rồi học sinh tự đặt tính và tính, cuối cùng cho các
em nhiều phép tính đã đặt có kết quả nhưng trong đó có bài đúng, bài sai, yêu
cầu học sinh điền đúng sai vào ô trống sau mỗi phép tính. Sau đó học sinh chỉ ra
nguyên nhân sai và tìm cách sửa lại cho đúng (đối với mỗi phép tính sai).
10


Trong lúc học sinh làm bài giáo viên quan sát và nhắc nhở, giúp đỡ những
em còn lúng túng, những em thường hay làm bài sai. Kiểm tra lại bài trước khi

nộp cho giáo viên chấm điểm.
Tự chữa những bài đã làm sai thành bài đúng (giáo viên kiểm tra lại).
Lấy ví dụ thực tế trong cuộc sống.
Tổ chức trò chơi thi đua làm toán nhanh, làm toán chính xác.
Sau một thời gian học sinh làm khá hơn, nhân nhẩm, trừ nhẩm tốt hơn thì
giáo viên cần động viên các em làm theo cách thông thường.
Song song với việc ra nhiều bài tập dạng trên tôi chỉ đạo giáo viên thường
xuyên ra những bài trắc nghiệm, cho các em xác định đúng, sai. Nếu sai thì phải
giải thích, chỉ ra nguyên nhân sai và nêu cách sửa. khi các em đã làm được điều
này nghĩa là các em không mắc sai lầm nữa.
Để khắc sâu kiến thức cần cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần. Bên cạnh
đó, trong quá trình giảng dạy, cung cấp kiến thức, nếu liên quan đến kiến thức cũ
hoặc công thức quy tắc cần 5 phút đến 10 phút để củng cố ôn tập. Yêu cầu khi
dạy giáo viên chú ý đưa ra câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh lớp mình làm
sao cho tất cả các em được yêu cầu cơ bản của bài học. Trong từng tiết học, cần
chấm bài để kiểm tra trình độ học sinh, phát hiện những sai lầm của các em để
kịp thời uốn nắn sửa chữa, nhận xét cụ thể và yêu cầu các em sửa sai.
Không bắt học sinh phải thuộc lòng bảng cộng, trừ một cách máy móc mà
giúp các em nhớ bằng cách ra nhiều bài toán để các em làm thường xuyên trong
các giờ học chính khóa hoặc tự học, từ đó các em sẽ nhớ và áp dụng vào bài
học thành thạo.
* Một số vấn đề chú ý khi dạy học các phép tính với số tự nhiên:
Dạy học phép cộng, trừ các số tự nhiên có thể tiến hành theo các bước sau:
- Đặt sao cho các hàng thẳng cột với nhau.
- Thực hiện cộng ,trừ từ phải sang trái.
Dạy phép nhân số tự nhiên:
Ta có thể chia ra tuần tự các trường hợp sau:
- Nhân số tự nhiên.với số tự nhiên có một, hai, ba chữ số .
- Nhân một số với 10, 100, 1000…
Từ đó hình thành thuật toán.

Dạy học phép chia số tự nhiên:
Ta có thể chia ra tuần tự các trường hợp sau:
- Chia một số cho số có một , hai, ba chữ số .
- Chia một số cho 10, 100, 1000…
- Thương có chữ số 0.
Khi thực hiện phép chia nên cho học sinh thử lại bằng phép nhân, vừa có ý
nghĩa kiểm tra, vừa có ý nghĩa phép chia là phép tính ngược của phép tính nhân.
11


2.3.6. Kết quả:
Trong quá trình thực hiện đã có sự chuyển biến rõ rệt chất lượng học tập
của các em được nâng lên. Từ những học sinh chưa hoàn thành đã phấn đấu lên
hoàn thành, nhiều em đã phấn đấu lên hoàn thành tốt.
Cuối kỳ 2 năm học 2016 - 2017, thực hiện thông tư 22/2016 BGD&ĐT bổ
sung thông tư 30/ BGD&ĐT quy định đề kiểm tra chất lượng ở 4 mức độ. Bài
kiểm tra ở mức độ 4 nhằm rèn kỹ năng thực hiện 4 phép tính, kỹ năng tư duy cao
nhưng có 35/56 em = 62,5% học sinh hoàn thành tốt bài tập này.
Tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành giảm xuống, thể hiện qua các kỳ kiểm tra
chất lượng với tổng số 56 học sinh lớp 4:
Thời điểm
khảo sát
Giữa HK I
Cuối HK I
Giữa HK2
Cuối năm

Hoàn thành tốt
SL
Tỉ lệ

6
10,7%
12
21,4%
20
35,7%
35
62,5%

Hoàn thành
SL
Tỉ lệ
42
75%
38
67,9%
33
58,9%
21
37,5%

Chưa hoàn thành
SL
Tỉ lệ
8
14,3%
6
10,7%
3
5,4%

0

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận - Bài học kinh nghiệm:
Nhận thức được tầm quan trọng của Toán học, bản thân là nhà quản lý, tôi
luôn nỗ lực trong công tác chỉ đạo, giảng dạy, từng bước giúp học sinh có kiến
thức vững chắc hơn về môn Toán nói chung và từng bài học nói riêng. Chính vì
vậy việc giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học Hoằng Đồng học tốt môn Toán
(phần thực hiện 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên) là cả một quá trình
thực hiện lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao.
Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp để có thể tác động đến
từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân. Qua đó, các
em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn. Từ
những kinh nghiệm đúc kết nhiều năm sẽ giúp cho giáo viên và học sinh có được
một giờ dạy và học Toán trở nên nhẹ nhàng, hứng thú. Các em sẽ không còn tâm
lí căng thẳng, gò bó khi giải một bài tập toán. Việc học toán sẽ là niềm vui để
động viên các em học tốt các môn học khác. Để góp phần giúp học sinh học tốt 4
phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự nhiên giáo viên cần:
- Chuẩn bị kĩ bài dạy, xác định đúng trọng tâm bài.
- Trong từng tiết học cần khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh
đều hiểu và làm bài tập được ngay tại lớp.
- Đặc biệt chú trọng đến đối tượng học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ
năng.
12


- Đối với cộng, trừ số tự nhiên giáo viên cần nhấn mạnh cách đặt tính
(các số ở cùng hàng đặt thẳng cột với nhau)
- Phép nhân số tự nhiên giáo viên cần cho học sinh nắm vững cách thực
hiện phép tính và cách đặt các tích riêng.

- Riêng đối với phép chia số tự nhiên .Ở mỗi dạng bài giáo viên cần rèn
cho học sinh thành thạo cách chia qua nhiều bài tính cụ thể.
- Đối với mỗi phép tính giáo viên cần xác định đối tượng học sinh yếu
và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có biện pháp
giúp đỡ kịp thời để các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài sau.
- Phối hợp sự giúp đỡ từ gia đình, nhà trường.
- Động viên khen thưởng kịp thời để các em có sự ham thích học
Toán.
2. Hướng phổ biến áp dụng của đề tài:
Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm rèn cho học sinh lớp 4 - Trường
Tiểu học Hoằng Đồng học tốt môn Toán (phần thực hiện 4 phép tính cộng, trừ,
nhân, chia số tự nhiên), tôi thấy chất lượng tăng lên rõ rệt. Từ đó tôi thấy nội
dung đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh khối 4 nói chung.
Trong thời điểm hiện nay, khi chưa đủ tỉ lệ giáo viên để thực hiện dạy học
2 buổi /ngày thì hoạt động câu lạc bộ trong nhà trường là rất cần thiết. Nó giúp
phần đắc lực trong việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
3. Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài:
Những năm tiếp theo tôi sẽ nghiên cứu tiếp đề tài này, áp dụng vào quá
trình chỉ đạo giáo viên giảng dạy để giúp học sinh học tốt hơn nữa môn Toán.
Bên cạnh đó, tôi sẽ tích lũy nghiên cứu tiếp một số kinh nghiệm mới không
những giúp học sinh nắm chắc kiến thức mà còn thành thạo hơn khi thực hiện
các phép tính có liên quan đến số tự nhiên.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoàng Thị Yến

Hoằng Đồng, ngày 5 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Lê Thị Ngọc Lan

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thực hành phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học (Giáo trình dùng trong các
trường Đại học Đào tạo và Giáo viên Tiểu học.(Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào TamChủ biên) - Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 tập I – Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Sách giáo viên - Sách giáo khoa - Toán 4 (Đỗ Đình Hoan - Chủ biên) - Nhà
xuất bản Giáo dục.
4. Đổi mới dạy học môn toán lớp 4 - Nhà xuất bản Giáo dục. (Tác giả Hoàng
Mai Lê - Nguyễn Đình Khuê).
5. Chuẩn kiến thức kỹ năng ở tiểu học Lớp 4 - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2014.
5. Tài liệu về hoạt động của Câu lạc bộ.
6. Công văn số 1751/SGD&ĐT-GDTH ngày 05/09/2016 của Sở GD&ĐT Thanh
Hóa, công văn số 268/GD&ĐT-TH ngày 15/09/2016 của Phòng GD&ĐT Hoằng
Hóa về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2016 - 2017 cấp Tiểu học.

14


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Ngọc Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường TH Hoằng Đồng, huyện

Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

TT

1
2

3
4
5
6
7
8
9
10
11

Tên đề tài SKKN
Kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh
giỏi giải toán hình tam giác.
“Một số biện pháp rèn luyện kỹ
năng thực hành các phép tính về
phân số cho học sinh lớp 5”.
Một số kinh nghiệm hướng dẫn học
sinh tóm tắt bài toán có lời văn cho
học sinh lớp 3.
Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học

Phòng GD&ĐT
Sở GD&ĐT


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
A
C

Phòng GD&ĐT

A

Phòng GD&ĐT

A

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Phòng GD&ĐT

sinh lớp 4,5.
Một số biện pháp giúp học sinh lớp Phòng GD&ĐT
5 mở rộng vốn từ.
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng học sinh giỏi trong nhà
Phòng GD&ĐT

trường.
Một số biện pháp tiến hành kiểm
Phòng GD&ĐT
Sở GD&ĐT
tra nội bộ trường Tiểu học.
Chỉ đạo lựa chọn các dạng bài tập
Phòng GD&ĐT
về cảm thụ văn học để bồi dưỡng
Sở GD&ĐT
học sinh giỏi môn Tiếng Việt.
Một số phương pháp giúp học sinh Phòng GD&ĐT
Sở GD&ĐT
lớp 5 tự đặt đề Toán.
Kinh nghiệm chỉ đạo dạy học sinh
lớp 4 giải bài toán "Tìm hai số khi
Phòng GD&ĐT
biết hiệu và tỉ số của hai số đó bằng
sơ đồ đoạn thẳng”.
Kinh nghiệm xây dựng trường
Phòng GD&ĐT
chuẩn Quốc gia mức độ II theo

A
A
A

Năm học
đánh giá
xếp loại
1995-1996

1998-1999

2000-2001
2001-2002
2002-2003
2004-2005

A
B

2005-2006

A
B

2008-2009

A
B

2011-2012

A

2012-2013

A

2013-2014


15


thông tư 59.
12
13

Kinh nghiệm quản lý chỉ đạo nâng
cao chất lượng giáo dục năng lực,
phẩm chất cho học sinh Tiểu học.
“Một số biện pháp rèn luyện kỹ
năng thực hành các phép tính về
phân số cho học sinh lớp 5”.

Sở GD&ĐT
Phòng GD&ĐT

C
A

2014-2015

A
Phòng GD&ĐT

2015-2016

16



NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP HUYỆN

17



×