PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI LỘC
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRỊNH THỊ LIỀN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI : KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP
5 THỰC HIỆN TỐT BỐN PHÉP TÍNH CỘNG, TRỪ,
NHÂN, CHIA SỐ THẬP PHÂN
Giáo viên : Nguyễn Thị Hòa
1
1. TÊN ĐỀ TÀI :
KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 5 THỰC HIỆN TỐT
BỐN PHÉP TÍNH CỘNG, TRỪ, NHÂN, CHIA SỐ THẬP PHÂN
2. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Nếu như môn Tiếng Việt rèn cho học sinh 4 kĩ năng : nghe, nói, đọc, viết để học
tập và giao tiếp thì môn Toán cũng có vị trí hết sức quan trọng bởi vì nó rèn cho học
sinh kĩ năng tính toán, suy nghĩ độc lập và khả năng giải quyết vấn đề nảy sinh trong
học tập và cuộc sống, nhờ đó mà hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm
chất cần thiết và quan trọng của người lao động mới.
Ở cấp Tiểu học năng lực tư duy và trình độ của học sinh ở từng lớp luôn có sự
khác nhau. Từ lớp 4, 5 các em đã bắt đầu phát triển tư duy trừu tượng. Muốn nhận
thức được một sự vật hiện tượng thì các em phải biết đánh giá, nhận xét và nghiên
cứu sự vật, hiện tượng đó. Môn Toán ở Tiểu học là môn học thường nảy sinh ra
nhiều tình huống có vấn đề nhiều nhất. Các em muốn giải quyết được tình huống
đó thì bắt buộc các em phải có một năng lực tư duy nhất định. Nhưng thông thường
trình độ của các em phát triển không đồng đều, dù các em học chung một lớp, một
giáo viên giảng dạy, có em nắm bắt kiến thức và xử lí rất nhanh nhưng cũng có
nhiều em xử lí rất chậm làm cho giáo viên rất khó khăn trong khi giảng dạy.
Rất nhiều thầy cô giáo trong những năm qua, nổ lực giảng dạy và luôn tìm kiếm
những biện pháp hữu hiệu nhằm giúp học sinh có kĩ năng thực hiện 4 phép tính
cộng, trừ, nhân, chia số thập phân. Mặc dù học sinh được quan tâm đúng mức nhưng
vẫn còn nhiều học sinh chưa biết cách tính và chưa thành thạo trong việc làm tính,
điều đó cho thấy việc hướng dẫn học sinh tính toán và hướng dẫn cách làm toán đạt
hiệu quả chưa cao. Nhưng với đề tài “Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt
4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân” sẽ giúp học sinh khắc phục những
hạn chế vừa nêu và giúp các em biết cách tính toán và tính toán một cách chính xác.
Đứng trước thực trạng nêu trên, một vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để học sinh
yêu thích học Toán ? Làm thế nào để chất lượng học Toán ở lớp 5A được nâng
lên ? Với đề tài “Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt các phép tính với
số thập phân” sẽ làm cho các em tích cực học tập tốt môn Toán và nâng cao được
chất lượng của lớp.
Đề tài “Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt các phép tính cộng, trừ,
nhân, chia số thập phân” mong muốn mang lại cho học sinh lớp 5A có được giờ học
Toán nhẹ nhàng mà đạt chất lượng cao. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học
sinh chưa học tốt môn Toán từ đó bản thân tôi có những kinh nghiệm thích hợp
nhằm nâng cao chất lượng học toán của học sinh trong nhà trường nói chung và
trong lớp 5A nói riêng.
3. CƠ SỞ LÍ LUẬN :
- Học xong Toán 5 nói chung, nhất là học xong phần số thập phân và 4 phép tính
với số thập phân, học sinh phải đạt được các yêu cầu cơ bản sau :
2
- Nhận biết được số thập phân. Biết số thập phân có phần nguyên và phần thập
phân. Biết đọc, viết so sánh số thập phân. Biết sắp xếp một nhóm các số thập phân
theo thứ tự từ bé đến lớn hoặc ngược lại.
- Biết cộng, trừ các số thập phân có đến 3 chữ số ở phần thập phân, có nhớ
không quá hai lượt.
- Biết thực hiện phép nhân có tích là số tự nhiên, số thập phân có không quá ba
chữ số ở phần thập phân.
- Biết thực hiện phép chia, thương là số thập phân hoặc số tự nhiên có không quá
3 chữ số ở phần thập phân.
(Chuẩn kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở lớp 5. Sách giáo khoa Toán 5 Nhà
xuất bản Giáo dục)
- Số thập phân và số tự nhiên chỉ khác nhau ở cách đọc và cách ghi số nhưng
chúng vẫn có điểm chung là giúp học sinh nắm được cấu tạo, cách đọc và ghi số.
Chỉ cần học sinh nắm được cách thực hiện 4 phép tính với số tự nhiên thì việc giúp
học sinh nắm được 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân một cách khá dễ
dàng. Trong quá trình giảng dạy trên lớp, làm thế nào để học sinh nắm được khái
niệm về số thập phân, vì số thập phân là một loại số mới với hình thức ghi tiện lợi
của nó, học sinh nắm vững và thực hiện tương đối thành thạo các phép tính đối với
số thập phân và dùng chúng để biểu diễn số đo đó là điều không mấy dễ dàng. Giáo
viên chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm phải tìm hiểu kĩ, nắm vững từng đối tượng học
sinh của lớp mình để có biện pháp dẫn dắt, giúp đỡ đối với từng em cụ thể. Dựa trên
cơ sở hiểu biết sẵn của các em, giáo viên đưa ra các tình huống thúc đẩy từng em
học tập và trao dồi kiến thức, tạo điều kiện cho các em thực hành luyện tập thường
xuyên, để các em có thói quen tính đúng, cẩn thận, chính xác.
4. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
4.1 Vài nét về lớp :
Lớp 5A có 30 học sinh/ 14 nữ.
Đa số các em là con gia đình nông dân, có 6 học sinh thuộc hộ nghèo.
Phần lớn các em được sự quan tâm giúp đỡ của gia đình nhưng do kiến thức và
chưa có sự hiểu biết sâu về chuyên môn cũng như phương pháp giảng dạy nên việc
hướng dẫn và giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập còn hạn chế. Một vài học
sinh chưa được sự quan tâm của gia đình và chưa có tinh thần tự học nên gặp khó
khăn trong vấn đề học Toán, điều đó tạo nên sự khó khăn nhất định cho giáo viên.
4.2 Thực trạng về biện pháp rèn học sinh thực hiện đúng 4 phép tính cộng
,trừ, nhân ,chia số thập phân trong những năm qua :
- Trong những năm qua, nhiều giáo viên đã có những biện pháp nhằm giúp học
sinh có kĩ năng thực hiện 4 phép tính với số thập phân nhưng vẫn còn một số học
sinh chưa thành thạo trong khi làm bài, học sinh thường hay nhầm lẫn trong lúc tính
toán và đặt dấu phẩy, có em chưa nắm được cách chia số thập phân cho số tự nhiên,
số thập phân cho số thập phân, chia số tự nhiên cho số tự nhiên mà thương tìm được
là một số thập phân. Với hình thức thầy giảng trò nghe, trò học thuộc lý thuyết áp
dụng vào làm bài tập và thời lượng lý thuyết nhiều hơn thực hành dẫn đến nhiều học
3
sinh học thuộc lòng các quy tắc, công thức mà việc áp dụng vào làm bài tập còn
nhiều hạn chế.
4.3 Thuận lợi và khó khăn :
* Thuận lợi :
- Đa số học sinh đã biết đọc và viết được số thập phân,có biểu tượng chính xác về
khái niệm số thập phân, bước đầu nắm được cấu tạo của một số thập: gồm hai phần
phần nguyên và phần thập phân. Tất cả học sinh nắm được lý thuyết và cách vận
dụng lý thuyết vào bài tập thực hành ; biết được cách thực hiện phép tính cộng, trừ,
nhân, chia số thập phân.
* Khó khăn :
- Chưa thực hiện đúng phép tính. Thường là những em học chậm, không tập
trung, và ít khi làm bài tập đầy đủ.
- Thuộc lý thuyết nhưng không biết áp dụng vào thực hành .
- Tính toán sai .
- Còn một bộ phận học sinh tính toán chậm, tính sai và ngán ngẫm khi gặp những
bài toán liên quan đến phép chia số thập phân.
- Còn một bộ phận học sinh trong lớp chưa thuộc bảng cửu chương.
* Nguyên nhân :
- Do học sinh chưa có ý thức tự học, chưa biết cách tự học.
- Do thiếu cẩn thận trong tính toán.
- Do không thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia ở các lớp dưới (lớp 1 – 4 ).
5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU :
Việc học sinh nắm vững kiến thức và kĩ năng để thực hiện 4 phép tính nói chung
và 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân nói riêng là vô cùng quan trọng, nó
giúp cho các em có nền tảng vững chắc để học tiếp lên bậc Trung học và ứng dụng
vào thực tế cuộc sống. Kế thừa những biện pháp mà trong những năm qua tôi đã sử
dụng để rèn cho các em về kiến thức và kĩ năng của môn Toán. Bên cạnh đó, qua
thực tế giảng dạy, để định hướng đúng trong quá trình rèn cho học sinh tính nhanh,
cẩn thận mà chính xác, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc các em làm Toán
chưa đạt kết quả như mong muốn. Bản thân tôi có thể nêu một số nguyên nhân và
biện pháp khắc phục như sau :
5.1 Thiết lập tổ chức lớp học
Dựa trên kết quả khảo sát chất lượng đầu năm để phân loại trình độ học tập. Tôi
phân chia lớp thành năm nhóm học tập, bầu ra năm nhóm trưởng có trình độ có học
lực tốt nhất để kiểm tra việc thực hiện các bài tập thực hành rèn “ bốn phép tính cơ
bản” do mình ra đề. Các bài tập đưa ra theo quy luật từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp.
5.2 Tạo niềm tin trong môn học :
Thực tế cũng cho thấy hình thức tổ chức trò chơi dễ được học sinh hưởng ứng và
tích cực tham gia. Cho nên, tôi thường dành ra năm đến mười phút đầu buổi học
hoặc thời gian chuyển giữa các tiết để tổ chức trò chơi vì trò chơi toán học có thể
tưởng tượng như một hoạt động dạy học toán. Cơ sở tâm lí và sinh lí khẳng định
4
hoạt động dạy học toán dưới dạng trò chơi rất phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Và trò
chơi toán học thường được đưa vào cuối tiết học nhằm củng cố kiến thức và luyện
tập kĩ năng cho học sinh. Khi được tham gia trò chơi, các em sẽ hứng thú và tích cực
trong học tập, giờ học sẽ trở nên sinh động và đạt kết quả cao. Trò chơi còn giúp các
em rèn luyện kĩ năng tính toán chính xác, tư duy linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn.
Khi tổ chức trò chơi tôi thường căn cứ vào nội dung kiến thức bài dạy, trình độ
học sinh của lớp và điều kiện hiện có. Trò chơi được thể hiện như một hình thức thi
đua. Nếu như sử dụng trò chơi học tập đúng nội dung và mục đích đã nêu sẽ góp
phần dạy học theo định hướng hoạt động lấy học sinh làm trung tâm, làm cho giờ
học nhẹ nhàng mà còn đạt hiệu quả cao.
Giáo dục học sinh qua các gương hiếu học (các gương người xưa; bạn cùng lớp,
cùng trường, bạn nghèo vượt khó …) Tạo cho các em niềm tin khi đến lớp, đến
trường.
Từ những việc làm trên sẽ giúp các em thay đổi không khí lớp học, kích thích học
sinh tính nhẩm nhanh và chính xác để trả lời bạn. Những học sinh trả lời sai nhiều
lần đã cố gắng về nhà học lại bảng cộng, trừ, nhân, chia cho thuộc để hôm sau sẽ trả
lời đúng cho bạn. Trong khi đó học sinh có lực học khá hơn sẽ theo dõi và giúp đỡ
học sinh yếu.
5.3 Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học :
- Trong giờ học giáo viên cần tránh nói nhiều và làm việc thay học sinh. Nhất là
lúc chữa bài tập, cần để học sinh tham gia tự đánh giá kết quả học tập của bạn và
của bản thân.
- Trong giờ dạy giáo viên cần sử dụng nhiều phương pháp một cách hợp lí và có
hiệu quả.
- Giáo viên nêu vấn đề cho học sinh cùng suy nghĩ, giải quyết.
- Sử dụng nhiều hình thức chia nhóm khác nhau phù hợp với từng tiết dạy,
từng bài tập.
- Cho học sinh làm bài tập theo nhóm đối với bài tập có số lượng nhiều còn lại
những bài tập ít, học sinh hoạt động cá nhân. Giáo viên theo dõi giúp đỡ học sinh
yếu.
5.4 Bồi dưỡng, phụ đạo :
Bước đầu tìm hiểu kết quả học tập theo nhận xét của giáo viên chủ nhiệm lớp 4,
trên cơ sở khảo sát đầu năm, nắm chắc các đối tượng, từ đó bồi dưỡng những kiến
thức bị hổng, đứt quãng ở lớp dưới. Đặc biệt là rèn kĩ năng thực hiện bốn phép
tính cơ bản, thường xuyên kiểm tra bảng cửu chương và khả năng vận dụng của
các em nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tốt chương trình toán lớp năm.
5.5 Rèn tính cẩn thận trong tính toán :
Giáo viên trong khi dạy phải hết sức tỉ mỉ, hướng dẫn cho học sinh cách đặt
tính, đặt dấu bằng. Ở số thập phân phần nguyên thẳng cột phần nguyên, phần thập
phân thẳng cột phần thập phân, dấu phẩy thẳng cột dấu phẩy (cộng trừ số thập
phân), đến quy trình tính phải cẩn thận thì mới tập được cho các em kĩ năng tính
toán thành thạo, chính xác. Những chi tiết dù rất nhỏ nhưng nếu giáo viên chú ý sửa
5
sai thường xuyên, uốn nắn kịp thời thì dần dần trở thành thói quen, tạo ý thức tốt
cho các em tính toán. Khi tính toán phải thực hiện phép tính từ phải sang trái, dấu
phẩy hạ thẳng cột, nhắc nhở nhiều lần sẽ giúp học sinh hình thành khả năng tính
toán. Giáo viên có thể luyện cho học sinh bằng nhiều cách: lúc đầu giáo viên đặt
tính cho học sinh tính, sau đó giáo viên cho phép tính rồi học sinh tự đặt tính và
tính, cuối cùng cho các em nhiều phép tính đã đặt có kết quả nhưng trong đó có bài
đúng, bài sai, yêu cầu học sinh điền đúng sai vào ô trống sau mỗi phép tính. Sau đó
học sinh chỉ ra nguyên nhân sai và tìm cách sửa lại cho đúng.
Giáo dục học sinh tính cẩn thận. Trong lúc học sinh làm bài giáo viên quan sát và
nhắc nhở, giúp đỡ những em còn lúng túng, những em thường hay làm bài sai. Kiểm
tra lại bài trước khi nộp cho giáo viên chấm điểm.
Tự chữa những bài đã làm sai thành bài đúng.
Tổ chức trò chơi thi đua làm toán nhanh, làm toán chính xác.
5.6 Uốn nắn những sai sót, lệch lạc khi làm toán :
Sau một thời gian học sinh làm khá hơn, nhân nhẩm, trừ nhẩm tốt hơn thì tôi động
viên các em làm theo cách thông thường.
Song song với việc ra nhiều bài tập dạng trên tôi cũng ra những bài trắc nghiệm,
cho các em xác định đúng, sai. Nếu sai thì phải giải thích, chỉ ra nguyên nhân sai và
nêu cách sửa. khi các em đã làm được điều này nghĩa là các em không mắc sai lầm
nữa. Để khắc sâu kiến thức tôi cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần. Bên cạnh đó,
trong quá trình giảng dạy, cung cấp kiến thức, nếu liên quan đến kiến thức cũ hoặc
công thức quy tắc tôi đều dừng lại 5 phút đến 10 phút để củng cố ôn tập. Khi dạy tôi
cố gắng đưa ra câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh lớp mình làm sao cho tất cả
các em được yêu cầu cơ bản của bài học. Trong từng tiết học, tôi chịu khó chấm bài
để kiểm tra trình độ học sinh, phát hiện những sai lầm của các em để kịp thời uốn
nắn sửa chữa.
* Một số vấn đề chú ý khi dạy học các phép tính với số thập phân :
Phép chia số thập phân được chia làm nhiều trường hợp cho dễ học nhưng tất các
trường hợp đó đều thực hiện một định hướng chung là chuyển số chia từ số thập
phân thành số tự nhiên. Trường hợp gặp phép chia mà chia nhiều lần vẫn còn dư thì
chỉ yêu cầu học sinh dừng lại ở phần thập phân hai hoặc ba chữ số. Có thể cho học
sinh làm quen với khái niệm số gần đúng.
Khi thực hiện phép chia nên cho học sinh thử lại bằng phép nhân, vừa có ý nghĩa
kiểm tra, vừa có ý nghĩa phép chia là phép tính ngược của phép tính nhân.
6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :
- Trong quá trình thực hiện đã có sự chuyển biến rõ rệt chất lượng học tập của
các em được nâng lên. Từ những học sinh yếu kém đã phấn đấu lên trung bình,
nhiều em đã phấn đấu lên tiên tiến. Tỉ lệ học sinh yếu kém được giảm xuống, thể
hiện qua các lần kiểm tra định kì như sau :
Thời gian TSHS Trên TB Tỉ lệ Dưới TB Tỉ lệ
Đầu năm 30 23 76,7% 7 23,3
6
Giữa HK I 30 26 86,7% 4 13,3%
Cuối HK I 30 29 96,7% 1 3,3%
- Tuy nhiên vẫn còn một số mặt hạn chế : Lớp có sự phân chia rõ về tỉ lệ học
sinh khá, giỏi, trung bình, yếu nên vẫn còn khó khăn trong việc giảng dạy. Mặt dù
bản thân tôi đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa phát huy được vai trò của từng
em. Số học sinh trung bình vẫn còn chiếm tỉ lệ (20%) chưa như mong muốn. Bên
cạnh những em có cố gắng học tập vẫn còn một vài em có thái độ học tập chưa tốt.
Đó là điều mà tôi cần phải cố gắng hơn nữa.
7. KẾT LUẬN :
1. Bài học kinh nghiệm :
Việc giúp học sinh lớp 5 học tốt môn Toán (phần thực hiện 4 phép tính cộng, trừ,
nhân, chia số thập phân) là cả một quá trình thực hiện lâu dài, đòi hỏi người giáo
viên phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên
phải tìm ra những biện pháp thích hợp để có thể tác động đến từng đối tượng học
sinh để các em phát huy năng lực của bản thân mình. Qua đó, các em sẽ tự hình
thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn. Từ những kinh
nghiệm đúc kết nhiều năm sẽ giúp cho giáo viên và học sinh có được một giờ dạy
và học Toán trở nên nhẹ nhàng, hứng thú. Các em sẽ không còn tâm lí căng thẳng,
gò bó khi giải một bài tập toán. Việc học Toán sẽ là niềm vui để động viên các em
học tốt các môn học khác.
Để góp phần giúp học sinh học tốt 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân
giáo viên cần :
- Chuẩn bị kĩ bài dạy, xác định đúng trọng tâm bài.
- Trong từng tiết học cần khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu
và làm bài tập được ngay tại lớp.
- Đặc biệt chú trọng đến đối tượng học sinh yếu.
- Đối với cộng, trừ số thập phân giáo viên cần nhấn mạnh cách đặt tính và vị trí
đặt dấu phẩy (các số ở cùng hàng đặt thẳng cột với nhau ; dấu phẩy đặt thẳng cột với
dấu phẩy).
- Phép nhân số tự nhiên với số thập phân hay số thập phân với số thập phân giáo
viên cần khắc sâu cho học sinh biết cách đếm các chữ số của phần thập phân và
cách đặt dấu phẩy ở tích chung.
- Riêng đối với phép chia số thập phân thì có nhiều dạng : Ở mỗi dạng bài giáo
viên cần rèn cho học sinh thành thạo cách chia qua nhiều bài tính cụ thể.
- Đối với mỗi phép tính giáo viên cần xác định đối tượng học sinh yếu và
tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có biện pháp giúp đỡ
kịp thời để các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài sau.
- Phối hợp sự giúp đỡ từ gia đình, nhà trường.
- Động viên khen thưởng kịp thời để các em có sự ham thích học Toán.
8. Đề nghị :
7
Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm rèn cho học sinh lớp 5A học tốt môn Toán
(phần thực hiện 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia số thập phân), tôi thấy chất lượng
tăng lên rõ, chỉ còn một học sinh yếu. Từ đó tôi thấy nội dung đề tài này có thể áp
dụng cho tất cả học sinh khối 5 của trường Tiểu học Trịnh Thị Liền.
Người viết
Nguyễn Thị Hoà (A)
10. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thực hành phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học (Giáo trình dùng trong các
trường Đại học Đào tạo và Giáo viên Tiểu học (Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Tam -
Chủ biên).
2. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 tập I. Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Sách giáo viên - Sách giáo khoa - Toán 5 (Đỗ Đình Hoan - Chủ biên).
8
11. MỤC LỤC
Thứ tự Tiêu đề Trang
1. Tên đề tài 1
2. Đặt vấn đề 1
3. Cơ sở lí luận 1
4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 3
6. Kết quả nghiên cứu 6
9
7. Kết luận 6
8. Đề nghị 7
9. Tài liệu tham khảo 8
10. Mục lục 9
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học : 2011 – 2012
I. Đánh giá xếp loại của HĐKH
Trường
1. Tên đề tài
2. Họ và tên tác giả
3. Chức vụ Tổ
10
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài
a) Ưu điểm
b) Hạn chế
5. Đánh giá và xếp loại
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường thống nhất xếp
loại
Những người thẩm định Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
…………………………
…………………………
II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD&ĐT…………………………
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT……………
…………………thống nhất xếp loại……………….
Những người thẩm định Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
…………………………
…………………………
III. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam thống nhất xếp
loại……………………….
Những người thẩm định Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
…………………………
PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học : 2011- 2012
(Dành cho người tham gia đánh giá xếp loại SKKN)
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Trường (Phòng, Sở)………………………………….
- Đề tài
11
- Họ và tên tác giả
- Đơn vị
- Điểm cụ thể
Phần
Nhận xét của người
đánh giá xếp loại đề tài
Điểm tối
đa
Điểm đạt
được
1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề
1
3. Cơ sở lý luận 1
4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 9
6. Kết quả nghiên cứu 3
7. Kết luận 1
8. Đề nghị
9. Phụ lục
1
10. Tài liệu tham khảo
11. Mục lục
12. Phiếu đánh giá xếp loại
1
Thể thức văn bản, chính tả 1
Tổng cộng 20 đ
Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp
12