Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh chưa hoàn thành có hứng thú trong học toán 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.05 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT HOẰNG HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH
CHƯA HOÀN THÀNH CÓ HỨNG THÚ TRONG HỌC TOÁN
LỚP 4.

Người thực hiện: Lê Thị Lương
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường tiểu học và THCS Hoằng Đức
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

THANH HÓA NĂM 2017
0


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu


1
1
1
2
2

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Phân loại đối tượng học sinh, tìm biện pháp dạy học
thích hợp
3.2. Tăng cường hoạt động nhóm
3.3. Sử dụng đồ dùng dạy học để kích thích hứng thú cho
học sinh
3.4. Tổ chức trò chơi trong tiết học toán
4. Hiệu quả

2
2
2
4
4

11
12

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị


13
13
14

9
9

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
- Đất nước ta đang trên con đường đổi mới để sánh vai với các cường
quốc năm châu. Trong thế kỷ 21 Đảng ta đã vạch rõ nhân tố quyết định để đạt
mục tiêu chính là yếu tố con người. Chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục
được Đảng ta coi trọng và đặt lên hàng đầu. Đó là tạo ra những con người nhanh
nhạy, năng động, sáng tạo có đầy đủ kiến thức, năng lực có nhân cách Việt Nam
để đáp ứng với sự phát triển của xã hội.
- Như chúng ta đã biết trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán là công
cụ để học tốt các môn học khác. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán ở Tiểu
học có rất nhiều ứng dụng trong đời sống. Nó góp phần rất quan trọng trong việc
rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông
minh, các suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo: nó đóng góp vào việc hình
thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho con người như cần cù, cẩn thận,
có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp và tác phong khoa
học. Vì vậy môn Toán là một môn học không thể thiếu trong tất cả các cấp học.
- Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành hệ thống các
kiến thức cơ bản, có nhiều ứng dụng trong đời sống về các số tự nhiên, các số
thập phân, phân số, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học. Học sinh

biết cách đọc, viết, so sánh các số tự nhiên, phân số, số thập phân. Biết thực
hành tính nhẩm, tính viết về bốn phép tính với các số tự nhiên, số thập phân, số
đo đại lượng, các yếu tố hình học. Biết cách giải và trình bày bài giải với những
bài toán có lời văn.
- Trong thực tế của từng lớp, từng trường nói riêng, các trường nói chung
đều có một số em tiếp thu môn Toán rất nhanh và một số em chưa hứng thú với
môn Toán nên tiếp thu còn rất chậm. Những em hứng thú với môn Toán thì say
mê học tập. Những em không hứng thú thì lười học, sợ học và chán học. Toán
học với những con số, công thức khô khan khiến nhiều học sinh cảm thấy áp
lực. Nhất là đối với học sinh không hứng thú thì giờ học toán mới thật sự là
“ nỗi khiếp sợ”.
- Để nâng dần chất lượng học tập và hứng thú học tập toán cho học sinh
nói chung và đặc biệt cho học sinh tiếp thu chậm môn Toán nói riêng. Giúp các
em nắm được các kiến thức cơ bản về Toán 4 tạo điều kiện cho các em học tốt
môn Toán, nắm vững những kến thức cơ bản cần thiết để tiếp tục học Toán ở
lớp trên. Vì vậy tôi chọn: “ Một số kinh nghiệm giúp học sinh chưa hoàn
thành có hứng thú trong học Toán 4”.
2. Mục đích nghiên cứu:1
Nhằm giúp cho người dạy phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của người học, bồi dưỡng được năng lực tự học, tự rèn, lòng say mê
học tập và ý chí không ngừng vươn lên của học sinh.
Mọi học sinh được tham gia bài học, không khí học tập sôi nổi trong lớp,
từ đó giúp các em học tốt và yêu thích môn Toán hơn. Hiệu quả học tập của học
sinh cao, nhiều học sinh thể hiện được khả năng cá nhân và có tinh thần giúp đỡ
1

Trong trang này: Mục 1; mục 2 tác giả tự viết

2



lẫn nhau trong học tập. Do vậy mục đích của đề tài là tìm được một phương
pháp tối ưu nhất nhằm lấp đầy những chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao
hơn về mặt kĩ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát
huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng
thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn Toán, đáp ứng những yêu cầu
về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh chưa hoàn thành môn Toán khối lớp 4 trường Tiểu học và THCS
Hoằng Đức.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Để thực hiện đề tài cần áp dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu;
+ Phương pháp phân tích nguyên nhân. [2; 3]
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Căn cứ vào nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục, căn cứ vào thực trạng dạy và
học toán hiện nay, cần có hướng đổi mới phương pháp dạy toán ở Tiểu học là
tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, tập trung vào việc rèn luyện khả
năng tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề, nhằm hình thành ở học sinh tư
duy tích cực, độc lập, sáng tạo. Để đạt được điều đó, trong giảng dạy bộ môn
Toán, người thầy phải giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình
thành kĩ năng, kĩ xảo.
Học sinh chưa hoàn thành về môn Toán là những học sinh tiếp thu chậm
về kiến thức, đồng thời ý thức học tập của các em chưa cao, phương pháp học
tập chưa phù hợp dẫn đến chất lượng học tập của các em còn rất thấp. Vì thế hầu
hết những em này đều sợ học môn Toán. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện
kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức
và thời gian hơn so với những học sinh khác.

Để tạo hứng thú học toán cho học sinh đã khó, vì môn Toán được biết đến
là một môn học khô khan, rối rắm với những phép tính, lời giải, giả thiết... thì lại
càng khó khăn hơn với đối tượng là học sinh không hứng thú môn Toán. Dựa
trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học toán ở Tiểu học. Đặc
biệt là chuẩn Kiến thức kĩ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ học toán,
những kiến thức có trong bài học, tham khảo sách hướng dẫn và một số tài liệu
bồi dưỡng trong chương trình toán tiểu học. Bên cạnh đó còn có sự đúc kết kinh
nghiệm của bản thân qua thực tế phụ đạo và những tiết dạy thực tế trên lớp.
Xuất phát từ đó tôi đã tập trung tìm những biện pháp tốt nhất để giúp học sinh
có niềm đam mê với môn Toán, tạo hứng thú học tập, tự tìm hiểu, tự giải quyết
những vấn đề toán học được đặt ra trong chương trình toán 4.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.2
2.1. Chương trình sách giáo khoa.
2

Trong trang này: Mục 3; mục 1 tác giả tự viết. Mục 4 tác giả có sử dụng TLTK số 2; 3.

3


Trong chương trình môn Toán lớp 4, ở học kỳ I chủ yếu tập trung vào bổ
sung, hoàn thiện, tổng kết, hệ thống hóa, khái quát hóa về số tự nhiên và dãy số
tự nhiên, các phép tính và một số tính chất. Ở học kỳ II tập trung vào dạy phân
số, dấu hiệu chia hết và một số dạng về hình học, tỉ số...
Nội dung chương trình toán lớp 4 gồm 6 chương:
* Chương I: Số tự nhiên, bảng đơn vị đo khối lượng.
* Chương II: Bốn phép tính với các số tự nhiên. Hình học
* Chương III: Dấu hiệu chia hết cho 2,5,3,9. Giới thiệu hình bình hành
* Chương IV: Phân số - các phép tính với phân số. Giới thiệu hình thoi.
* ChươngV: Tỉ số - Một số bài toán liên quan đế tỉ số. Tỉ lệ bản đồ.

* Chương VI: Ôn tập.[1; 4]
2.2. Những thuận lợi và khó khăn.
2.2.1. Đối với giáo viên:
Trong năm học 2016 – 2017, 100 % giáo viên được tiếp thu chuyên đề về
phương pháp dạy học tích cực do nhà trường triển khai. Bên cạnh đấy giáo viên
thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng, giảng dạy theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh, đổi mới PPDH phù hợp với nội dung
chương trình toán. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy giáo viên chưa kích
thích, động viên đúng lúc sự tiến bộ của học sinh. Chưa tạo được không khí cởi
mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi. Nhiều giáo viên giải thích sự tiếp thu chậm
của học sinh bằng những thiếu sót của những phẩm chất ý chí và đạo đức ở trẻ,
bằng sự thiếu chuyên cần và chăm chỉ, từ đó đã muốn dùng các biện pháp trừng
phạt.
Ngoài ra một số giáo viên hiện nay vẫn đang sử dụng phương pháp rất
nghèo nàn và không hoàn thiện để giúp đỡ các em trên lớp, chưa chú trọng rèn
kỹ năng và thái độ học tập cho các em.
2. 2. 2. Đối với học sinh:3
Đầu năm học, qua tìm hiểu tôi phát hiện rất nhiều em còn tiếp thu bài quá
chậm, không nắm được kiến thức cơ bản, còn lơ là, chểnh mảng với môn Toán,
không hứng thú với việc học Toán. Việc học của các em nhằm đối phó với giáo
viên hoặc làm vừa lòng cha mẹ chứ không phải do bản thân nhận thức được.
- Học sinh khó khăn trong việc thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân,
chia hay giải các bài toán có lời văn.
- Việc vận dụng kiến thức đã học để giải các bài tập còn chậm.
- Một số học sinh học sinh vận dụng được kiến thức nhưng kỹ năng còn
chậm.
- Hoạt động tư duy kém, sử dụng ngôn ngữ toán học còn lúng túng, nhiều
chỗ lẫn lộn.
- Không hệ thống được lượng kiến thức đã học.
- Không vận dụng được kiến thức của bài trước với bài sau.

- Tính chậm, chủ yếu dựa vào trực quan hoặc lời gợi ý của giáo viên mới
tính được, hoặc nhớ bài một cách máy móc.
Với thực trạng như trên tại trường Tiểu học và THCS Hoằng Đức tôi đã
3

Trong trang này: Mục 2.1 tác giả có sử dụng TLTK số 1; 4. Mục 2.2 tác giả tự viết.

4


mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau:
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
3.1. Phân loại đối tượng học sinh, tìm biện pháp dạy học thích hợp.
3.1.1. Học sinh tiếp thu chậm môn Toán.
Tôi điều tra ngay từ đầu đối tượng tiếp thu chậm và phân loại xem các em
tiếp thu chậm loại toán điển hình nào để có phương pháp kèm cặp kịp thời. Với
em sợ toán giải các em không biết giải hay trả lời sai, làm tính không đúng. Tôi
luôn quan tâm động viên các em chăm học, tích cực làm bài để các em tự tin vào
khả năng của mình để suy nghĩ, phán đoán tìm cách giải đúng. Tôi thường
xuyên kiểm tra bài làm của học sinh trên lớp, chấm chữa tay đôi với học sinh để
củng cố kiến thức. Tuyên dương, khen thưởng kịp thời nếu các em cố gắng
(mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập xóa đi ấn tượng sợ giải
toán.
Giờ nào cũng kiểm tra, kiểm tra thường xuyên bằng nhiều hình thức khác
nhau: cá nhân, nhóm, hoặc tổ. Việc kiểm tra thường xuyên như vậy giáo viên dễ
phát hiện ra lỗ hổng, từ đó lấp lỗ hổng một cách kiên nhẫn. Ban đầu học sinh
cũng không hào hứng nhưng dần dần chúng thích thú khi thấy mình tự giải được
những bài tập mà trước đó các trò nhìn thấy đã sợ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Triệu và lớp triệu”
Bài 2 trang 15: Đọc các số sau:

7 312 836 ; 57 602 511 ; 351 600 307 ; 900 370 200 ; 400 070 192. [1; 4]
+ Tôi hướng dẫn các em tách các số trên thành từng lớp, từ lớp đơn vị đến
lớp nghìn, rồi đến lớp triệu, mỗi lớp có 3 hàng. Sau đó dựa vào cách đọc số có 3
chữ số thuộc từng lớp để đọc và đọc từ trái sang phải. [5; 6]
+ Tôi gọi những em tiếp thu chậm đọc trước, nếu lúng túng chỗ nào thì
gọi học sinh khá giúp đỡ, cuối cùng tôi mời học sinh tiếp thu nhanh hoàn thành
bài đọc, thế là tôi thu hoạch được điều mà tôi yêu cầu.
+ Tôi luôn động viên để các em không mặc cảm với bạn bè, lấy lại tinh
thần, an tâm học tập.
Tương tự với những bài khác cũng vậy. Đối với những kiến thức dễ,
những bài trong tầm tay của những học sinh còn chậm, tôi gọi những học sinh
tiếp thu chậm lên trả lời cũng như làm bài tập tạo độ “dạn” cho học sinh, làm
cho các em không còn sợ phải làm bài tập toán.
3.1.2 Đối với những học sinh hổng kiến thức.4
Kiến thức có nhiều “lỗ hổng” là một “bệnh” phổ biến của học sinh tiếp
thu chậm môn Toán. Trong quá trình dạy trên lớp, tôi phát hiện và phân loại
những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ hổng nào điển hình mà
trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết
trong nhóm học sinh tiếp thu chậm. Thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài
tập của học sinh, tôi cũng cần tập cho học sinh, nhất là học sinh tiếp thu chậm có
ý thức phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết cách tự lấp những lỗ
hổng đó.
Ví dụ : Bài : Nhân với số có 3 chữ số
4

Trong trang này: Mục 3.1 tác giả tự viết. Riêng Ví dụ tác giả có sử dụng TLTK số 1; 4; 5 và 6.

5



Ở bài này các em cần nắm vững các bảng nhân từ 2 đến 9. Tiếp theo nhân
từ phải sang trái. Tuy nhiên khi các em thực hiện nhiều khi các em không thuộc
bảng nhân nên dẫn đến kết quả sai, hoặc các em quên không nhớ làm kết quả
cũng không đúng. Tôi phát hiện ra là các em đã bị hổng kiến thức ở lớp 2,lớp 3
rất nhiều dạng.
Cụ thể như phép tính: 164 x 123 SGK trang 72. [4]
Khi nhân nhẩm ở hàng đơn vị và hàng chục, 3 x 4 = 12 viết 2 nhớ 1 sang
hàng chục thì các em thường quên không nhớ. Tiếp đó khi phép nhân có nhớ lần
thứ hai thì các em cũng thường hay quên hoặc nhớ một cách không đúng.
Vì vậy tôi nghĩ ra cách lấp chỗ hổng đó như sau: khi thực hiện phép nhân
nếu lần nhân nào có kết quả từ 10 trở lên thì phải nhớ sang hàng liền kề trước
đó. Được thực hành nhiều lần dần dần các em sẽ nhớ kĩ hơn, sau đó tôi cho các
em đọc đi đọc lại nhiều lần( 3 x 4 = 12 viết 2 nhớ 1) 3 x 6 = 18 thêm 1 bằng 19,
viết 9 nhớ 1). Tương tự như vậy với các lần nhân tiếp theo. [5; 6] Và khi sinh
hoạt 15 phút đầu giờ tôi hướng dẫn cho các em tổ chức trò chơi: Đố biết đó là số
nào? Nhóm học sinh tiếp thu nhanh nêu bất kì phép tính nào thuộc dạng nhân
với số có 2 chữ số trở lên. Nhóm học sinh tiếp thu chậm thì thi nhau nêu số cần
điền.
Trong các buổi học phụ đạo. Tôi ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến
nội dung bài học sẽ học trong tuần kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại
những kiến thức đã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học
sinh và nhiều bài tập cùng dạng.
Ví dụ: Trước khi học phần phép chia, tôi ôn cho học sinh phép chia cho
số có một chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước
lượng tìm thương của phép chia với số có 2,3 chữ số.
Do học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và chóng
quên. Các kiến thức cũ phải được giáo viên củng cố lại nhiều lần khi có liên
quan đến nội dung bài mới giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt,
biết sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học
sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 số

khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó; Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó; Tìm
2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó bằng cách: Cho xem 3 đề toán thuộc 3
dạng này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng.
Trong từng mạch kiến thức giáo viên cần chốt lại cách thực hiện bằng lời
nói đơn giản, dễ hiểu, “Nôm na” nhằm khắc sâu kiến thức. Nói rõ hơn đó là giúp
học sinh thấy rõ cách nhớ của từng đơn vị kiến thức. 5
Ví dụ: Khi học về phép nhân, chia. Tôi yêu cầu học sinh học thuộc lòng
bảng nhân, chia trong bảng. Vì ở lớp tôi một số em lên lớp 4 rồi mà bảng nhân
chia còn lơ mơ. Tôi đã tổ chức vào 15 phút truy bài đầu giờ, thường xuyên cho
lớp tự hỏi bài nhau (ngoài việc rèn chữ viết trong 15 phút đó) học sinh phải học
thuộc bảng nhân, chia; đọc xuôi, đọc ngược và trả lời nhanh khi tôi hỏi bất chợt,
rồi mới tiến hành học kĩ thuật tính toán. Cách làm này tôi nhận thấy học sinh lớp
tôi rất thích 15 phút truy bài đầu giờ, hầu hết các em đi học sớm để được truy bài
về bảng nhân, chia. Về kĩ thuật tính toán tôi tiến hành như sau:
5

Trong trang này: Tác giả có sử dụng TLTK số 4; 5 và 6.

6


Ví dụ: Trong phép nhân với số có hai chữ số
Tôi viết lên bảng 86 Í 53 = ?.( Bài tập 1 SGK trang 69) [1; 4]
Yêu cầu học sinh đặt tính và thực hiện phép tính. Sau đó gọi học sinh nêu
cách thực hiện phép tính của mình.
3 nhân 6 bằng 18 viết 8 nhớ 1
3 nhân 8 bằng 24, thêm 1 bằng 25 viết 25
86
5 nhân 6 bằng 30, viết 0 (dưới 5) nhớ 3
x

5 nhân 8 bằng 40, thêm 3 bằng 43 viết 43
35
Hạ 8
258
5 cộng 0 bằng 5, viết 5
430
2 cộng 3 bằng 5 viết 5
4558
Hạ 4
Vậy 86 Í 53 = 4558
[5; 6]
* Hay trong phép chia cho số có ba chữ số: 38685 : 195= ?
[1; 4]
- Chia theo thứ tự từ trái sang phải.
395 chia cho 194 được 2 viết 2
2 nhân 5 bằng 10, 15 trừ 10 bằng 5, nhớ 1
2 nhân 9 bằng 18 thêm 1 bằng 19, 19 trừ 19 bằng 0
39585 195
2 nhân 1 bằng 2 thêm 1 bằng 3, 3 trừ 3 bằng 0
00585
Hạ 8, 58 chia cho 195 được 0 viết 0
000 203
Hạ 5, 585 chia cho 195 được 3 viết 3
3 nhân 5 bằng 15, 15 trừ 15 bằng 0, nhớ 1
3 nhân 9 bằng 27 thêm 1 bằng 28, 28 trừ 28 bằng 0, nhớ 2
3 nhân 1 bằng 3, thêm 2 bằng 5, 5 trừ 5 bằng 0
Thử lại : 203 x 195 = 39585 [5; 6]
Đối với học sinh làm sai, khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia,
tôi giảng từ từ cặn kẽ để các em hiểu bài chứ không quát nạt hoặc nói những lời
để các em mặc cảm, đồng thời giúp các em thực hiện và nêu cách làm.

Đối với dạng toán tính biểu thức.
Ví dụ: Hãy tính giá trị biểu thức bằng hai cách6
(33164 + 28528) : 4
[4]
Cách 1
Cách 2
(33164 + 28528) : 4
(33164 + 28528) : 4
=
61692
:4
= 33164 : 4 + 28528 : 4
=
15423
=
8291 + 7132
=
15423
[5; 6]
Trong quá trình đặt tính và thực hiện phép tính bằng các câu hỏi dẫn dắt.
Tôi hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì quá trình tự
tìm tòi, khám phá sẽ rèn luyện cho các em tính chủ động, sáng tạo trong học
toán và các em sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức, trở thành kĩ năng tính toán, chính
xác, từ đó các em trở nên hứng thú khi học môn Toán.
Ví dụ về giải toán có lời văn: Bài tập 2 trang 47 (sách toán 4)
6

Trong trang này: Tác giả có sử dụng TLTK số 1; 4; 5 và 6.

7



“Một lớp có 28 học sinh. Số học sinh trai hơn số học sinh gái là 4 em. Hỏi lớp
đó có bao nhiêu học sinh trai, bao nhiêu học sinh gái?” [4]
Tôi yêu cầu 1 học sinh đọc đề bài, cả lớp đọc thầm, tự tìm hiểu bài toán,
dùng bút chì gạch chân những từ trọng tâm. Sau đó tôi hỏi bài toán thuộc dạng
gì? (Bài toán thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó).
Tôi yêu cầu 2 học sinh lên bảng tóm tắt và giải bài toán. Mỗi học sinh giải
một cách khác nhau. Cả lớp hoạt động theo nhóm 4 học sinh (nhóm theo trình
độ). Tôi sẽ quan tâm giúp đỡ cho nhóm học sinh hổng kiến thức, phân tích và
giải bài toán.
Tóm tắt
?em
Trai:
Gái:
? em
4 em
28 em

Bài giải
Cách 2
Số học sinh trai là
(28 + 4) : 2 = 16 (học sinh)
Số học sinh gái là
16 – 4 = 12 (học sinh)
Đáp số : 16 học sinh trai
12 học sinh gái.
[5 ; 6]

Cách1

Số học sinh gái là
(28 – 4) : 2 = 12 (học sinh)
Số học sinh trai là
12 + 4 = 16 ( học sinh )
Đáp số : 16 học sinh trai
12 học sinh gái

- Sau đó yêu cầu học sinh từng nhóm trình bày bài giải và giải thích cách
làm của nhóm mình. Cuối cùng tôi chốt bài giải trình bày gọn và rõ ràng nhất.
* Đối với dạng toán về hình học.
Ví dụ: bài tập 1 – ( Sgk trang 55)
Nêu các góc vuông, góc nhọn, góc tù, góc bẹt có trong hình sau. [4]7
A
B

D

C

-Yêu cầu một học sinh lên bảng làm bài và cả lớp hoạt động theo nhóm
trình độ. Để tránh mặc cảm tôi đặt tên mỗi nhóm một loài chim như: nhóm sơn
ca, nhóm họa mi…
Sau đó trình bày bài làm của mình. Gọi nhóm tiếp thu chậm trình bày
trước, nếu chưa nêu đủ gọi nhóm tiếp thu nhanh hoàn thành bài làm đúng:
Bài làm
7

Trong trang này: Tác giả có sử dụng TLTK số 4; 5 và 6.

8



- Có 3 góc vuông là :
+ Góc đỉnh A cạnh AB, AD
+ Góc đỉnh B cạnh BC, BD
+ Góc đỉnh D cạnh DC, DA
- Có 4 góc nhọn là :
+ Góc đỉnhB cạnh BA, BD
+ Góc đỉnh C cạnh CB, CD
+ Góc đỉnh D cạnh DB, DC
+ Góc đỉnh D cạnh DA, DB
- Có 1 góc tù là :
+ Góc đỉnh B cạnh BA, BC [5; 6]
* Ví dụ: Bài tập 3 ( sgk trang 65 )
Để lát nền một căn phòng, người ta đã sử dụng hết 200 viên gạch hình
vuông có cạnh 30 cm. Hỏi căn phòng đó có diện tích bao nhiêu mét vuông, biết
diện tích phần mạch vữa không đáng kể? [4]
- Tôi yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán để tìm lời giải.
- Yêu cầu hai học sinh ngồi cùng bàn trao đổi và tự làm bài.
- Gọi một học sinh lên bảng làm.
- Đối với học sinh yếu, tôi giúp các em nhớ lại kiến thức tính diện tích
hình vuông, từ đó các em tính diện tích một viên gạch, 200 viên gạch vuông, đổi
từ cm2 ra m2 theo yêu cầu đề bài. [5; 6]
- Sau đó yêu cầu học sinh lên bảng giải thích cách làm của mình.
- Cả lớp theo dõi nhận xét.
- Tôi chốt lại bài giải đúng.
Bài giải8
Diện tích của một viên gạch lát nền là:
30 x 30 = 900 (cm2)
Diện tích căn phòng bằng diện tích số viên gạch lát nền, vậy diện tích căn

phòng là:
900 x 200 = 180000 (cm2)
Đáp số: 18 m2
+ Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số
chia, thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, ta có thể cho học sinh
nắm cách nhận biết đơn giản nhất: Thực hiện tính trừ cho số trừ, thực hiện tính
chia cho từng số chia (Tìm các thành phần còn lại; tìm số bị trừ ; thực hiện cộng,
tính nhân khi tìm số bị chia…).
+ Đổi đơn vị: từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn: ta thực hiện tính nhân
(2kg =….g . Ta có: 2 x 1000 = 2000 g ) và ngược lại từ đơn vị nhỏ đổi ra đơn vị
lớn ta thực hiện tính chia (chẳng hạn: 36000 kg = …tấn, ta có: 36000: 1000 = 36
tấn.
3.2. Tăng cường hoạt động nhóm.
Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm , đặc biệt làm việc theo nhóm
để tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới là rất cần thiết. Khi hoạt động trong
8

Trong trang này: Tác giả có sử dụng TLTK số 4; 5 và 6.

9


nhóm, mỗi cá nhân có thể hiểu rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra,
thấy được những điều mình cần phải học hỏi thêm. Việc tiếp thu kiến thức trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ phía
giáo viên. Học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức nếu như chính mình tìm ra
kiến thức hoặc có góp phần cùng với các bạn tìm tòi , khám phá, xây dựng kiến
thức đó.
Trong quá trình học nhóm tôi tổ chức các nhóm học tập (nhóm nhỏ 2 em
hoặc nhóm nhỏ từ 4 đến 6 em) để các em có điều kiện trao đổi, tranh luận, phân

công phối hợp cùng nhau, giúp đỡ nhau … trong học tập, qua đó các em nắm
nội dung bài học dễ dàng hơn, nhằm giúp các em tích cực suy nghĩ , nắm kiến
thức thật sâu, đặc biệt là để các em cảm thấy môn Toán rất lí thú, phát triển
phẩm chất tư duy như óc phê phán, bình luận … Trên cơ sở đó học sinh say mê
học tập.
Ví dụ: Khi phụ đạo về phép chia ở 1,2 tiết đầu tôi cho các em làm việc
nhóm đôi, tôi quan sát thấy nhóm nào thực hiện chia tốt sẽ cho các em làm việc
cá nhân. Đôi lúc tổ chức cho các em thi đua thực hiện phép chia, đố vui về bảng
nhân bảng chia. Hay khi dạy về đơn vị đo thời gian giây tôi cho học sinh quan
sát sự chuyển động trên mặt đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây
đi từ một vạch nhỏ đến vạch nhỏ liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi
hết một vòng trên đồng hồ là 60 giây tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60
giây. [4]
3.3. Sử dụng đồ dùng dạy học để kích thích hứng thú cho học sinh.9
Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong dạy học nói chung và
dạy học toán nói riêng. Trong quá trình dạy, học sinh nhận thức nội dung bài học
dưới sự tổ chức dẫn dắt của giáo viên, có sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học. Đồ
dùng dạy học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tốt nhất các biểu tượng, các khái
niệm, quy tắc, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, nhận thức sâu hơn nội dung bài. Mặt
khác, khi sử dụng đồ dùng dạy học làm tăng hứng thú, nhận thức của học sinh…
Trong giảng dạy, đồ dùng dạy học tôi hay sử dụng nhiều nhất là: bộ đồ
dùng Toán, bảng phụ, tranh minh họa, phiếu bài tập…. Khi sử dụng đồ dùng dạy
học chúng ta cần lưu ý:
+ Đối với phiếu bài tập, nội dung chỉ để học sinh trả lời chứ không phải
trình bày bài dài dòng .
Ví dụ: Viết số thích hợp vào chỗ chấm. [4]
5 giờ
= ..... phút
3 giờ 15 phút = ..... phút
420 giây = ....


phút

5
giờ
6

= ...... phút

1 năm
= .... tháng
1 thế kỉ
= ..... năm
+ Đối với tranh minh họa, tôi lựa chọn tranh ảnh đẹp, có tác dụng giáo
dục thẩm mĩ phù hợp với nội dung bài dạy và điều quan trọng là lời giới thiệu và
khai thác tranh ở thời điểm thích hợp.
Ví dụ: Bài “Hình bình hành: (Sách Toán 4 trang 102) [1; 4; 5; 6]
9

Trong trang này: Mục 3.2 và mục 3.3 do tác giả tự viết. Riêng Ví dụ tác giả có sử dụng TLTK số 4.

10


Để kích thích hứng thú học sinh tự tìm hiểu và rút ra được các đặc điểm
của hình bình hành, tôi đưa ra cho học sinh quan sát một số hình sau: hình
vuông, hình chữ nhật, hình tứ giác (học sinh đã biết các hình này) và hình bình
hành (học sinh chưa biết).
Sau đó tôi hỏi: “Các em đã biết tên gọi những hình nào rồi?”, để từ đó
giới thiệu, đưa học sinh tới một vấn đề “Hình còn lại có những đặc điểm gì? Và

tên gọi là gì?”.
Tiếp theo tôi cho học sinh tìm ở bộ đồ dùng học toán của các em hình
màu xanh, giống như hình tôi gắn trên bảng.
Cho học sinh dùng ê-ke để đo chiều dài các cạnh của hình. Sau khi đo,
học sinh tự phát hiện được hình đó có hai cặp đối diện bằng nhau.
Tôi hướng dẫn học sinh nhận biết tiếp hình đó còn có hai cặp cạnh đối
diện song song với nhau.
Từ hai ý trên, tôi giới thiệu với học sinh: Tứ giác có hai cặp cạnh đối diện
song song và bằng nhau có tên gọi là hình bình hành.
Ví dụ 2: Bài “Diện tích hình bình hành” (Sách toán 4 trang 103) [4; 5]
Tôi dán mô hình hình bình hành lên bảng (mặt có kẻ đường cao ra ngoài)
- Cho học sinh chọn những chi tiết màu xanh ở bộ đồ dùng học toán của
các em để lên bàn.
- Cho học sinh thao tác ghép hình tứ giác và hình tam giác để được hình
chữ nhật.
- Khi học sinh đã ghép được hình chữ nhật thì các em tự tìm ra công tính
diện tích hình bình hành dựa vào mối liên hệ của hình chữ nhật với hình bình
hành.
Ví dụ 3: Bài “Phân số” (Sách toán 4 trang 106) [1; 4; 5; 6]10
- Cho học sinh lấy hình tròn ở bộ đồ dùng học toán của các em và đếm
xem hình tròn được chia mấy phần bằng nhau? Mấy phần bằng nhau được tô
màu?
- Giáo viên giới thiệu đã tô màu “năm phần sáu hình tròn”
5
Vậy gọi là phân số.
6
- Yêu cầu học sinh lấy hình tròn được chia thành 2 phần bằng nhau mà đã
tô màu 1 phần để nêu phân số chỉ phần tô màu.
- Yêu cầu học sinh lấy hình vuông đã được chia thành 4 phần bằng nhau
mà đã tô màu 3 phần để nêu phân số chỉ phần tô màu.

* Như vậy đồ dùng dạy học là yếu tố quan trọng góp phần phát huy tính
tích cực hứng thú trong học tập của học sinh.
3.4. Tổ chức trò chơi trong tiết học toán.11
Đối với học sinh tiểu học còn có một đặc điểm tâm lí nữa là nhanh nhớ
nhưng cũng rất nhanh quên. Có khi ngay tại lớp học các em nhớ hết bảng cộng,
bảng trừ, bảng nhân, bảng chia, các quy tắc, công thức... Nhưng vài ngày sau,
10

Trong trang này: Tác giả tự viết. Riêng Ví dụ tác giả có sử dụng TLTK số 1; 4; 5 và 6.

11

Trong trang này: Mục 3.4 tác giả tự viết. Riêng Ví dụ tác giả có sử dụng TLTK số 1; 4; 5 và 6.

11


kiểm tra lại các em đã quên gần hết (nếu như không ôn luyện thường xuyên). Vì
vậy tôi thường tổ chức các trò chơi trong tiết học giúp học sinh giảm căng
thẳng và thêm yêu thích môn Toán hơn. Tổ chức những trò chơi mang nội dung
toán học như đố vui, tính nhanh, xếp hình … được tiến hành trong củng cố bài
học, tiết luyện tập. Cũng với nội dung bài tập trong sách giáo khoa tôi chuyển
đổi thành trò chơi nên khi giải bài tập học sinh không cảm thấy căng thẳng, nặng
nề mà các em có dịp bày tỏ những suy nghĩ, những hiểu biết, niềm tin của mình
đối với những kiến thức đã lĩnh hội, giúp các em nâng cao nhận thức thái độ,
hành động trong quá trình học toán. Đặc biệt thông qua trò chơi, thật sự tạo ra
bầu không khí tâm lí học tập rất tích cực sáng tạo của các em, từng bước, t ừng
bước một như thế để đạt được kết quả như mong muốn.
Ví dụ : Dạy bài: Nhân với 10, 100,1000 …; Chia cho 10,100,1000…[4]
Sau khi hướng dẫn cho học sinh cách nhân, chia cho 10,100,1000…Ở bài

1: Phần luyện tập tôi cho học sinh chơi trò chơi : “Truyền điện” theo dãy. Một
học sinh ở dãy A đọc phép tính – gọi bạn dãy B nêu kết quả. Nếu đúng thì đọc 1
phép tính khác của bài rồi gọi bạn ở dãy A nêu kết quả. Cứ truyền điện như vậy
cho đến hết bài. [5 ; 6]
Các dạng toán khác có thể tổ chức vào phần củng cố bài học khi thời gian
còn khoảng 5 – 6 phút.
+ Hay khi dạy bài : Nhân số có hai chữ số với 11, cuối tiết học, tôi cũng
tổ chức trò chơi sau:
Tính nhẩm:
15 x 11
15 x 11
26 x 11
26 x 11
13 x 11
13 x 11
25 x 11
25 x 11
43 x 11
43 x 11
- Yêu cầu hai dãy, mỗi dãy cử 5 em lên thực hiện phép tính. Nếu đội nào
làm xong trước thì đội đó thắng.
- Cả lớp nhận xét, tuyên dương và tặng danh hiệu cho đội thắng cuộc.
Ví dụ Dạy bài: Tính chất giao hoán của phép cộng [1; 4; 5; 6]12
Trò chơi: Hiểu ý đồng đội,
- Mục đích: GV giúp học sinh biết tính chất giao hoán, kết hợp của phép
cộng, nhân. vận dụng linh hoạt các tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng
và phép nhân để tính toán.
- Chuẩn bị:
+ GV chuẩn bị cho 2 đội mỗi đội 1 rổ đựng 10 thẻ bằng giấy bìa cứng.
Trong đó mỗi thẻ đều có ghi giá trị của các cột a + b, b + a; (a + b) + c, a + ( b +

c); a x b, b x a; (a x b) x c, a x ( b x c) giống nhau.
+ Chia lớp ra thành hai đội mổi đội chọn ra 4 bạn số học sinh còn lại cổ vũ.
+ GV phát thẻ cho 2 đội.
- Cách chơi: Hai đội đứng xếp hàng sẵn sàng chơi theo kiểu “Tiếp
sức”.Giáo viên phổ biến luật chơi và nội dung chơi. Thời gian 5 phút. Khi giáo
12

12


viên hô trò chơi “Hiểu ý đồng đội” “Bắt đầu”và tính giờ thì lần lượt từng bạn
của hai đội bạn thứ nhất cầm tấm thẻ có giá trị (VD thẻ có giá trị là 125 + 52)
đính vào cột a + b trên bảng rồi chạy về vỗ vào tay bạn thứ hai tiếp tục cằm thẻ
có giá trị ( VD 25 + 125 ) chạy đính đúng vào cột b + a. Cứ thế tiếp tục cho đến
hết 2 vòng. Mỗi vòng 1 bạn chỉ được tính 1 thẻ. Nếu 1 vòng đính 2 thẻ là phạm
vi. Hoặc chạy về chưa vỗ vào tay bạn mà lấy thẻ chạy lên cũng phạm vi. Đội
nào xong trước đính đúng các giá trị của mỗi cột là thắng cuộc. Hoặc hết giờ mà
2 đội đính chưa xong các cột thì đội nào đính nhiều thẻ đúng hơn đội đó sẽ giành
phần thắng. Đội thua phải hát 1 bài thưởng cho đội thắng.
Trò chơi: Có thể áp dụng để dạy các bài: Tính chất kết hợp của phép cộng
(trang 45); Tính chất giao hoán của phép nhân (trang 58); Tính chất kết hợp của
phép nhân (trang 60); Luyện tập tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng,
nhân.
Hoặc có thể vận dụng để học sinh thực hiện các bài tập dạng: Nêu kết
quả tính và viết chữ số thích hợp vào chỗ trống; tính bằng cách thuận tiện nhất;
tìm hai biểu thức có giá trị bằng nhau.
Như vậy sau khi học sinh đã nỗ lực tự giải quyết các nhiệm vụ của bài
học, tôi chuyển sang một hình thức học tập mới (trò chơi) giúp các em chuyển
từ trạng thái “căng thẳng” sang một trạng thái “ hưng phấn” rất phù hợp với
đặc điểm sinh lí của các em.

4. Hiệu quả:
4.1. Kết quả học lực môn toán qua các đợt kiểm tra:13
- Qua quá trình áp dụng sáng kiến này trong năm học 2016- 2017, tôi đã
thu được một số kết quả sau :
Năm học: 2016 – 2017
Thời điểm
Tổng số HS
Học sinh chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
Đầu năm
Giữa kì I
Cuối kì I
Giữa kì II

31
31
31
31

6
3
1
0

19.4%
9.7%
3.2%
0%


4.2. Học sinh: Thời điểm giữa học kì I, lớp trầm và học sinh phát biểu ý
kiến, xây dựng bài còn ít, nhiều học sinh chưa thuộc bảng cửu chương, các quy
tắc, công thức tính chu vi, diện tích các hình.
Từ khi áp dụng các biện pháp trên cho đến nay. Từ lớp yếu trong trường
( qua kết quả khảo sát đầu năm) đến nay, các em đã học tập chủ động , tích cực
hơn. Trong nhóm các em đã trao đổi, thảo luận để tự chiếm lĩnh kiến thức mới.
Nhiều em có hứng thú rõ rệt với những tiết toán, xung phong được chữa bài trên
lớp và tham gia phát biểu ý kiến sôi nổi.
4.3. Giáo viên: Từ khi áp dụng các kinh nghiệm vào giờ dạy, bản thân tôi
không còn lúng túng, không ngại khó khi hướng dẫn học sinh trong tiết
toán và các tiết học khác của các phân môn còn lại.
13

Trong trang này: Tác giả tự viết.

13


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.14
1.1. Những bài học kinh nghiệm:
Qua việc nghiên cứu sáng kiến: “ Một số kinh nghiệm giúp học sinh
chưa hoàn thành có hứng thú trong học Toán 4” Tôi nhận thấy rằng để đạt
được kết quả như mong muốn thì người giáo viên cần phải:
- Khi đứng lớp, phải toàn tâm, toàn ý với công việc được giao. Luôn
nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Vận dụng mọi năng lực sư
phạm của mình để dạy học thì nhất định sẽ đạt kết quả tốt. Thường xuyên
nghiên cứu tài liệu như: sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên, tài liệu
Thế giới trong ta...
- Kiên trì, bền bỉ chịu khó trong công tác phụ đạo đối với học sinh tiếp

thu chậm. Theo dõi sát từng đối tượng học sinh trong lớp để kịp thời phát hiện
những kiến thức các em chưa nắm hoặc còn mập mờ nhằm đề ra kế hoạch phụ
đạo hợp lí..
- Đồng thời giáo viên phải biết sử dụng đội ngũ học sinh tiếp thu nhanh
trong lớp hỗ trợ giáo viên trong việc phụ đạo, giúp học sinh nắm chắc kiến thức
toán, từ đó yêu thích học toán hơn.
- Để học sinh có hứng thú học môn Toán trên lớp cần quan tâm nhiều đến
hơn những em học yếu, ham chơi, lơ đãng và sắp xếp chỗ ngồi hợp lí.
- Người giáo viên cần nhẹ nhàng, điềm tĩnh, kiên trì, tỉ mỉ, dìu dắt, yêu
thương học sinh như người con của mình thì việc giáo dục mới đạt kết quả cao.
Thường xuyên thay đổi phương pháp hình thức tổ chức giờ phụ đạo,giờ học sao
cho học sinh hứng thú học tập. Mỗi bài học đều có những phương pháp khác
nhau, không có phương pháp nào là vạn năng, do đó người giáo viên phải biết
chọn lọc phương pháp phù hợp.
- Kích thích động viên học sinh đúng lúc khi các em tiến bộ hay khi các
em đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có,
phê phán đúng mức thái độ lơ là khi học tập, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh
- Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh, khuyến khích các em
học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa
sức. Đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên
gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm
nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em
khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ
những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kỹ.
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em để báo cáo
tình hình học tập của các em. Kết hợp với phụ huynh động viên, đôn đốc, nhắc
nhở giúp các em đạt kết quả cao hơn.
Với những biện pháp trên tôi đã góp phần nâng cao chất lượng của giờ
dạy học toán. Đồng thời tạo sự say mê hứng thú cho học sinh khi học toán và từ
đó học sinh ngày càng yêu thích môn toán hơn. Dạy học toán không những dạy

kiến thức mà còn rèn kĩ năng tính. Giáo viên cần phải trau dồi từng bước để
14

Trong trang này: Tác giả tự viết.

14


nâng cao trình độ nhận thức của các em, giúp các em có kiến thức cơ bản để học
tốt ở các lớp trên.
1.2. Khả năng ứng dụng triển khai:
Bản thân tôi sẽ nghiên cứu, vận dụng và triển khai đến đồng nghiệp trong
trường các biện pháp dạy học nêu trên một cách có hiệu quả để giúp HS chưa
hoàn thành môn Toán nhằm góp phần cùng nhà trường hoàn thành mục tiêu năm
học.
2.Kiến nghị.
Để nâng cao chất lượng học tập của học sinh, giúp các em nắm vững kiến
thức vận dụng vào thực hành, tôi mạnh dạn đưa ra 1 số đề xuất sau:
* Đối với giáo viên
- Phải tận tình trong quá trình giảng dạy, luôn trau dồi nghiệp vụ, nâng cao
trình độ chuyên môn, tăng cường công tác nghiên cứu khoa học.
- Không ngừng nâng cao trình độ bản thân bằng cách tự học qua đồng
nghiệp hay tham khảo thêm tài liệu hay trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Khi lên kế hoạch bài học cần chuẩn bị kỹ nội dung, đồ dùng và các
phương pháp dạy học.
* Đối với cha mẹ học sinh
- Quan tâm hơn nữa đến việc học tập của các em. Tạo điều kiện tốt nhất để
các em học tập. Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra quá trình học tập của các em.
Phối kết hợp với nhà trường để giáo dục các em đạt kết quả cao nhất.

* Đối với các cấp quản lý giáo dục
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề giáo dục về đổi mới phương pháp
dạy học, tổ chức các hội thảo chuyên môn để tạo điều kiện cho giáo viên được
tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm
Trên đây là những giải pháp giúp học sinh hứng thú học toán mà tôi đã áp
dụng cho lớp tôi phụ trách, mang lại hiệu quả nhất định. Chắc chắn những biện
pháp áp dụng còn khiêm tốn. Rất mong được sự góp ý chân tình của quý thầy cô
giáo để đề tài này hoàn chỉnh hơn góp phần vào việc đổi mới phương pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy học.
Xin chân thành cảm ơn.15
Hoằng Đức, ngày 10 tháng 05 năm 2017.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị. Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do tôi viết,
không sao chép của người khác. Nếu có gì sai
tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Người viết sáng kiến.

Lê Thị Lương
15

Trong trang này: Tác giả tự viết.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học lớp 4.
– Tác giả Lê Tiến Thành - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2009.
2. Giáo trình thực hành phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học - Tác giả: Trần
Ngọc Lan.- Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.


16


3. Giáo trình phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học - Nhóm tác giả: Đỗ
Trung Hiệu - Đỗ Đình Hoan - Vũ Dương Thuỵ - Vũ Quốc Chung - Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm - năm 2009.
4. SGK Toán 4 - Nhà xuất bản giáo dục 2011.
5. SGV Toán 4 - Nhà xuất bản giáo dục 2005.
6. STKBG Toán 4 – Tập 1,2 - Nhà xuất bản Hà Nội 2012.

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT , CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ tên tác giả: Lê Thị Lương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường TH&THCS Hoằng Đức
17


Stt

Tên đề tài SKKN
1

2

Cấp đánh giá Kết quả đánh
xếp loại
giá

Làm thế nào để giúp

học sinh lớp 2 giảm
bớt lỗi chính tả ?.

Phòng giáo
dục

A

Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 2
giảm bớt lỗi chính tả.

Phòng giáo
dục

A

Năm học

2010

2013

18



×