Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN rèn kĩ NĂNG GIẢI TOÁN có lời văn CHO HS lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.04 KB, 22 trang )

I- Phần mở đầu
1- Cơ sở lý luận
- Trong đổi mới giáo dục đào tạo thì đổi mới phơng pháp
dạy học có một vị trí quan trọng vì hoạt động dạy và học là
hoạt động chủ yếu của nhà trờng và xét cho cùng thì khoa học
về giáo dục là khoa học về phơng pháp sáng tạo. Khoa học giáo
dục thực chất là sáng tạo về giáo dục, trong đó phơng pháp dạy
học chỉ cho rằng: Cuộc cách mạng về phơng pháp sẽ đem lại
bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong xã hội hiện đại.
Hơn nữa ở cấp học càng thấp thì vai trò của phơng pháp càng
quan trọng. Đặc biệt cấp tiểu học là bậc học nền tảng lại bao
gồm số học sinh đông đảo nhất.
- Mục tiêu của việc đổi mới chơng trình SGK lần này là
xây dựng nội dung chơng trình để giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nớc, phù hợp với thực tiễn truyền thống
Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nớc
trong khu vực và trên thế giới nhằm đa nớc ta thoát khỏi tình
trạng kém phát triển nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
nhân dân tạo nền tảng đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành
một nớc công nghiệp.
- Cụ thể hơn, trong dạy học ngời thầy đóng vai trò hết
sức quan trọng, sản phẩm của ngời thầy không phải là tạo ra
của cải vật chất mà chính là việc tạo ra một thế hệ mới có
phẩm chất đạo đức, tri thức để các em trở thành lớp ngời có
ích cho xã hội. Nh vậy sản phẩm của ngời thầy là vô cùng quan
trọng. Đất nớc ta có giàu đẹp hay không phần lớn là nhờ vào
nền giáo dục nh chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói Non sông Việt
Nam có trở lên tơi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bớc tới



đài vinh quang để sánh vai với các cờng quốc năm châu đợc
hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu.
- Có thể nói rằng, ngời thầy muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ
vang của mình thì suốt đời phải tự học, tự rèn luyện, tự tìm
tòi nghiên cứu tài liệu tham khảo, học hỏi đồng nghiệp của
mình. Ngời thầy vừa phải cống hiến vừa lĩnh hội tất cả những
gì tốt đẹp nhất từ nhân dân, từ cuộc sống khoa học để rồi
lại cống hiến.
- Quy luật vĩnh cửu của hoạt động s phạm mà chúng ta
vẫn thấy đó là
Thầy nào trò ấy thầy có giỏi thì trò mới giỏi, các em có tin tởng nghe theo thầy hay không là nhờ vào cái tài dạy học của
thầy. Chính vì vậy, trong dạy học ngời thầy phải biết tìm
hiểu những chỗ hổng trong kiến thức của học sinh, những chỗ
các em còn vớng mắc, cha hiểu... để tìm cách giúp đỡ các em
lĩnh hội tri thức đáp ứng yêu cầu mục tiêu giáo dục đề ra.

2- Cơ sở thực tiễn
- Trong mọi hoạt động lao động cũng nh hoạt động học
tập nếu làm việc quá khó khăn sẽ gây nản chí, còn nếu quá dễ
thì gây nhàm chán, kém hiệu quả. Với mỗi giáo viên khi dạy
học cần làm thế nào để các em ham học, lôi cuốn các em vào
các hoạt động có ích nhất đối với môn Toán (vì nó là một môn
học khô khan). Khi các em học tập một cách tự nguyện, chủ
động, sáng tạo thì kết quả học tập mới đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy ngời thầy phải có kiến thức sâu rộng về khoa
học cũng nh kiến thức s phạm. Trong quá trình dạy học phải
biết phối hợp linh hoạt các phơng pháp của bộ môn Toán để
giúp học sinh say mê học toán và giỏi toán.



- ở lớp 3, dạng toán có lời văn là dạng toán cơ bản, dạng bài
toán điển hình, nó nh sợi chỉ đỏ xuyên suốt chơng trình học
tiểu học. Từ khi học lớp 1 các em đã đợc làm quen với dạng toán
này nhng ở mức độ đơn giản. Đến lớp 3 toán có lời văn đợc
nâng cao dần cụ thể: Các dạng bài toán nh: Tìm một trong
các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần,
giảm đi một số lần, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh
số bé bằng một phần mấy số lớn, bài toán liên quan đến rút về
đơn vị, bài toán có nội dung hình học.
- Thực tế cho thấy trong những năm tôi trực tiếp giảng dạy
thì điều làm tôi chú ý và quan tâm nhất là việc giải toán có
lời văn của học sinh lớp 3 còn nhiều khó khăn, các em còn rất
lúng túng khi giải toán và tôi tự hỏi: Có phải chơng trình Toán
lớp 3 quá khó với học sinh hay không? Những dạng toán có lời văn
trong chơng trình có vợt quá khả năng t duy của các em không?
Chính vì những trăn trở trên tôi mạnh dạn đa ra phơng pháp:
Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3.

II- Phần nội dung
1. Tìm hiểu thực trạng
Năm học 2013 - 2014 tôi đợc phân công giảng dạy lớp 3A
với 20 học sinh. Khi dạy học môn Toán tôi nhận thấy các em thờng hay làm sai các bài toán có lời văn vì khả năng phân tích
tìm hiểu đề bài của các em còn hạn chế. Các em lúng túng từ
bớc lựa chọn tóm tắt đến bớc giải dẫn đến viết lời giải cha
đúng, cha phù hợp với phép tính. Nhiều em rất ngại đọc đầu
bài chỉ đọc qua loa 1 đến 2 lần là cùng mà trong các bài toán
có lời văn thờng có những thuật ngữ hoặc những dữ kiện cha
tờng minh buộc học sinh phải suy nghĩ, suy luận mà các em lại
cha quen với việc này. Cũng có một số em hay bỏ qua bớc tóm



tắt bài toán hoặc cha biết lựa chọn cách tóm tắt khoa học mà
đi ngay vào việc giải bài toán. Chính vì vậy mà chất lợng học
sinh giải thành thạo các dạng toán có lời văn cha thật cao. Qua
tháng đầu của năm học tôi đã kiểm tra khảo sát việc giải toán
có lời văn của học sinh và thấy kết quả nh sau:
Tổng

Giỏi

số

Trung

Khá

bình

HS
20

Yếu

SL
3

%
15


SL
6

%
30

SL
9

%
45

SL
2

%
10

Trớc thực trạng trên tôi đã quyết tâm dành thời gian để
tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên và tôi nghĩ rằng:
Mình phải lập một kế hoạch rõ ràng, cụ thể, hớng dẫn học sinh
giải toán có lời văn theo một hệ thống logic.

2. Các biện pháp tiến hành khi dạy học giải toán
có lời văn:
+ Trớc tiên tôi nghĩ ngay đến việc phải tạo cho các em
một thói quen, một thao tác thành thạo khi giải bất kỳ một bài
toán có lời văn nào. Quan trọng
nhất là giáo viên phải giúp học sinh hiểu đợc các thuật ngữ toán
học nh: Nhiều hơn/ ít hơn; thêm vào/ bớt đi thì tơng ứng với

phép cộng/ phép trừ, gấp lên/giảm đi bao nhiêu lần thì tơng
ứng với phép nhân/ phép chia.

+ Giáo viên phải giúp học sinh làm quen với việc t duy
logic, biết phân tích mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần
tìm, phải biết dựa vào các yếu tố đã cho để lần tìm những


bớc giải và cuối cùng là phải hiểu đợc để giải đợc bài toán cần
phải có mấy bớc tính.
+ Khi giải bài toán học sinh phải t duy một cách linh hoạt
và tích cực huy động tất cả các kiến thức và kỹ năng đã có
vào các tình huống khác nhau. Trong từng bài toán học sinh
phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện của bài toán
nêu ra nhng cha tờng minh, giáo viên phải làm thế nào để phát
triển năng lực t duy (so sánh, lựa chọn, phân tích tổng hợp,
trìu tợng hóa, khái quát hóa) để học sinh phát triển trí tởng tợng, tập nhận xét các số liệu thu thập đợc để diễn đạt ngắn
gọn, rõ ràng, đúng thông tin. Qua đó rèn tính cẩn thận, chăm
chỉ, tự tin và hứng thú khi giải các bài toán có lời văn.
* Qua quá trình tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng cuối
cùng tôi đã tìm ra cách hớng dẫn học sinh giải toán có lời văn
theo hớng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh thông qua hệ thống các bớc sau:
Bớc 1: Tìm hiểu đề toán: Học sinh phải đọc kỹ đề toán,
xác định yếu tố cơ bản của bài toán là cái đã cho, đã biết và
cái cần phải tìm. Sau đó chọn cách tóm tắt phù hợp (bằng sơ
đồ đoạn thẳng hoặc bằng lời văn).
Bớc 2: Lập kế hoạch giải: Xây dựng kế hoạch giải xuất
phát từ câu hỏi của bài toán dẫn đến yếu tố đã cho - xác lập
mối quan hệ giữa cái đã biết, cái đã cho và cái cần tìm để

tìm đúng phép giải. (Sử dụng hệ thống câu hỏi logic)
Bớc 3: Trình bày bài giải: Viết câu trả lời, viết phép tính
tơng ứng, cuối cùng là viết đáp số.
Bớc 4: Kiểm tra đánh giá lại bài giải: Có thể giáo viên trực
tiếp kiểm tra, học sinh lên bảng giải, học sinh đổi bài kiểm tra
chéo...


Bớc 5: Tìm cách giải khác cho bài toán (nếu có) và khắc
sâu kiến thức đã học.
Dựa vào hệ thống các bớc trên, tôi đã hớng dẫn học sinh
giải các bài toán cụ thể ở những dạng toán sau đây :

3. Ví dụ minh hoạ cho các bớc giải toán
3.1. Dạng bài "Tìm một trong các phần bằng nhau của
một số"
Ví dụ 1: (Bài 2 trang 27)
Vân làm đợc 30 bông hoa bằng giấy, Vân tặng bạn

1
số
6

bông hoa đó. Hỏi Vân đã tặng bạn bao nhiêu bông hoa ?
+ Trớc hết tôi cho học sinh tìm hiểu bài toán. Hai em đọc to
bài để học sinh nhận biết yếu tố đã cho - cần tìm.
+ Bài toán cho biết gì? (Vân làm đợc 30 bông hoa, tặng bạn
1
số bông hoa đó)
6


+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (Vân đã tặng bạn bao nhiêu bông
hoa)
ở bớc này giáo viên phải giúp học sinh hiểu thuật ngữ:
Tặng bạn

1
số bông hoa đó nghĩa là thế nào? (Nghĩa là 30
6

bông hoa đợc chia thành 6 phần bằng nhau, Vân tặng bạn 1
phần của 30 bông hoa đó)
Sau khi học sinh đã nắm đợc nội dung bài tôi cho học sinh
tóm tắt bài toán. Với bài này chọn cách tóm tắt bằng sơ đồ
đoạn thẳng là phù hợp (gọi học sinh lên bảng tóm tắt bài toán)
Tóm tắt:
30 bông
hoa
?
bông


Học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại nội dung bài toán.
Học sinh tự tóm tắt đợc bài toán thì các em sẽ tìm đợc cách
giải.
+ Lập kế hoạch giải: Muốn tìm số bông hoa Vân tặng bạn ta
phải dựa vào yếu tố nào (Dựa vào yếu tố đã cho là Vân tặng
bạn

1

của 30 bông hoa)
6

+ Để tìm

1
của 30 bông hoa ta làm thế nào? (lấy 30 : 6 = 5
6

bông hoa)
+ Tiếp theo là bớc trình bày bài giải: Viết câu trả lời và phép tính
tơng ứng.
Số bông hoa Vân tặng bạn là:
30 : 6 = 5 (bông hoa)
Đáp số : 5 bông hoa
+ Kiểm tra lời giải, kết quả của bài toán: Phần này tôi gọi học sinh
nhận xét.
+ Chọn lời giải khác cho bài toán trên? (Vân đã tặng bạn số
bông hoa là)
Khi dạy học sinh giải toán có lời văn tôi luôn chú ý rèn kĩ
năng cho học sinh. Học sinh hiểu kiến thức mới biết vận dụng
thực hành kiến thức đó để giải quyết các vấn đề cụ thể. Đây
là cơ hội củng cố kiến thức mới và kiến thức đã học, tạo ra sự
hỗ trợ, củng cố lẫn nhau trong quá trình học toán của học sinh.
Điều quan trọng khi hớng dẫn học sinh giải dạng toán trên là
giáo viên phải giúp học sinh hiểu thuật ngữ tặng bạn
bông hoa đó nghĩa là tặng bạn
có.

1

6

số

1
của 30 bông hoa mà Vân
6


Ví dụ 2: (Bài 2 trang 51)
Một thùng đựng 28 lít dầu, lấy ra

1
số lít dầu đó. Hỏi
7

trong thùng còn lại bao nhiêu lít dầu?
+ Khi tìm hiểu bài toán này tôi đọc to bài cho cả lớp nghe, sau
đó để học sinh đọc thầm rồi cho một em đọc lại lần nữa.
+ Bài toán cho biết gì? (1 thùng đựng 28l dầu, lấy ra

1
số lít
7

dầu đó)
+ Bài toán hỏi gì? (Trong thùng còn bao nhiêu lít dầu?)
Lẽ đơng nhiên học sinh đã có thể hiểu đợc lấy ra
đó chính là lấy ra


1
số lít dầu
7

1
của 28 lít dầu.
7

Nh vậy việc quan trọng bây giờ là hớng dẫn học sinh tóm
tắt:
Rất có thể học sinh chỉ có thể tóm tắt bài bằng lời văn
nh sau:
1 thùng đựng: 28 lít dầu
1
số lít dầu
7

Lấy ra

:

Còn lại

: ... lít dầu ?

Giáo viên phải cho học sinh thấy đợc cách tóm tắt trên với
bài toán này là cha khoa học rất khó hiểu thay bằng tóm tắt
bằng lời học sinh sẽ lựa chọn yếu tố tóm tắt bằng sơ đồ đoạn
thẳng.
Đối với bài toán này tôi hớng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ

đồ đoạn thẳng với hệ thống câu hỏi:
+ Bài toán cho biết trong thùng đựng bao nhiêu lít dầu? (28 lít
dầu)


Tôi biểu thị 28 lít dầu bằng 1 đoạn thẳng. Sau đó gợi ý
tiếp, lấy ra

1
1
của 28 lít dầu, nh vậy để biểu thị
của 28 lít
7
7

dầu ta làm thế nào? (chia đoạn thẳng biểu thị 28 lít dầu
thành 7 phần bằng nhau). Gợi ý đến đâu tôi thể hiện trên sơ
đồ đến đó và học sinh sẽ nhận ra ngay

1
của 28 lít dầu và từ
7

đó các em sẽ phát hiện tiếp đoạn thẳng biểu thị số lít dầu
còn lại (chính là cái cần tìm)
Tóm tắt:

Lập kế hoạch giải:
+ Theo em muốn tìm số dầu còn lại trong thùng ta phải biết
yếu tố nào trớc? (số lít dầu lấy ra)

+ Lấy ra

1
của 28 lít dầu nh vậy đã lấy ra bao nhiêu lít? Ta
7

phải làm tính gì? (lấy 28 : 7 = 4 lít)
Trong bài toán thuật ngữ lấy ra lại không phải là phép trừ mà
là phép tính chia.
+ Trong thùng có 28 lít dầu đã lấy ra 4 lít dầu vậy muốn biết
trong thùng còn bao nhiêu lít ta phải28
làm thế nào? ( 28 - 4 = 24
lít

lít)

? phải cần mấy bớc tính? (2 bớc)
+ Để giải bài toán này
lít

Bớc 1 : Tìm số lít dầu lấy ra

? lít

Bớc 2 : Tìm số lít dầu còn lại
+ Trình bày bài giải: Phần này tôi chia lớp thành 4 nhóm sau
đó gọi đại diện nhóm lên trình bày bài giải:


Số lít dầu lấy ra là:

28 : 7 = 4 (l)
Số lít dầu còn lại là:
28 - 4 = 24 (l)
Đáp số : 24 lít dầu
+ Học sinh nhận xét đánh giá lời giải có phù hợp với phép tính
không? Kết quả của phép tính đã đúng cha ?
* Cuối cùng giáo viên có thể khắc sâu cách làm: Đối với bớc
tính thứ nhất ở câu trả lời phải có từ trọng tâm là: Lấy ra, từ
trọng tâm của câu trả lời ở bớc tính thứ hai là : còn lại.
3. 2. Với dạng bài "Gấp một số lên nhiều lần"
Ví dụ 1: (Bài 2 trang 33)
Con hái đợc 7 quả cam, mẹ hái đợc gấp 5 lần số cam con
hái. Hỏi mẹ hái đợc bao nhiêu quả cam?
+ Với bài toán trên hầu nh học sinh đã giải thành thạo:
Số quả cam mẹ hái đợc là:
7 x 5 = 35 (quả)
Đáp số: 35 quả cam
+ Từ bài toán giải bằng 1 phép tính trên khi gặp bài toán hợp
(giải bằng 2 bớc tính) các em sẽ giải quyết bài toán tốt hơn vì
khi giải bài toán bằng 2 bớc tính đều cần phân tích thành các
bài toán đơn. Chẳng hạn với bài toán sau :
Ví dụ 2:
Con hái đợc 7 quả cam, mẹ hái đợc gấp 5 lần số cam con
hái. Hỏi 2 mẹ con hái đợc bao nhiêu quả cam?
+ Tìm hiểu bài: Học sinh đọc kỹ đầu bài để nắm đợc yếu tố
đã biết (con hái đợc 7 quả cam), yếu tố đã cho (mẹ hái gấp 5
lần số cam con hái) và cái cần tìm (số quả cam 2 mẹ con hái
đợc)



Học sinh thảo luận nhóm đôi chọn cách tóm tắt. Đại diện
các nhóm nêu cách tóm tắt và tôi hớng dẫn các em chọn cách
7 quả

tóm tắt khoa học.
Con

hái:
? quả cam

Mẹ

hái:

Học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại bài toán.
+ Lập kế hoạch giải:
+ Muốn tìm số quả cam của hai mẹ con hái ta cần biết những
yếu tố nào? (số quả cam con hái, số quả cam mẹ hái)
+ Ta đã biết số quả cam của từng ngời hái nh thế nào? (con hái
đợc 7 quả cam, mẹ hái đợc gấp 5 lần số cam con hái)
+ Vậy ta phải tìm số quả cam mẹ hái bằng cách nào? (lấy 7 x 5
= 35 quả cam).
Trong bớc giải này học sinh phải hiểu gấp lên số lần tức là
làm phép nhân (dựa vào bài toán gấp một số lên nhiều lần đã
học: Muốn gấp một số lên nhiều lần ta lấy số đó nhân với số
lần)
+ Muốn biết hai mẹ con hái đợc bao nhiêu quả cam ta làm thế
nào? (lấy số quả cam con hái cộng với số quả cam mẹ hái)
+ Em dựa vào bài toán nào đã học để tìm ? (Bài toán tìm
tổng của hai số)

+ Trình bày bài giải: Tôi để học sinh tự làm sau đó cho các
em đổi vở kiểm tra chéo.
Số quả cam mẹ hái đợc là:
7 x 5 = 35 (quả)
Số quả cam hai mẹ con hái đợc là:
7 + 35 = 42 (quả)
Đáp số: 42 quả cam


Ví dụ 3:
Có những bài toán cũng giải bằng hai bớc tính nhng có
đến hai cách làm. Chẳng hạn bài 3 trang 74:
Trong hội khỏe Phù Đổng đội tuyển của một tỉnh đã
giành đợc 8 huy chơng vàng, số huy chơng bạc giành đợc gấp
3 lần số huy chơng vàng. Hỏi đội tuyển đó đã giành đợc tất
cả bao nhiêu huy chơng?
Bình thờng thì học sinh sẽ tóm tắt và giải theo cách sau:
Tóm tắt
8 h/c

Số huy chơng vàng

? huy chơng

Số huy chơng bạc

Bài giải
Số huy chơng bạc có là:
8 x 3 = 24 (tấm)
Tổng số huy chơng có là:

8 + 24 = 32 (tấm)
Đáp số : 32 tấm huy chơng
Ngoài cách giải trên bài toán này có thể giải theo cách
khác:
Với trình độ lớp tôi để học sinh tìm ra cách giải khác
tôi đã đa ra gợi ý sau:
+ Nhìn vào tóm tắt em thấy số huy chơng vàng là mấy phần
đoạn thẳng? (một phần đoạn thẳng)
+ Số huy chơng bạc là mấy phần đoạn thẳng? (3 phần đoạn
thẳng)
+ Tổng số huy chơng vàng và huy chơng bạc là mấy phần
đoạn thẳng?

(1 + 3 = 4 phần).


+ Đoạn thẳng biểu thị 1 phần số huy chơng vàng là mấy
tấm ? (8 tấm).
Tôi chia ra mỗi bàn là một nhóm, các em tự tìm cách giải
sau đó gọi đại diện 2 nhóm lên làm. Các nhóm khác nhận xét,
bổ sung... cuối cùng tôi khẳng định cách giải.
Bài giải
Biểu thị số huy chơng vàng là một phần thì số huy chơng bạc là 3 phần nh thế.
Tổng số phần bằng nhau là:
1 + 3 = 4 (phần)
Tổng số huy chơng là:
8 x 4 = 32 (tấm)
Đáp số: 32 tấm huy chơng
Khi gặp bài toán có nhiều cách giải tôi nhắc các em để
tìm đợc cách giải khác điều quan trọng là các em phải chịu

khó suy nghĩ để tìm tòi, sáng tạo. Có nh vậy mới nâng cao
đợc khả năng t duy.
Khi hớng dẫn học sinh giải bài toán "Giảm đi một số lần"
tôi cũng hớng dẫn tơng tự nh bài toán "Gấp một số lên nhiều
lần"
3. 3. Dạng bài "So sánh số lớn gấp mấy lần số bé"
Ví dụ: (Bài 3 trang 57)
Một con lợn cân nặng 42 kg, một con ngỗng cân nặng 6
kg. Hỏi con lợn cân nặng gấp mấy lần con ngỗng?
+ Tìm hiểu bài: Cả lớp đọc thầm bài toán
+ Bài toán cho biết gì? (Một con lợn cân nặng 42 kg, một con
ngỗng cân nặng 6 kg).
+ Bài toán hỏi gì? (con lợn cân nặng gấp mấy lần con ngỗng)
Khi giải bài toán này rất nhiều học sinh lúng túng ở câu
trả lời dẫn đến giải sai bài toán nh sau:


Con lợn nặng hơn con ngỗng là:
42 : 6 = 7 (kg)
Chính vì vậy lập kế hoạch giải giáo viên phải có câu hỏi
chính xác, ngắn gọn:
+ Con lợn nặng bao nhiêu kg? (42 kg)
+ Con ngỗng nặng bao nhiêu kg? (7 kg)
+ Theo em muốn biết con lợn nặng gấp mấy lần con ngỗng ta
phải làm tính gì? và làm nh thế nào? (làm tính chia, lấy 42 :
6 = 7)
+ Vậy con lợn nặng gấp con ngỗng mấy lần? (7 lần)
+ Em hãy nêu câu lời giải phù hợp với phép tính trên (với câu hỏi
này tôi gọi vài học sinh trả lời sau đó để các em tự rút ra câu
trả lời đúng nhất)

+ Trình bày bài giải: Học sinh làm bài cá nhân
Bài giải
Con lợn nặng gấp con ngỗng một số lần là:
42 : 6 = 7 (lần)
Đáp số : 7 lần
Nh vậy đối với giáo viên khi dạy từng dạng toán có lời văn
phải thấy đợc những vớng mắc của học sinh để giúp các em
khắc phục kịp thời. Chẳng hạn với bài toán trên giáo viên phải
giúp học sinh thấy đợc khi đi tìm cái này gấp mấy lần cái kia
thì tên danh số phải là lần.
3. 4. Dạng bài "Bài toán có liên quan đến rút về đơn
vị"
Ví dụ 1: (Bài 2 trang 128)
Có 28kg gạo đựng đều vào 7 bao. Hỏi 5 bao nh thế
đựng đợc bao nhiêu ki-lô-gam gạo?


Sau khi hớng dẫn học sinh tìm hiểu bài và tóm tắt bằng
lời văn tôi hớng dẫn học sinh lập kế hoạch giải nh sau:
+ Muốn biết 5 bao đựng bao nhiêu kg gạo ta phải biết yếu tố
nào? (mỗi bao đựng bao nhiêu kg gạo)
+ Để tìm số kg gạo đựng trong một bao ta phải dựa vào đâu?
(dựa vào cái đã biết 7 bao đựng 28kg gạo)
+ 7 bao đựng 28kg gạo. Vậy muốn biết 1 bao đựng bao nhiêu
kg gạo ta làm tính gì? (28 : 7 = 4kg)
ở bớc này giáo viên cần khắc sâu kiến thức đây là bớc rút
về đơn vị có nghĩa là rút về 1 đơn vị.
+ Mỗi bao đựng 4kg gạo. Vậy 5 bao nh thế sẽ đựng đợc bao
nhiêu kg gạo? Ta làm tính gì? (4 x 5 = 20kg)
+ Trình bày bài giải: Tôi chia các em thành nhóm để giải bài

toán
Bài giải
Số kg gạo mỗi bao đựng đợc là:
28 : 7 = 4 (kg)
Số kg gạo 5 bao đựng đợc là:
4 x 5 = 20 (kg)
Đáp số: 20kg gạo
+ Tôi cho học sinh kiểm tra lời giải và khẳng định cách làm
đúng.
+ ở bài toán này tôi nhấn mạnh đây là bài toán giải bằng hai
phép tính nhân, chia có liên quan đến rút về đơn vị.
Ví dụ 2: ( Bài 1 trang 167)
Một ngời đi xe đạp trong 12 phút đi đợc 3km. Hỏi nếu
cứ đạp xe đều nh vậy trong 28 phút thì đi đợc mấy ki-lômét?


Sau khi học sinh đã đọc đề bài tôi cho học sinh nhận xét
bài toán trên thuộc dạng toán gì? (Bài toán có liên quan đến rút
về đơn vị). Sau đó một em lên bảng tóm tắt bài toán:
12 phút đi đợc: 3km
28 phút đi đợc:...km?
Hớng dẫn học sinh lập kế hoạch giải bài toán:
+ Muốn biết 28 phút ngời đó đi đợc bao nhiêu km ta phải tìm
gì trớc? (tìm xem ngời đó đi 1km hết bao nhiêu phút)
+ Để biết ngời đó đi 1km hết bao nhiêu phút em làm phải dựa
vào yếu tố nào ? (dựa vào cái đã biết, 12 phút đi đợc 3km)
+ 12 phút ngời đó đi đợc 3km. Vậy ngời đó đi 1km thì hết
bao nhiêu phút? em làm thế nào? (12 : 3 = 4 phút)
+ 4 phút ngời đó đi đợc 1 km. Vậy 28 phút ngời đó đi đợc
bao nhiêu ki-lô-mét? ta làm thế nào? ( 28 : 4 = 7km)

+ Trình bày bài giải: Tôi cho các em thảo luận nhóm đôi giải
bài toán
Đi 1km hết số phút là:
12 : 3 = 4 (phút)
28 phút đi đợc số ki-lô-mét là:
28 : 4 = 7(km)
Đáp số: 7km
+ Học sinh đại diện nhóm lên bảng trình bày bài giải, nhận
xét, bổ sung của các nhóm, giáo viên chốt lời giải đúng.
+ Đối với bài toán này tôi nhấn mạnh để học sinh thấy đợc
muốn biết 28 phút đi đợc mấy ki-lô-mét ta phải tìm xem ngời
đó đi 1km hết bao nhiêu phút trớc. Bớc tìm đi 1km hết bao
nhiêu phút chính là bớc rút về đơn vị. Cuối cùng học sinh phải
nắm đợc bài toán có liên quan đến rút về đơn vị có 2 dạng
và đây là dạng bài giải bằng hai phép tính chia.


3. 5. Đối với các bài toán có nội dung hình học.
Tôi hớng dẫn học sinh giải nh bình thờng sau đó cho học
sinh thấy sự khác biệt trong lời giải có phép tính trung gian
chỉ cần ghi kết quả của phép tính cuối cùng.
Ví dụ: (Bài 4 trang 120)
Một mảnh vờn hình chữ nhật có chiều rộng 95m, chiều
dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chu vi mảnh vờn đó?
+ Học sinh đọc bài xác định yếu tố cơ bản: Cái đã cho (chiều
rộng mảnh vờn 95 m; chiều dài gấp 3 lần chiều rộng); cái cần
tìm (Tính chu vi mảnh vờn đó).
Tôi để học sinh tự tóm tắt.
Hớng dẫn lập kế hoạch giải.
+ Để tính chu vi mảnh vờn hình chữ nhật ta cần biết những

yếu tố nào?
( chiều dài, chiều rộng)
+ Chiều rộng mảnh vờn đã biết cha? (bằng 95m)
+ Chiều dài mảnh vờn đã biết cha? (cha biết)
+ Vậy muốn tìm chiều dài mảnh vờn ta làm thế nào? (95 x 3
= 285)
+ Để tính đợc chu vi mảnh vờn ta phải làm gì? ((chiều dài
cộng chiều rộng) rồi nhân với 2).
+ Cần giải bài toán này theo mấy bớc? (2 bớc)
Bớc 1: Tìm chiều dài mảnh vờn
Bớc 2: Tìm chu vi mảnh vờn
+ Trình bày bài giải: Tôi nhắc nhở học sinh ở bớc tính chu vi có
2 phép tính, khi trình bày vào bài không đợc tách ra phải tính
ra nháp. Sau đó điền kết quả cuối cùng vào bài.
Bài giải
Chiều dài mảnh vờn là:


95 x 3 = 285 (m)
Chu vi mảnh vờn là:
(285 + 95) x 2 = 380 (m)
Đáp số: 380m
Kiểm tra đánh giá kết quả bài giải: Học sinh nhận xét
ở dạng toán này tôi chú ý nhấn mạnh cho học sinh hiểu rõ
mối quan hệ giữa cái đã cho với cái cần tìm đó là tìm đợc
chiều dài thì mới tính đợc chu vi và trong bớc tính thứ 2 nhất
thiết phải tính tổng của chiều dài và chiều rộng trớc sau đó
mới đem nhân với 2. Do vậy phải chú ý sử dụng dấu ngoặc
đơn ( ) ở phép tính cộng nếu thiếu sẽ làm sai kết quả của
phép tính.


4. Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp Rèn kỹ
năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3.
Tôi đã áp dụng phơng pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn
cho học sinh lớp tôi bắt đầu từ tháng 11 (tức là tháng thứ 3 của
năm học) đến tháng 4. Qua 6 tháng thực nghiệm tôi đã tiến
hành kiểm tra đánh giá kết quả học tập, nhận thức của học
sinh và đã thu đợc kết quả khá tốt cụ thể là:
Tổng

Trung

Khá

Giỏi

số

bình

HS
24

Yếu

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

7

35

10

50

3

15

0

0

Qua việc khảo sát tôi thấy rằng :
- Kết quả kiểm nghiệm thực tế đã thu đợc nh trên, bớc
đầu có thể khẳng định các luận điểm nêu trên là có tính

chân thực. Từ kết quả đó ta cũng đánh giá đợc kĩ năng giải
toán của học sinh đã đợc nâng lên rõ rệt.


- Việc đa phơng pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, giáo viên với vai trò là ngời hớng dẫn đã mang lại kết quả
khá tốt. Nhiều học sinh đã hiểu đợc cách giải toán và biết tự
trình bầy bài giải một cách hợp lý. Đặc biệt phơng pháp này
phần nào đã nâng cao đợc chất lợng học tập của học sinh, hạ
thấp tỷ lệ học sinh yếu kém.
- Qua việc áp dụng các phơng pháp, biện pháp nêu trên
vào thực tế giảng dạy bớc đầu có thể khẳng định tính khả
thi của bản kinh nghiệm. Kĩ năng giải toán của các em đã đợc
nâng lên rõ rệt. Các em không còn lúng túng trong việc làm
bài mà đã tích cực, chủ động suy nghĩ làm bài dới sự tổ chức,
hớng dẫn của giáo viên. Đồng thời những biện pháp dạy học nêu
trên tạo cho các em phơng pháp học tập có hệ thống mang lại
hiệu quả rõ rệt, điều đó đã kích lệ hứng thú học tập của học
sinh. Các em đã phát huy đợc tính độc lập suy nghĩ, mạnh
dạn bộc lộ ý kiến của mình về cách giải toán với các bạn trong
nhóm một cách tự tin, tạo không khí học tập hào hứng, lớp học
sôi nổi.

III- Phần kết luận
1- Một số bài học kinh nghiệm:
Từ việc áp dụng các giải pháp đã nêu trên tôi nhận thấy:
Để hớng dẫn học sinh lớp 3 giải toán có lời văn đạt hiệu quả giáo
viên cần chú ý:
+ Nghiên cứu bài dạy, tham khảo tài liệu sách báo... trao
đổi phơng pháp dạy với đồng nghiệp... chắt lọc những kiến

thức cơ bản, sử dụng phơng pháp giải toán phù hợp, linh hoạt
để hớng dẫn học sinh học tập tích cực, chủ động.


+ Giúp học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng về các
phép tính cộng, trừ, nhân, chia, các kiến thức đo lờng, hình
học
+ Trong dạy học giáo viên phải tạo ra tình huống có vấn
đề, hớng giải quyết vấn đề để thu hút học sinh vào hoạt
động học. Tổ chức cho HS vận dụng kiến thức kĩ năng đã
thu đợc để thực hành, luyện tập ở nhiều dạng bài khác
nhau.
+ Đặc biệt khi dạy học sinh giải toán có lời văn giáo viên
phải giúp các em nắm vững các bớc giải toán (Phơng pháp giải
toán) theo trình tự dới đây:
* Tìm hiểu bài toán (đọc kỹ đầu bài, nắm vững yêu cầu
đề bài, nắm đợc mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần phải
tìm) lựa chọn cách tóm tắt khoa học.
* Lập kế hoạch giải: Xác lập mối quan hệ giữa cái đã biết,
cái đã cho và cái cần tìm để tìm ra lời giải phép tính đúng).
* Trình bày bài giải: Học sinh nắm vững quy trình bài
giải: Viết câu lời giải, viết phép tính, viết đáp số.
* Kiểm tra đánh giá lại bài giải: Lời giải, phép tính, kết
quả và lựa chọn cách giải phù hợp nhất với bài toán.
Bên cạnh việc lựa chọn phơng pháp dạy học tốt nhất, giáo
viên cần:
+ Lu ý đến các đối tợng học sinh trong lớp để khi giải
toán phát hiện ra khó khăn vớng mắc của các em ở từng dạng
toán để đa ra phơng pháp hớng dẫn giải toán cho phù hợp.
+ Thờng xuyên cho các em thảo luận nhóm để các em

tự tìm ra cách giải bài toán sau đó gọi đại diện nhóm lên
trình bày kết quả. Thực hiện nh vậy sẽ gây đợc hứng thú
học tập và các em có ý thức học tập tích cực, tự giác hơn.


+ Giáo viên thờng xuyên thay đổi cách kiểm tra đánh giá:
Có thể giáo viên trực tiếp chấm bài của học sinh, gọi học sinh
lên bảng giải bài toán hoặc cho học sinh đổi bài kiểm tra
chéo
+ Điều đặc biệt quan trọng nữa là giáo viên khi dạy học
phải hết sức nhẹ nhàng tạo không khí học tập sôi nổi và chú ý
nhiều vào đối tợng học sinh còn nhút nhát, e ngại để giúp các
em mạnh dạn bộc lộ ý kiến của mình.
2- Một số đề nghị với cấp quản lý:
Để thực hiện tốt việc dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ
năng cấp tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng nhất là
nội dung giải toán có lời văn đạt hiệu quả, tôi xin đề nghị với
các cấp quản lý một số vấn đề sau:
1. Cần tăng cờng tổ chức hội thảo về việc sử dụng phơng
pháp dạy học mới để rút ra những kinh nghiệm giảng dạy hiệu
quả hơn. Tạo điều kiện cho giáo viên thờng xuyên học hỏi
nâng cao hiểu biết về mọi mặt, khuyến khích động viên kịp
thời những giáo viên có sáng tạo trong đổi mới phơng pháp dạy
học.
2. Tổ chức sân chơi trí tuệ để học sinh có khả năng đợc
bộc lộ kiến thức, hiểu biết của mình, phát huy tích cực chủ
động.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc rèn kĩ năng
giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 của cá nhân tôi. Tôi rất
mong nhận đợc sự góp ý của các đồng chí để tôi có đợc kinh

nghiệm giảng dạy tốt hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Đọi Sơn, ngày 01 tháng 4 năm 2014
Ngời viết


NguyÔn ThÞ MÕn



×