Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo dạy học phân môn lịch sử lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO DẠY HỌC
PHÂN MÔN LỊCH SỬ LỚP 4 GÓP PHẦN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC

Người thực hiện: Mai Thị Thủy
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Thiện
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA NĂM 2017

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bác Hồ đã từng dạy chúng ta: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người”. Vì lẽ đó mà ngành Giáo dục đã được Đảng và Nhà
nước giao cho nhiệm vụ vô cùng quan trọng và rất vẻ vang đó là “sự nghiệp
trồng người”.
Để thực hiện mục tiêu của giáo dục Tiểu học và hướng học sinh phát triển
toàn diện: Có đạo đức, có trí thức và có thể chất…ngành Giáo dục đã có những
đổi mới về nội dung, chương trình cũng như phương pháp giảng dạy để góp
phần cho sự nghiệp: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Các môn học ở Tiểu học nói chung và môn Lịch sử và Địa Lý lớp 4 nói
riêng có một vị trí vô cùng quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu Giáo dục.


Phân môn Lịch sử ở lớp 4 giúp các em làm quen với môn học, cung cấp cho học
sinh những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử tiêu biểu có hệ thống theo dòng thời
gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước đến giữa thế kỉ XIX, đồng thời
cho học sinh hiểu mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trong
quá khứ. Qua đó giáo dục các em lòng yêu quê hương đất nước, biết tự hào về
những trang lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc, tôn kính cội nguồn, học tập
và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện cho các em.
Do vậy, để làm được điều đó mỗi giáo viên cần phải có biện pháp, phương
pháp dạy học giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 nhằm phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong hoạt động học. Việc sử dụng các
phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất vẫn là vấn đề cần được giáo
viên quan tâm. Để phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những hạn chế,
giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ những phương pháp dạy
học, bản thân tôi là cán bộ quản lý nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo giáo viên
dạy phân môn Lịch sử lớp 4 theo hướng Tích cực hóa hoạt động học của học
sinh. Qua thực tế 11 năm giảng dạy giảng dạy và 9 năm quản lý bản thân tôi
luôn trăn trở phải làm gì, làm như thế nào để các em có hứng thú trong học tập,
giáo viên cần phải sử dụng các phương pháp dạy học như thế nào để thu hút học
sinh vào hoạt động học tập và chất lượng giờ dạy đạt hiệu quả cao, nhất là đối
với phân môn Lịch sử. Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu, chỉ đạo và bồi
dưỡng giáo viên lớp 4,5 dạy tốt phân môn Lịch sử ở trường Tiểu học Nga Thiện.
Trong quá trình chỉ đạo, bản thân tôi đúc rút được “Một số biện pháp chỉ đạo
dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ơ
Trường Tiểu học Nga Thiện”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng việc dạy - học phân môn
Lịch sử 4, trên cơ sở đó áp dụng các giải pháp chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả
giảng dạy.
3. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài này sẽ nghiên cứu, tổng kết về một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng
cao hiệu quả dạy và học phân môn Lịch sử lớp 4 ở trường Tiểu học Nga Thiện.
2


4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu, tìm hiểu để nắm vững nội dung chương trình, phương pháp
và các hình thức dạy học, yêu cầu của môn học thông qua các tài liệu như SGK
Lịch sử và Địa lí 4,5; Sách giáo viên, Thiết kế bài dạy Lịch sử và Địa lí 4, 5;
Sách Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học,…
4.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh về những thuận lợi, khó khăn
trong việc nâng cao chất lượng dạy – học Lịch sử Tiểu học nói chung và Lịch sử
lớp 4 nói riêng.
4.3. Phương pháp quan sát
Quan sát qua dự giờ của giáo viên để đánh giá năng lực, kinh nghiệm của
giáo viên, quan sát quá trình học tập của học sinh để tìm hiểu cụ thể thực trạng.
4.4. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Điều tra qua các giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình 4, 5; qua sổ
Theo dõi chất lượng giáo dục; Sổ tỏng hợp kết quả đánh giá giáo dục tiểu học;
qua học sinh và các loại tài liệu học tập của học sinh…
4.5. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Thống kê kết quả khảo sát, kết quả học tập của học sinh qua các bài kiểm
tra, bài khảo sát, qua hồ sơ sổ sách…

3



II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sơ lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu học
Để tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về đặc
điểm nhận thức và quá trình tư duy của các em. Đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh là cơ sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở
Tiểu học. Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã
diễn ra trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại
bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong
cuộc sống hiện tại và tương lai.
Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ,
sâu sắc và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng
dạy kiến thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc
biệt, tư duy của các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình
bày phải hết sức coi trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất
các biện pháp hình thành năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học.
Dạy học lịch sử phải dựa trên những cơ sở sử học, nó liên quan mật thiết
với các sự kiện, hiện tượng, nhân vật tiêu biểu – người thật, việc thật trong lịch
sử. Trong việc khôi phục lại những bức tranh lịch sử ấy, dù ở cấp Tiểu học vẫn
phải đảm bảo tính chính xác, khoa học; tính tư tưởng chính trị; tính vừa sức; tính
thực tiễn - học đi đôi với hành.
1.2. Mục tiêu cần đạt của phân môn Lịch sử lớp 4
Mục tiêu của phân môn Lịch sử ở lớp 4 là:
“ a) Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về:
Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu tương đối có hệ thống
theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu
thế kỷ XIX.
b) Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng:
Quan sát các sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các
nguồn thông tin khác nhau.

Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quả trình học tập và chọn thông tin để
giải đáp.
Nhận biết đúng các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Trình bày kết quả nhận thức của mình bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ
đồ,…
Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
c) Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói
quen: Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về lịch sử dân tộc. Từ đó giáo dục các em
tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước, biết tôn trọng, bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử văn hóa.”
(Trích: Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 – Tập hai – Trang 164).
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong thực tế hiện nay ta thấy một bộ phận lớp trẻ Việt Nam rất mơ hồ về
lịch sử nước nhà. Điều đó đã làm đau đầu bao nhà nghiên cứu, làm trăn trở bao
4


nhà giáo dục và làm cả xã hội phải lo lắng cho lớp chủ nhân tương lai của đất
nước lớn lên mà không biết đến truyền thống, nguồn gốc dân tộc mình.
Qua thực tế 11 năm giảng dạy lớp 4, 5 và 9 năm làm công tác quản lý ở
trường Tiểu học, trong quá trình dự giờ động nghiệp, khảo sát chất lượng học
sinh tôi thấy: Việc sử dụng phương pháp dạy học Lịch sử lớp 4 đến nay có nhiều
đổi mới tạo ra cho giáo viên và học sinh nhiều thuận lợi: Có khá đầy đủ trang
thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học, có sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc
của các cấp trong việc thực hiện đổi mới giáo dục mà đặc biệt là đổi mới
phương pháp dạy học. Học sinh Tiểu học rất thích học Lịch sử: Thích quan sát
và tìm hiểu lịch sử, ham học hởi và năng động. Chương trình Lịch sử lớp 4
phong phú về nội dung…Dẫn đến chất lượng học sinh hoàn thành và hoàn thành
mức độ tốt được nâng lên rõ rêt, học sinh chưa hoàn thành hầu như không còn.
Tuy nhiên khi dạy – học Lịch sử ở lớp Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói

riêng vẫn còn những hạn chế sau:
* Về phía giáo viên:
Tổ chức học tập chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh
trong quá trình dạy – học; không lôi cuốn khích lệ học sinh tham gia vào quá
trình tìm tòi và phát hiện cũng như lĩnh hội kiến thức.
Mặc dù đa số giáo viên hiện nay đều tâm huyết và có trách nhiệm cao đối
với nghề dạy học nhưng khả năng của mỗi người là có hạn và không giống nhau.
Một số giáo viên chưa có điều kiện để nắm vững tiến trình lịch sử nước nhà
cũng như chương trình Lịch sử 4, 5; chưa có đủ sách vở, tài liệu và thời gian
nghiên cứu, do đó giảng dạy còn qua loa, chưa khơi dậy được hứng thú và nhu
cầu học tập cho học sinh…
Một bộ phận giáo viên chỉ tập trung cho hai môn Toán và Tiếng việt mà
xem nhẹ phân môn Lịch sử, ít đầu tư, ngại tìm tòi, nghiên cứu phương pháp
cũng như các tư liệu lịch sử để nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử.
Giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp thường sử
dụng là phương pháp thuyết trình, giảng giải (ThÇy gi¶ng - trß nghe;
ThÇy ®äc- trß chÐp” ghi nhí m¸y mãc, để rồi HS tiếp thu kiến thức
một cách thụ động, HS không hứng thú học lịch sử, không hình dung được về
các sự kiện đã diễn ra cách các em rất xa về thời gian. Từ đó tạo cho các em có
thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư duy, kém về nhận thức.
Kiến thức tin học của một bộ phận GV còn non. Việc soạn giảng giáo án
điện tử, truy cập mạng Internet còn là vấn đề khó khăn đối với một bộ phận
không nhỏ GV.
Rất nhiều bài lịch sử khi ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng sẽ
mang lại hiệu quả cao, tạo hứng thú học tập cho học sinh, tuy nhiên giáo viên
còn ngại khai thác thiết kế giáo án điện tử hoặc có UDCNTT vào giảng dạy trên
lớp chưa nhiều. Một số giáo viên trình độ vi tính còn thấp nên việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học chưa hiệu quả.
* Về phía học sinh:
Học sinh Nga Thiện nơi tôi đang công tác 98% là con em nông dân. Trình

độ dân trí tại địa phương chưa cao. Kinh tế còn khó khăn. Điều kiện để cha mẹ,
5


gia đình, nhà trường tổ chức cho các em đi thăm quan các di tích lịch sử, bảo
tàng lịch sử hay khám phá qua mạng Internet hầu như không có.
Việc sưu tầm tranh ảnh phục vụ cho tiết học còn gặp nhiều khó khăn. Các
kênh thông tin giúp các em tìm hiểu lịch sử không nhiều.
Bản thân các em ngại học lịch sử, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức.
* Nguyên nhân của thực trạng trên là:
Một số nhà trường tập trung, chú trọng 2 môn toán và Tiếng việt mà coi nhẹ
các môn khác trong đó có phân môn lịch sử. Việc dạy học lịch sử của một bộ
phận giáo viên chưa được chú trọng, ít đầu tư.
Giáo viên lên lớp truyền tải nội dung một chiều: thầy giảng - trò nghe. Học
sinh chỉ tiếp cận kiến thức lịch sử bằng một con đường duy nhất là các bài giảng
khô khan của thầy cô qua sách giáo khoa. Học sinh chưa yêu thích môn học.
Nhận thức của phụ huynh học sinh chưa đúng đắn về môn học này, coi môn lịch
sử là môn phụ.
Cơ sở vât chất, các tài liệu phục vụ dạy học của nhà trường còn thiếu thốn.
Bản thân giáo viên còn mơ màng, đói công nghệ thông tin nên việc ứng dụng
CNTT vào giảng dạy còn quá khó khăn dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa hiệu
quả.
Gia đình đại bộ phận HS vùng nông thôn còn xa lạ với công nghệ thông tin.
Bản thân HS chưa thích học lịch sử.
Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin chưa rộng rãi. Một bộ phận
CBGV còn lúng túng trong việc sử dụng mạng Internet, soạn giáo án điện tử...
Vì lý do trên, sau hơn một tháng học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng
phân môn Lịch sử cả khối 4 trường Tiểu học Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hoá
và thu được kết quả như sau:
Lớp

4A
4B


số
27
30

Điểm 9, 10
SL TL (%)
2
7,4
5
16,7

Điểm 7, 8
SL TL (%)
10
37,1
8
26,7

Điểm 5, 6
SL TL (%)
13
48,1
15
50,0

Điểm dưới 5

SL TL (%)
2
7,4
2
6,6

Trước thực trạng trên tôi đã trăn trở là làm thế nào để tạo hứng thú học tập và
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi học Lịch sử lớp 4.
Để giải quyết vấn đề này cần phải đổi mới phương pháp dạy học và tôi đã
nghiên cứu, tìm tòi mạnh dạn thực nghiệm và đã đạt kết quả khả quan. Từ thực
nghiệm của bản thân tôi rút ra được: Một số biện pháp chỉ đạo dạy học phân
môn Lịch sử lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ơ Trường Tiểu
học Nga Thiện .
3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề:
Trong quá trình giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn, tôi nhận thấy rằng việc
hình thành kiến thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự tôn, tự
cường dân tộc cho mỗi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo
viên mong muốn. Giáo viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch
sử.
6


3.1. Giải pháp thứ nhất: Chỉ đạo giáo viên phải nắm vững nội dung chương
trình Lịch sử 4 và tiến trình lịch sử Việt Nam.
Vào đầu năm học, được sự nhất trí của Hiệu trưởng nhà trường, tôi đã tổ
chức cho giáo viên tiếp thu các chuyên đề nhằm giúp giáo viên nắm được mục
tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa và cao hơn nữa là
nắm được tiến trình lịch sử Việt Nam. Bởi: Muốn dạy đúng, đủ kiến thức Lịch
sử 4, trước hết người giáo viên cần nắm được mục tiêu của chương trình, nội
dung chương trình sách giáo khoa và cao hơn nữa là nắm được tiến trình lịch sử

Việt Nam.
Mục tiêu chủ yếu của chương trình Lịch sử 4 là:
“ - Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng
thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ
XIX.
- Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự
vật, hiện tượng; Thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau; Nêu
thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp; Nhận
biết đúng các sự vật, hiện tượng lịch sử; Trình bày lại kết quả học tập bằng hình
vẽ, lời nói, sơ đồ…; Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
- Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen:
Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh; Yêu thiên nhiên, đất
nước, con người Việt Nam; Tự hào, tôn trọng, giữ gìn và phát huy một số truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ các di sản văn hoá, di tích lịch sử gần gũi…”
(Trích: Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 – Tập hai – Trang 164).
Nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử 4 bao gồm những sự kiện,
nhân vật lịch sử tiêu biểu phản ánh những cột mốc đánh dấu sự phát triển của
các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
(kinh tế, văn hoá, chính trị…) của ông cha ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước
đến buổi đầu thời Nguyễn.
Ngoài nắm vững mục tiêu chương trình, nội dung chương trình Lịch sử 4,
người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì còn cần nắm vững chi tiết tiến trình
lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước và giữ nước cho tới ngày nay cũng như
nắm vững lịch sử nhân loại. Có nắm vững các kiến thức lịch sử thì người giáo
viên mới có cái nhìn tổng thể, toàn diện về lịch sử, hiểu được các chặng đường
thăng trầm, biến động của đất nước, của thế giới qua các thời kì… và có thể lí
giải chính xác nhất những băn khoăn, thắc mắc của học sinh.
Để nắm được các nội dung cơ bản trên, người giáo viên phải có quá trình
tích luỹ lâu dài qua các cấp học, ngành học đã được tham gia, qua các buổi học

chuyên đề, qua tự học tự nghiên cứu, ôn tập bằng nhiều hình thức (tự học, qua
sách vở, đài, báo, ti vi, phim ảnh, qua mạng Internet, qua học hỏi cấp trên, bạn
bè, đồng nghiệp…)
3.2. Giải pháp thứ hai: Chỉ đạo giáo viên nghiên cứu, lựa chọn những
phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài của chương trình
Lịch sử 4.
7


Ngay trong buổi sinh hoạt chuyên môn dầu tiên của tháng 10/2016, tôi đã
cho các đồng chí giáo viên thảo luận để phân chia các dạng bài học của phân
môn lịch sử lớp 4 và tôi thấy có thể phân chia các dạng bài học theo một số dạng
cơ bản sau:
3.2.1. Các bài có nội dung về nhân vật lịch sử.
a. Mục tiêu: Giúp học sinh
- Biết và hiểu: Công lao, những đóng góp của một số nhân vật đối với lịch
sử dân tộc.
- Có khả năng kể lại hoặc mô tả một cách khái quát những đóng góp của
các nhân vật lịch sử đã học hoặc sưu tầm những câu chuyện về họ.
- Tự hào, ghi nhớ công ơn của các nhân vật lịch sử.
b. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng Bạch
Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938); Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; Quang
Trung đại phá quân Thanh.
c. Một số phương pháp dạy học
Chương trình lịch sử Tiểu học không giới thiệu tiểu sử các nhân vật lịch
sử, mà thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của nhân vật để làm sáng tỏ
những sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ
quân, thống nhất đất nước vào năm 968… Như vậy nhân vật lịch sử bao giờ
cũng gắn liền với sự kiện lịch sử, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để
làm nổi bật những hoạt động và công lao to lớn của nhân vật.

Một số điểm cần lưu ý: Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ, chân dung)
nhân vật lịch sử giúp học sinh nắm bắt được diện mạo, hình thức bên ngoài của
nhân vật. Giáo viên cần sử dụng và khai thác triệt để những bức ảnh này nhằm
phục vụ nội dung bài học.
- Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật đó là người
như thế nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nổi bật? Tài
năng, đức độ ra sao?....)
- Kể chuyện hoặc miêu tả những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc
đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể chuyện
hay tường thuật, miêu tả tình tiết các hoạt động,có thể kết hợp phân tích để học
sinh hiểu hơn nội dung, bản chất sự kiện.
- Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư
tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng
đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả nhất. Thông thường, đối
với dạng bài này phương pháp chủ đạo là kể chuyện, miêu tả, tường thuật kết
hợp với hỏi đáp để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí học sinh.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Quang Trung đại phá quân Thanh (năm 1789)”:
Hoạt động 1: Tình hình nước ta sau khi Quang Trung thống nhất đất nước.
Ở hoạt động này, giáo viên cần tập trung sử dụng phương pháp hỏi- đáp
để học sinh nêu được tình hình đất nước bị quân Thanh xâm lược.
Hoạt động 2: Vài nét về tiểu sử của Quang Trung – Nguyễn Huệ.
- Thực hiện hoạt động này cần sử dụng phương pháp kể chuyện. Tôi
hướng dẫn giáo viên tổ chức học sinh đọc nội dung sách giáo khoa kết hợp với
hiểu biết của bản thân để kể lại tiểu sử của nhân vật. Nếu trường hợp học sinh
8


không kể được, giáo viên sẽ dẫn dắt, gợi mở cho các em bằng các câu hỏi gợi ý
cụ thể hơn....
Hoạt động 3: Công lao của vua Quang Trung.

Ở hoạt động này, giáo viên nên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để
thấy được những đóng góp của Quang Trung đối với lịch sử dân tộc.
3.2.2. Các bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh
tế - chính trị, văn hóa - xã hội.
a. Mục tiêu: Học xong loại bài này, học sinh biết và hiểu:
- Hoàn cảnh ra đời, địa phận; thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên
vua, tên nước, nơi đóng đô,…
- Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước.
- Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh
thần của con người trong xã hội.
Học sinh có kĩ năng: Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà
nước; So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các
triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại
thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử,…
b. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Nước Văn Lang; Nước Âu Lạc; Nước ta dưới
ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc; Nhà Lý dời đô ra Thăng
Long; Nhà Trần thành lập; Nhà Trần và việc đắp đê; Nước ta cuối thời Trần;
Nhà Hậu Lê và việc tổ chức, quản lí đất nước; Trịnh- Nguyễn phân tranh; Cuộc
khẩn hoang ở Đàng Trong; Thành thị ở thế kỉ XVI- XVII; Những chính sách về
kinh tế và văn hóa của vua Quang Trung; Nhà Nguyễn thành lập.
c. Phương pháp dạy học
- Đối với dạng bài này, tôi hướng dẫn giáo viên thảo luận và thống nhất
sắp xếp thành từng ý, gợi mở vấn đề rồi tổ chức dẫn dắt cho học sinh tìm hiểu
thông tin qua phương pháp vấn đáp- tìm tòi, thảo luận nhóm, đàm thoại,.. Với
dạng bài này, cần khai thác triệt để các đồ dùng dạy học. Mặt khác, việc miêu tả,
giải thích, phân tích của giáo viên cũng rất quan trọng vì nó liên quan tới một số
thuật ngữ, khái niệm khó.
Giáo viên thực hiện bài giảng bằng cách hướng dẫn học sinh như sau:
+ Miêu tả tình hình nước ta cuối hay sau thời kì nào đó (tình hình đất

nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống của các tầng lớp nhân dân).
+ Chính quyền (hay nhân dân hoặc nhân vật lịch sử,…) trong tình cảnh
đó, đã làm gì và làm như thế nào?
+ Những việc làm đó có kết quả ra sao?
Trên cơ sở những nội dung cơ bản trên, tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể
của từng bài để hướng dẫn giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp: kể
chuyện, thảo luận nhóm, đàm thoại,….để chuyển tải nội dung bài học một cách
hiệu quả.
3.2.3. Các bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng,
chiến dịch, phản công,…
a. Mục tiêu: Giúp học sinh biết và hiểu:
- Thời gian, địa diểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng, …
9


- Những nét chính về diễn biến và ý nghĩa của các thắng lợi đó.
Học sinh có khả năng: Tường thuật, miêu tả những nét chính của cuộc
khởi nghĩa hay chiến dịch đã học.
Học sinh có thái độ: biết ơn những người đã làm nên những sự kiện vĩ đại
của lịch sử dân tộc và có ý thức bảo vệ những thành quả của cách mạng.
b. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng Bạch
Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938); Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm
lược. (lần 1, lần 2); Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên;
Chiến thắng Chi Lăng; Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long; …
c. Các phương pháp dạy học: Đây là dạng bài này chiếm một tỉ lệ khá cao trong
chương trình, do đó cần cho học sinh biết, hiểu những nội dung sau:
- Nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, …
- Khái quát diễn biến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,…
Để học sinh hiểu sâu hơn những nội dung trên, giáo viên nhất thiết nên sử
dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh,… dẫn dắt học sinh xác định và mô tả được vị

trí, khu vực, địa bàn diễn ra cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,…, phải
trình bày diễn biến của các sự kiện trên hệ thống kênh hình.
Ví dụ: Bài: Chiến thắng Bạch Đằng: Khi dạy bài này, giáo viên cần tường thuật
hay mô tả dựa vào kênh hình để học sinh thấy được vị trí chiến lược của cửa
sông Bạch Đằng, diễn biến, kết quả trận đánh có tính bước ngoặt trong lịch
sử. Dưới đây là một số hình ảnh mô tả diễn biến, kết quả trận chiến:

Lược đồ trận Bạch Đằng
Quân Nam Hán thất bại nặng nề
Như vậy, theo tôi, phương pháp chủ đạo khi dạy dạng bài học này là tường
thuật, miêu tả kết hợp với kể chuyện và khai thác kiến thức từ hệ thống kênh
hình để làm sống dậy diễn biến của cuộc khởi nghĩa, kháng chiến hay chiến
dịch, các cuộc tiến công.
3.2.4. Các bài có nội dung ôn tập, tổng kết.
a. Mục tiêu: Giúp học sinh
- Hệ thống hóa và củng cố những kiến thức đã học.
10


- Có khả năng nhận thức lịch sử một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn và
làm bài kiểm tra tốt hơn.
- Học sinh có ý thức ghi nhớ lịch sử dân tộc.
b. Nội dung: - Bài 6: Hệ thống lại những sự kiện điển hình từ thời kì dựng
nước tới năm 938; Bài 20: Tổng hợp những nét cơ bản của lịch sử dân tộc trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội và những cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của dân tộc ta từ buổi đầu độc lập đến thời Hậu Lê; Bài 29: Tổng kết
lịch sử từ thời vua Hùng đến giữa thế kỉ XIX.
c. Một số phương pháp dạy học
Để dạy tốt dạng bài này, mở đầu bài học, tôi hướng dẫn giáo viên nêu
nhiệm vụ cần giải quyết rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự

hướng dẫn của giáo viên. Trong quá trình tiến hành bài học, giáo viên phải thu
hút được tất cả học sinh vào các hoạt động, phát huy cao nhất tính tích cực của
mỗi học sinh trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện
các công việc như: vẽ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng…
Đây là yếu tố quan trọng để phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng thực hành.
Thông thường, với dạng bài ôn tập, tổng kết phải vận dụng tổng hợp nhiều
phương pháp. Tuy nhiên cũng tùy từng phần, từng nội dung cụ thể trong từng
bài mà giáo viên lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy học phù hợp. Riêng
tôi lại thấy trò chơi là một phương pháp rất thích hợp với dạng bài này vì nó có
thể tổng hợp kiến thức từ nhiều bài học khác nhau, đồng thời cũng tạo ra không
khí sôi nổi, hấp dẫn cho học sinh trong quá trình học tập. Qua những hoạt động
“học mà chơi, chơi mà học”, các em sẽ ghi nhớ một cách tự giác những kiến
thức lịch sử đã học.
 Ví dụ khi dạy bài: “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo”, cuối
tiết học, giáo viên tổ chức trò chơi “Ô chữ kì diệu”
*Chuẩn bị: - GV chuẩn bị ô chữ thiết kế trên màn hình gồm 8 từ hàng ngang và
1 từ hàng dọc:
* Hệ thống các câu hỏi gợi ý theo hàng ngang:
1. Hậu quả mà quân Nam Hán phải nhận khi sang xâm lược nước ta năm 938.
2. Nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô sau khi lên ngôi?
3. Vũ khí của quân ta làm thủng thuyền của giặc?
4. Ngô Quyền đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này để đánh giặc?
5. Tên làng quê của Ngô Quyền?
6. Quân Nam Hán đến từ phương này?
7. Người lãnh đạo trận chiến trên sông Bạch Đằng?
8. Tướng chỉ huy của giặc tử trận ở Bạch Đằng?
* Cách tiến hành: Giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là một
đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi. Các đội chơi sẽ được bốc thăm thứ tự
chơi. Đến lượt đội nào thì đội đó được chọn một hàng ngang tùy ý, giáo viên
đưa ra câu hỏi gợi ý, trong vòng 10 giây đội đó phải đưa ra câu trả lời phù hợp,

nếu sai hoặc quá thời gian, đội khác sẽ được trả lời. Mỗi từ tìm đúng đáp án
được 10 điểm, sau lượt trả lời đầu, nếu đội nào đã tìm ra từ hàng dọc thì xin trả
lời (nếu đúng được 30 điểm, nếu sai thì mất 1 lượt chơi). Trò chơi kết thúc khi
có đội tìm ra từ hàng dọc (giáo viên hỏi học sinh về ý nghĩa từ hàng dọc), đội
11


nào nhiều điểm hơn là đội thắng cuộc. Cuối cùng giáo viên tổng hợp kết quả của
các đội, tuyên dương đội thắng cuộc, chốt kiến thức bài học.
- Giáo viên tổng kết trò chơi, rút kinh nghiệm tổ chức trước lớp
Dưới đây là đáp án ô chữ (Chưa có dấu thanh)

3.2.5. Các bài có nội dung về thành tựu văn hóa - khoa học.
a. Mục tiêu: - Học sinh biết và hiểu một số thành tựu trong lĩnh vực văn hóa,
khoa học điểm hình của dân tộc qua các thời kì lịch sử.
- Học sinh có khả năng kể, mô tả những nét khái quát nhất về các thành
tựu đó; Có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo vệ những thành tựu văn hóa, khoa học
của dân tộc.
b. Nội dung: Bao gồm các bài sau: Chùa thời Lý; Trường học thời Hậu Lê; Văn
hóa, khoa học thời Hậu Lê; Kinh thành Huế.
c. Những phương pháp dạy học đặc trưng.
- Phải mô tả được những đặc điểm nổi bật của công trình kiến trúc (Quá
trình xây dựng, quy mô, cấu trúc, kiểu dáng, nét điêu khắc, chạm trổ,…)
- Mô tả cách giáo dục, thi cử hay nội dung thi cử của mỗi thời kì.
- Nêu được các thành tựu cơ bản về văn hóa, khoa học trong thời kì ấy.
Trên cơ sở đó, giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ các công trình nghệ
thuật kiến trúc, văn hóa, khoa học cho học sinh.
Ở loại bài này, thường có nhiều tranh ảnh về các công trình kiến trúc, các
thành tựu về văn hóa… Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đi từ quan sát
đến mô tả và nêu ra nhận xét. Như vậy, khai thác kiến thức từ kênh hình là

phương pháp cực kì quan trọng với dạng bài này. Tuy nhiên, để tăng tính hiệu
quả cho tiết học, giáo viên còn phải biết kết hợp tổ chức cho học sinh hợp tác
làm việc theo nhóm, tổ chức các trò chơi.
3.3. Giải pháp thứ ba: Chỉ đạo giáo viên tích cực đổi mới phương pháp, hình
thức, phương tiện dạy học kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy nhằm gây hứng thú và phát huy tính tích cực cho người học.
12


Như chúng ta đã biết mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu điểm,
nhược điểm riêng, không có phương pháp nào là vạn năng. Vấn đề là ta phải biết
phối kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt để phát huy những ưu điểm,
hạn chế thấp nhất các nhược điểm của chúng. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương
pháp dạy học cần phải theo hướng lấy học sinh làm trung tâm để phát huy tích
tích cực của người học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học muốn đạt hiệu quả cao cần thực hiện
song song với đổi mới hình thức dạy học, tăng cường sử dụng các phương tiện
dạy học.
Quá trình dạy - học phải lấy hoạt động của người học làm trung tâm, mọi
hoạt động của thầy đều hướng vào việc tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, phát
hiện, khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, tập trung vào dạy cách
học, đặc biệt giúp học sinh có nhu cầu học, biết cách tự học.
Để thực hiện các yêu cầu trên trong một bài, tôi đã chỉ đạo giáo viên dạy
học theo quy trình sau:
- GV hoặc HS đặt ra vấn đề cần giải quyết trong bài thông qua các tình
huống có vấn đề hoặc tìm hiểu kinh nghiệm của học sinh có liên quan đến nội
dung bài.
- Tổ chức cho học sinh tìm tòi, khai thác các kiến thức trong SGK, tranh
ảnh, bản đồ, sơ đồ,… Qua đó các em sẽ nắm được các nhân vật, hiện tượng, sự
kiện, lịch sử diễn ra như thế nào.

- Trên cơ sở các hình ảnh về lịch sử đã được hình thành, GV đặt ra các
câu hỏi, đưa ra các bài tập,… và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học (nhóm,
cá nhân, cả lớp, trong lớp, tham quan…) giúp học sinh bước đầu biết so sánh các
điểm giống, khác nhau, phân tích các đặc điểm, tổng hợp các nét chung của sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ...
- Từ những hiểu biết trên, giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày dưới
các hình thức khác nhau (nói, kể, viết, vẽ…) về một sự kiện, hiện tượng, nhân
vật lịch sử sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết vận dụng các
kiến thức đã học vào cuộc sống trong việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, di sản
văn hoá, lịch sử.
Như vậy, học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn ra
trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Đặc
trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp
những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện
thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể phán đoán, suy luận,… để
biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn Lịch sử trong nhà
trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp xúc với những chứng cứ vật
chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh
động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, tạo ra những biểu tượng về
con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định,
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước hết phải
kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo viên dùng
phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch
13


sử. Có thể nói, chỉ có miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái hiện được những
biến cố lịch sử quan trọng, đem đến cho học sinh những hứng thú mạnh mẽ. Do
sách giáo khoa viết rất cô đọng, trừu tượng nên tôi đã sử dụng nhiều tư liệu, kết

hợp với đồ dùng trực quan (tranh ảnh, bản đồ) để miêu tả, tường thuật. Các
phương tiện trực quan sẽ tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác
hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tạo biểu tượng lịch sử.
Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch sử còn
nhiều hạn chế. Các bản đồ, lược đồ, tranh ảnh ở sách giáo khoa còn ít, màu sắc
còn đơn điệu, thiếu đồng bộ. Trước những khó khăn đó, việc dạy học theo
hướng ứng dụng công nghệ thông tin là một giải pháp tích cực kịp thời để giải
quyết những khó khăn nêu trên. Nhận thấy điều đó, tôi chỉ đạo giáo viên soạn
bài giảng Lịch sử trên phần mềm PowerPoint. Qua các năm, trao đổi giáo án
giữa giáo viên trong khối, tham khảo các tư liệu trên Internet nên các bài giảng
soạn bằng phần mềm PowerPoint tăng cả về số lượng và chất lượng. Khi giảng
dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng. Học sinh hăng hái, sôi nổi, tích cực hoạt
động. Được tiếp xúc với tranh ảnh lịch sử sinh động, các em chủ động tiếp thu
và nắm vững kiến thức hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ
nhất”, giáo viên kế bài giảng và trình chiếu trên màn hình đã thu hút sự chú ý và
nâng cao hiệu quả tiết học rất rõ rệt. Dưới đây là một số hình ảnh minh họa
trong bài:

14


Trận chiến trên sông Bạch Đằng do Lê Hoàn lãnh đạo
Bên cạnh đó, dạy học lịch sử muốn đạt hiệu quả cao, giáo viên còn có thể
sử dụng tối đa những điều kiện cụ thể ở địa phương để tổ chức các giờ học ngoài
lớp, cho học sinh đi tham quan các di tích lịch sử, văn hoá, gặp gỡ các cá nhân
hoặc tập thể đã tham gia trong các sự kiện đó…Ví dụ khi dạy bài 4 (Khởi nghĩa
Hai Bà Trưng, năm 40) tôi gợi ý cho giáo viên tổ chức cho các em đi tham quan
đền thờ nữ tướng Lê Thị Hoa ở thôn 3, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn - một di
tích lịch sử, văn hoá - giới thiệu cho các em nắm rõ về tiểu sử một nữ tướng

trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ đó cho các em liên hệ đến các cuộc khởi
nghĩa oanh liệt trong lịch sử, giúp các em ghi nhớ công ơn các vị anh hùng, tự
hào về truyền thống vẻ vang của quê hương, đất nước…

Nhà thờ Bà Lê Thị Hoa của dòng họ Mai ở Nga Thiện, Nga Sơn
15


Cô giáo Nguyễn Thị Nụ hướng dẫn học sinh lớp 4B trường TH Nga Thiện
tham quam Di tích lịch sử Quốc gia: Đền thờ Nữ tướng Lê Thị Hoa
(Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hóa)

16


3.4. Giải pháp thứ tư: Chỉ đạo sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu hoặc các câu
chuyện liên quan đến các sự kiện lịch sử trong chương trình.
Theo quan điểm của triết học của Mác - Lênin, con đường của nhận thức
là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng lại trở
về thực tiễn. Bởi vậy cho nên trong dạy học Lịch sử cũng như dạy các môn
khác, người giáo viên phải luôn luôn nắm vững và tuân theo quy luật này thì
mới có hiệu quả cao cho nhận thức của học sinh. Trước các sự kiện, hiện tượng
lịch sử mới, giáo viên nên vào đề bằng những câu chuyện lịch sử, dẫn chứng
lịch sử, bằng tranh, ảnh hay sơ đồ, lược đồ…có liên quan để gây hứng thú và
khơi dậy nhu cầu tìm hiểu, khám phá ở trẻ. Khi trẻ đã nắm rõ vấn đề đặt ra, giáo
viên cần cho các em kiểm chứng vấn đề đó bằng thực tiễn ( hoặc bằng các câu
chuyện, tranh ảnh, mô hình, hiện vật…có liên quan ). Để có được những tài liệu
phục vụ cho “ trực quan sinh động” ấy, giáo viên có thể sưu tầm từ nhiều nguồn
như sách, báo, đài, vô tuyến đặc biệt là trên mạng Internet. Khi sử dụng những
tài liệu trên làm trực quan tôi thấy trình bày dưới dạng trình chiếu trên màn hình

mang lại hiệu quả nhất, gây hứng thú học tập cho các em nhất.
Ví dụ khi dạy bài “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên”, trước khi vào bài tôi cho các em quan sát bức tranh vẽ cảnh các bô lão
trong Hội nghị Diên Hồng kết hợp kể câu chuyện “Hội nghị Diên Hồng”. Sau
khi quan sát tranh, lại được nghe kể chuyện các em rất thích, đua nhau tìm hiểu
về nguyên nhân, diễn biễn, kết quả, ý nghĩa của cuộc kháng chiến và nhanh
chóng rút ra nội dung bài học. Cuối tiết học, giáo viên tổ chức cho các em thi kể
các câu chuyện về các tấm gương yêu nước trong cuộc kháng chiến đó như Trần
Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản,… để củng cố và kiểm chứng nội
dung bài, khuyến khích phát triển tinh thần ham học hỏi, tìm tòi, khám phá và tự
học, giúp học sinh quen dần với cách học mới.
3.5. Giải pháp thứ năm: Thường xuyên thiết kế trò chơi học tập góp phần đổi
mới phương pháp dạy học và gây hứng thú cho học sinh
Vì học sinh Tiểu học có nhu cầu được vui chơi rất lớn nên nếu ta tổ chức
hoạt động học gắn với hoạt động vui chơi sẽ tránh gây áp lực và tạo ra được
không khí vui tươi, thoải mái và gây nhiều hứng thú cho các em. Bởi vậy giáo
viên cần tích cực thiết kế các trò chơi lồng vào các hoạt động học. Khi thiết kế
trò chơi học tập trong dạy học lịch sử, giáo viên cần chú ý xác định rõ mục đích
của trò chơi là nhằm giúp gì cho hoạt động học, cần chuẩn bị những gì, cách tiến
hành ra sao và sau trò chơi rút ra được nội dung, kết luận gì?
Khi dạy Lịch sử 4, giáo viên nên thiết kế một số trò chơi như “Chọn số”,
“Xem ai nhớ nhất” để dạy các tiết ôn tập, thực hành giúp củng cố kiến thức cho
các em (như bài 6,20,29…); trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ” thường sử dụng dạy
các bài mới hoặc bài ôn (như bài 10,12, 25…); trò chơi “Ai chỉ đúng” thường
dùng dạy các bài có hoạt động làm việc với bản đồ, lược đồ (bài 2,5,10,21,…);
trò chơi “Ô chữ kì diệu” dạy các bài ôn tập tổng hợp hoặc dạy hoạt động củng cố
cuối bài (bài 6, 11, 15 20,…) (đã minh họa ở trên); trò chơi “Đố bạn” có thể áp
dụng dạy tất cả các bài (học sinh đố nhau về nội dung bài).
Sau đây tôi trình bày cách tiến hành trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ”:
17



* Mục đích: Giúp học sinh ôn tập, củng cố kiến thức đã học, phát huy sự
nhanh nhẹn, rèn luyện trí thông minh, tạo không khí vui tươi thoải mái, kích
thích khả năng tư duy, tổng hợp; giúp giáo viên củng cố bài nhanh, hiệu quả.
* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị cho mỗi học sinh một tấm thẻ (có cán,
một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ), hệ thống các ý kiến cả đúng cả sai.
Ví dụ: Với bài “Chùa thời Lý”, để củng cố về vai trò, tác dụng của chùa
thời Lý, giáo viên chuẩn bị các ý kiến như sau:
1. Chùa là nơi tu hành của các nhà sư.
2. Chùa chỉ được xây dựng ở kinh thành, do và nhân dân cùng xây dựng.
3. Chùa là nơi tế lễ của đạo Phật.
4. Chùa là trung tâm văn hoá của làng xã.
5. Chùa là nơi tổ chức các hoạt động văn nghệ, vui chơi.
6. Một số chùa nổi tiếng thời Lý là: chùa Một Cột, chùa Keo, chùa Đồng.
* Cách thực hiện trò chơi:
- Cuối tiết học, giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là một
đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi, phát thẻ cho từng em, yêu cầu học
sinh vận dụng kiến thức bài học và vốn hiểu biết của bản thân để xác định ý kiến
giáo viên đưa ra là đúng hay sai. Nếu ý kiến đúng thì giơ thẻ mặt đỏ hướng lên
bảng và ngược lại.
- Giáo viên lần lượt nêu các ý kiến. Sau mỗi ý kiến giáo viên tổng kết số
lượng các bạn trả lời đúng, sai của từng đội, cho học sinh giải thích ý kiến đưa ra
và kết luận. Cuối cùng giáo viên tổng hợp kết quả của các đội, tuyên dương đội
thắng cuộc, chốt kiến thức bài học.
3.6. Giải pháp thứ sáu: Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị chu đáo cho giờ dạy học Lịch sử.
Trong thực tế, mỗi môn học đều có vai trò, vị trí quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Do đó, chúng ta phải coi
phân môn Lịch sử là một môn học quan trọng, luôn dành thời lượng từ 35- 40
phút cho một tiết dạy, không cắt xén thời gian để dạy các môn khác.
Mỗi tiết dạy muốn thành công thì mỗi khâu của qua trình dạy học đều như

là một mắt xích quan trọng, không thể thiếu, không thể tách rời nhau, trong đó
khâu đầu tiên là chuẩn bị. Không có sự chuẩn bị tốt thì chắc chắn không thể
thành công. Bởi vậy, ta phải chuẩn bị thật chu đáo, vững vàng về kiến thức,
phương pháp, đồ dùng, phương tiện, hình thức tổ chức tiết học, dự kiến các tình
huống có thể xảy ra và cách giải quyết… Nhất là khi dạy học bằng các phương
tiện hiện đại như trình chiếu giáo án điện tử thì cần sự chuẩn bị rất công phu và
luôn phải có hai phương án. Sự chuẩn bị đó thể hiện cụ thể như sau:
* Đối với học sinh: Để giúp các em học tốt một bài lịch sử, cuối tiết dạy lịch
sử trước, thông thường giáo viên cần hướng dẫn các em chuẩn bị: ôn lại nội
dung bài cũ, trả lời các câu hỏi cuối bài (từ đó mới có cơ sở học bài mới); với
bài mới, các em cần đọc thành tiếng ít nhất 3 lần, sau đó đọc thầm, đọc kỹ phần
giải nghĩa từ.
- Tập trả lời các câu hỏi tìm hiểu nội dung cuối bài, ghi lại những băn
khoăn, thắc mắc (nếu có) về nội dung bài để cùng tháo gỡ trong tiết học.
18


* Đối với giáo viên: Để tổ chức dạy - học thành công, học sinh hiểu bài và ghi
nhớ được theo mục tiêu của tiết học, giáo viên cần chuẩn bị tốt những việc sau:
- Nắm chắc mục tiêu, yêu cầu ở từng bài. Đọc kỹ nội dung sắp dạy, trao
đổi, học tập, tìm hiểu thêm kiến thức liên quan, dự kiến các tình huống học sinh
sẽ mắc phải và cách xử lí những tình huống đó.
- Xây dựng các phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức, phương tiện
dạy học để giờ dạy nhẹ nhàng và đạt hiệu quả.
- Soạn bài cụ thể, chi tiết rõ hoạt động của thầy, của trò.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học như tranh, ảnh, bản đồ,
các câu chuyện, tư liệu lịch sử có liên quan, phiếu học tập…
- Chuẩn bị và nắm vững hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học
sinh để các em hiểu nội dung bài một cách hiệu quả nhất, từ đó tìm ra nội dung
cần ghi nhớ; Liên hệ, tích hợp với kiến thức Địa lí để tăng hiệu quả dạy học. (Vì

phân môn Lịch sử và Địa lí 4 có mối quan hệ khá mật thiết với nhau. Mỗi sự
kiện lịch sử thường gắn liền với một vị trí địa lí nhất định, còn mỗi một vị trí địa
lí lại trải qua một quá trình lịch sử phát triển nhất định).
Ngoài ra, để dạy học lịch sử đạt hiệu quả cao tôi còn hướng dẫn giáo viên
và chỉ đạo tổ chuyên môn 4, 5 phối kết hợp với các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường. Ví dụ như kết hợp với tổ chức Đoàn TNCS, Đội TNTP tổ
chức tìm hiểu và thi chuyên hiệu “Nhà Sử học nhỏ tuổi”; thi “Rung chuông
vàng” về kiến thức Lịch sử; thi trả lời nhanh các câu hỏi trong các buổi ôn tập
dưới cờ…; phối hợp với chuyên môn nhà trường in một số tấm pa-nô (về Tiểu
sử, công lao của một số nhân vật lịch sử tiêu biểu) treo ở một số vị trí quan trọng
để tất cả học sinh và giáo viên đều có thể biết.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua quá trình chỉ đạo dạy học Lịch sử lớp 4 tôi đã hướng dẫn chỉ đạo giáo
viên bằng các biện pháp trên, tôi nhận thấy: Đội ngũ giáo viên rất tự tin khi dạy
các tiết Lịch sử lớp 4 nói riêng cũng như lịch sử lớp 4,5 nói chung. Tất cả các
tiết lịch sử giáo viên trường tôi dạy khi được dự giờ đột xuất, dự giờ có báo
trước cũng như thi giáo viên giỏi các cấp đều được xếp loại giỏi. Học sinh cả 2
lớp 4 hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài. Học
sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên rõ rệt. Cuối học kì I, chất
lượng Lịch sử của khối 4 rất khả quan thể hiện ở bảng sau:
Lớ

Điểm 9, 10
Điểm 7, 8
Điểm 5, 6
Điểm dưới 5
p
số
SL TL (%)

SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%)
4A
27
6
22,2
4
14,8
15
55,6
2
7,4
4B
30
9
30,0
17
56,7
4
13,3
0
0
Còn dưới đây là kết quả khảo sát chất lượng ngày 15/3/2017:
Lớp
4A
4B


số
27
30


Điểm 9, 10
SL TL (%)
10
37,1
17
56,7

Điểm 7, 8
SL TL (%)
12
44,4
13
43,3

Điểm 5, 6
SL TL (%)
5
18,5
0
0

Điểm dưới 5
SL TL (%)
0
0
19


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Trong công tác giảng dạy, vai trò của người thầy rất quan trọng, đặc biệt là
phân môn Lịch sử. Người giáo viên chủ yếu hướng dẫn, kích thích học sinh tìm
hiểu, khám phá ra kiến thức. Giáo viên khái quát kiến thức cho học sinh một
cách đầy đủ, chính xác, ngắn gọn, có hệ thống kiến thức. Ngoài ra, còn thường
xuyên rèn luyện cho các em những kĩ năng cần thiết giúp các em có phương
pháp, vận dụng kiến thức đó học vào cuộc sống liên hệ với thực tiễn. Vì vậy,
môn học này có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông
hiện nay. Cho nên giáo viên cần vận dụng những phương pháp này một cách
linh hoạt nhằm giúp học sinh học tốt và hình thành cho học sinh một số kĩ năng
sống vô cùng quan trọng. Qua những phương pháp trên, tôi thấy các em đã có
hứng thú học tập và vận dụng vào các kĩ năng tương đối tốt. Mặc dù chưa được
hoàn thiện, nhưng cũng chứng tỏ trong các môn học, phân môn Lịch sử cần có
sự đổi mới nhận thức về vai trò môn học và đặc biệt là mới phương pháp dạy
học, giúp học sinh phát huy cao tính tích cực trong học tập.
Trên đây là một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy học Lịch sử lớp 4 nhằm giúp
giáo viên dạy tốt, học sinh học tốt và hướng học sinh vào các hoạt động tích cực
trong giờ học Lịch sử thuộc chương trình Tiểu học nói chung và chương trình
Lịch sử lớp 4 nói riêng. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý
báu của Hội đồng Khoa học ngành và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
................................................................................................................
................................................................................................................
................................................................................................................

Thanh Hóa, ngày 05 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết


................................................................................................................
................................................................................................................
................................................................................................................
................................................................................................................

Mai Thị Thủy

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 – Tập hai của NXB Giáo dục.
- Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Sách giáo viên Lịch sử và Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Sách thiết kế bài dạy Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Tư liệu dạy học Lịch sử và Địa lí lớp 4, lớp 5 của NXB Giáo dục
- Thông tư 30/2014/TT – Bộ GD và ĐT về quy định đánh giá học sinh
Tiểu học
- Thông tư 22/2016/ TT-– Bộ GD và ĐT về quy định đánh giá học sinh
Tiểu học
- Nghị định số 64/2007/NĐ – CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của Chính
phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước
- Chỉ thị số 55/2008/CT - BG& ĐT ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ giáo dục Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng
CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 - 2012.

21



MỤC LỤC
NỘI DUNG
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2 Mục đích nghiên cứu:
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1 Giải pháp thứ nhất: Chỉ đạo giáo viên phải nắm vững nội
dung chương trình lịch sử 4 và tiến trình lịch sử Việt Nam.
3.2 Giải pháp thứ hai: Chỉ đạo giáo viên nghiên cứu, lựa chọn
những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài
của chương trình Lịch sử 4.
3.3 Giải pháp thứ ba: Chỉ đạo giáo viên tích cực đổi mới
phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học kết hợp với ứng
dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm gây hứng thú và
phát huy tính tích cực cho người học.
3.4. Giải pháp thứ tư: Chỉ đạo sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu
hoặc các câu chuyện liên quan đến sự kiện lịch sử trong
chương trình.
3.5. Giải pháp thứ năm: Thường xuyên thiết kế trò chơi học tập
góp phần đổi mới phương pháp dạy học và gây hứng thú cho
học sinh.
3.6. Giải pháp thứ 6: Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị chu đáo cho
giờ dạy - học Lịch sử.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Tài liệu tham khảo

TRANG
1
1
1
1
2
3
3
3
5
5
6
11

16
16
17
18
19

22


Mẫu 1 (2)

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH

NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường Tiểu học Nga Thiện.

TT

1
2
3

4

5

6

7

8
9

Tên đề tài SKKN
Nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị dạy học phân môn từ
ngữ lớp 2.
Kinh nghiệm tìm hiểu phân
loại học sinh lớp chủ nhiệm.
Hướng dẫn học sinh giải và
khai thác bài toán giải tính

diện tích hình từ bài toán tính
diện tích hình thang.
Xây dựng bài tập rèn kỹ năng
phân biệt từ láy, từ ghép cho
học sinh tiểu học.
Kinh nghiệm ứng dụng công
nghệ thông tin trong chỉ đạo
dạy học và quản lý ở trường
tiểu học.
Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng cử hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp
Kinh nghiệm chỉ đạo nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức
cho học sinh ở trường Tiểu
học.
Kinh nghiệm chỉ đạo dạy học
môn khoa học lớp 5 theo
hường “Tích cực hóa hoạt
động học của học sinh” ở
trường Tiểu học Nga Văn
Một số biện pháp chỉ đạo dạy
học phân môn Lịch sử lớp 4

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả

đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Cấp tỉnh

C

2001-2002

Cấp tỉnh

C

2003-2004

Cấp tỉnh

C

2004-2005

Cấp tỉnh

C


2005- 2006

Cấp tỉnh

B

2008-2009

Cấp huyện

B

2011- 2002

Cấp tỉnh

B

2012-2013

Cấp tỉnh

B

Cấp huyện

A

2013-2014


2016-2017
23


góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục ở Trường Tiểu học
Nga Thiện
----------------------------------------------------

24



×