Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng phong trào giữ vở sạch viết chữ đẹp trong nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.13 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG PHONG TRÀO
GIỮ VỞ SẠCH VIẾT CHỮ ĐẸP TRONG NHÀ TRƯỜNG

Người thực hiện: Lê Thị Nguyên
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường TH Đông Hải 1
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lí

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
TÊN ĐẦU MỤC

TRANG

1. Mở đầu

Trang 2

1.1. Lí do chọn đề tài

Trang 2

1.2. Mục đích nghiên cứu



Trang 2

1.3.Đối tượng nghiện cứu

Trang 2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang 3

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

Trang 3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

Trang 3

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

Trang 3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm

Trang 3

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề


Trang 6

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà
trường
3. Kết luận, kiến nghị

Trang 12

2

Trang 12


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Viết chữ đẹp đã trở thành truyền thống của ông cha ta từ xưa đến nay. Từ
ngày xưa, con người đã rất coi trọng chữ viết. Ngày nay, phong trào: “ Giữ vở
sạch viết chữ đẹp” càng được coi trọng trong các bậc học nói chung và bậc Tiểu
học nói riêng. Nhận định về chữ viết, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói: “Nét
chữ cũng là biểu hiện của nết người”. Viết chữ đẹp không chỉ thể hiện tính cách
của mỗi con người mà viết chữ đẹp còn thể hiện nét tinh hoa, độc đáo của mỗi
dân tộc. Việc “Rèn vở sạch viết chữ đẹp” có tầm quan trọng to lớn trong sự
nghiệp trồng người để hình thành nhân cách của mỗi người. Chữ viết không
những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn
góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học môn Tiếng
Việt trong trường Tiểu học – đó là kỹ năng viết chữ. Nếu học sinh viết đúng,
đẹp, rõ ràng, đảm bảo tốc độ quy định thì học sinh có điều kiện để ghi chép bài
học tốt, nhờ vậy mà kết quả học tập tốt hơn, ngược lại viết xấu sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng học tập của các em. Chính bởi vậy mà Phòng Giáo

dục Thành phố Thanh Hóa rất coi trọng nền nếp “ Giữ vở sạch viết chữ đẹp ”
trong các trường Tiểu học, nên hàng năm đều thành lập đoàn kiểm tra “ Vở sạch
chữ đẹp ” đi kiểm tra các trường, nhằm đánh giá chất lượng dạy và học của các
nhà trường. Là một cán bộ quản lí trong nhà trường, bản thân tôi cũng hết sức
trăn trở về chất lượng Vở sạch chữ đẹp của trường mình.Tôi đã không ngừng
nghiên cứu tài liệu và cùng với kinh nghiệm bản thân tôi đã thực hiện viết sáng
kiến kinh nghiệm: “ Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng phong trào Giữ vở
sạch viết chữ đẹp trong nhà trường”, nhằm giúp giáo viên nâng cao chất
lượng giữ vở sạch viết chữ đẹp của lớp chủ nhiệm nói riêng và của toàn trường
nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm nêu và giải quyết một số vấn đề nhằm thực hiện
tốt phong trào “ Giữ vở sạch viết chữ đẹp ” ở trường Tiểu học Đông Hải 1.
1.3.Đối tượng nghiện cứu
Kinh nghiệm về việc “ Giữ vở sạch viết chữ đẹp ” ở trường Tiểu học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra.
- Quan sát.
- Nghiên cứu tài liệu (tham khảo một số bài viết về phong trào “ Giữ vở
sạch viết chữ đẹp ” trong các báo giáo dục).
- Phỏng vấn.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
+ Tôi bổ sung thêm vào phần Lí do chọn đề tài.
+ Tôi bổ sung thêm Cơ sở lí luận của Sáng kiến kinh nghiệm
3


+Tôi bổ sung thêm các giải pháp đối với học sinh
+ Tôi bổ sung thêm giải pháp đối với giáo viên: Đó là ứng dụng công nghệ
thông tin – soạn giáo án điện tử trong giờ dạy Hướng dẫn học sinh luyện viết.

2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
- Căn cứ vào nhiệm vụ năm học
- Căn cứ vào yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt ở bậc
Tiểu học.
- Căn cứ vào việc rèn luyện kĩ năng viết đúng, viết đẹp cho học sinh là vấn
đề bức thiết đối với học sinh học chương trình VNEN. Việc làm ấy không những
có tác dụng cụ thể, thiết thực đối với học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường
mà còn có tác dụng trong việc rèn đức tính kiên trì, cẩn thận cho học sinh, một
trong những đức tính cần thiết của con người sau này khi trưởng thành, lập thân,
lập nghiệp. Việc rèn chữ viết cho học sinh Tiểu học là một việc làm cực kì khó
khăn, đòi hỏi người giáo viên phải có lòng kiên trì, yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết
với công việc mình làm. Việc làm phải thường xuyên, liên tục, đồng bộ ở các
khối, các lớp, các cấp học. Rèn cho học sinh giữ đựơc vở sạch, viết chữ đẹp và
góp phần vào việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1 Vài nét về tình hình địa phương
Trường Tiểu học Đông Hải 1 nằm trên địa bàn phường Đông Hải, gần
UBND và trạm y tế phường. Là một phường được xác định là Trung tâm của
Thành Phố Thanh Hóa, diện tích hẹp, mật độ dân số đông. Có thể nói đây là một
phường có phần lớn số dân làm nghề nông, nghề nghiệp không ổn định nên
phường đã có tới 19% số hộ nghèo đói. Con em trong phường phần lớn là hiếu
học, nhưng một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến công tác giáo
dục. Cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương, các đoàn thể, ban ngành trong
phường chưa thật sự bắt tay, phát huy hết thế mạnh, trách nhiệm của mình, phối
hợp với nhà trường vượt qua khó khăn để nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2.2. Vài nét về tình hình nhà trường
Năm học 2017 – 2018 Trường Tiểu học Đông Hải 1 có:
+ Tổng số lớp: 12 lớp.
+ Tổng số học sinh: 400 em.

+ Tổng số cán bộ, giáo viên, CNV của trường: 21 đồng chí.
Trong đó: Ban giám hiệu: 2 đ/c
Giáo viên văn hóa : 10 đ/c.
Giáo viên đặc thù : 6 đ/c
Hành chính: 2 đ/c
Tổng phụ trách Đội: 1 đ/c
- Về trình độ chuyên môn :12 + 2: 1 đồng chí.

4


Đại học:18 đồng chí
Cao đẳng: 2 đồng chí
- Về cơ sở vật chất: Trường mới chỉ có 16 phòng học cao tầng, đủ cho học
sinh toàn trường học 2 buổi/ ngày. Trang thiết bị trong từng phòng học tương đối
tốt. Riêng bảng viết trên lớp chưa được kẻ ô nên việc hướng dẫn học sinh tập
viết của giáo viên gặp nhiều khó khăn.
- Phòng hiệu bộ và các phòng chức năng chưa đầy đủ.
2.2.3. Kết quả vở sạch chữ đẹp của toàn trường đầu năm học
2017 – 2018.
Lớp được
Số lượng và %vở sạch – chữ đẹp
Xếp
Ghi
kiểm tra
loại
chú
chung
Loại A
Loại B

Loại C
STT
Lớp

Số
HS

SL

%

SL

%

1

1A

30

10

33%

20

67%

2


2

1B

30

12

40%

18

60%

2

3

1C

31

15

48,3% 16

52,7%

2


4

2A

34

15

44,1% 19

55,9%

2

5

2B

39

17

43,6% 22

56,4%

2

6


3A

30

12

40%

60%

2

7

3B

31

15

48,3% 16

52,7%

2

8

3C


30

12

40%

18

60%

2

9

4A

36

12

33%

24

67%

2

10


4B

37

17

37,8% 20

62,2%

2

11

5A

38

18

47,3% 20

52,7%

2

12

5B


34

16

47%

53%

2

18

18

SL

%

2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên
Nhìn vào bảng kết quả kiểm tra Vở sạch chữ đẹp đầu năm, tôi vô cùng trăn
trở vì chất lượng vở sạch chữ đẹp không cao, phần lớn các lớp đều chỉ đạt hạng
2. Tôi chỉ đạo giáo viên tìm hiểu và nắm bắt một số nguyên nhân sau:
* Về phía học sinh:
- Các em không được rèn luyện nhiều về cách trình bày vì nhiều môn học
đã có Vở bài tập in sẵn các bài tập. Học sinh ngại viết, không có hứng thú và
lòng say mê khi viết chữ mà chủ yếu là chỉ dừng lại mức độ viết đúng.
Ở cấp Tiểu học, ngay từ những lớp đầu cấp như lớp 1 thì kĩ năng viết chữ
đúng mẫu là rất quan trọng nhưng học sinh lại không nắm được cấu tạo các con
5



chữ và kĩ năng viết đúng dẫn đến sai ngay từ những giờ tập viết đầu tiên của cấp
học.
* Về phía giáo viên.
- Chữ viết của một số giáo viên còn quá xấu nhưng không có ý thức rèn
luyện chữ viết dẫn đến không có sự mẫu mực trong chữ viết ở bảng lớp cũng
như khi chấm bài cho học sinh. Thậm chí có giáo viên viết ở bảng lớp vẫn còn
cẩu thả, không đúng mẫu, sai chính tả, tùy tiện trong cách trình bày. Nhất là
trong thời điểm mà toàn ngành đang thực hiện soạn bài trên máy vi tính thì ý
thức của giáo viên về phong trào rèn chữ đẹp hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó
chương trình dạy học theo mô hình trường học mới chiếm quá nhiều thời gian để
giáo viên chuẩn bị nội dung, đồ dùng dạy học cho một tiết học.
- Trong quá trình chấm vở luyện viết, vở chính tả của các em, giáo viên
chưa chỉ ra và viết mẫu cho các em những con chữ mà các em viết xấu, viết sai
mẫu. Chưa có những lời phê mang tính sư phạm cao để khích lệ và động viên
tinh thần học tập của các em.
- Hàng tháng chưa thường xuyên chấm vở sạch chữ đẹp, chưa nhận xét sự
tiến bộ của từng em để các em lấy đó làm mốc để tiến bộ.
* Về phía nhà trường:
- Bản thân tôi là cán bộ quản lí, tôi nhận thấy: Nhà trường mới chỉ quan
tâm chăm lo chỉ đạo các hoạt động về chuyên môn như học sinh giỏi các môn
văn hóa mà chưa coi trọng và tạo được sự chuyển biến về phong trào thi đua “
Giữ vở sạch – viết chữ đẹp”.
- Nhà trường chưa có hình thức tuyên dương khen ngợi những học sinh có
chất lượng Vở sạch chữ đẹp đạt loại A hàng tháng, hàng kỳ.
- Cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng đủ như : Bàn ghế chưa đúng
chuẩn, bảng lớp chưa kẻ ô vuông, một số phòng học điện sáng còn chưa đủ ánh
sáng. Nhà trường học chương trình VNEN, giáo viên phải dành quá nhiều thời
gian để chuẩn bị cho một tiết dạy, nên giáo viên không có nhiều thời gian rèn

chữ cho các em, việc rèn chữ còn xem nhẹ.
* Về phía phụ huynh
- Một số phụ huynh không quan tâm đến sách vở cũng như các loại bút viết
đúng tiêu chuẩn cho học sinh, nhiều em không đủ vở, bút để viết.
- Nhiều phụ huynh còn chưa nhận thức hết tầm quan trọng của phong trào “
Giữ vở sạch – viết chữ đẹp”, chỉ bắt ép học sinh học Tiếng Việt và Toán mà
quên rằng chữ viết của các em sẽ làm cho tâm hồn các em thêm phong phú, chữ
viết xấu sẽ làm giảm đi phần điểm trình bày về chữ viết trong bài làm của các
em mà bất cứ bài thi nào cũng có.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Đối với học sinh:
* Về việc giữ vở sạch:
- Tôi chỉ đạo giáo viên giáo dục ngay từ đầu năm để các em hiểu được tầm
quan trọng, ý nghĩa, tác dụng của việc giữ vở sạch, viết chữ đẹp từ những năm
6


trước và động viên các em hăng say rèn luyện để đạt được những bộ vở sạch chữ
đẹp như các anh, các chị lớp trước.
- Tôi quy định và chỉ đạo cho giáo viên phổ biến cho học sinh có đầy đủ
các loại sách vở, đồ dùng học tập, bút viết chuẩn theo quy định.
- Mỗi em phải có giấy thấm, giẻ lau, trong mỗi vở đều có tờ giấy kê tay để
vở không bị giây bẩn, không bị ướt mồ hôi khi viết.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách gọt bút chì, cách bơm mực, khi viết
không ấn bút, mớ nắp nhẹ nhàng ở dưới ngăn bàn, nếu bút bẩn cần lấy giẻ lau
lau sạch rồi mới viết.
- Giáo viên nhắc nhỏ học sinh mở, gấp vở nhẹ nhàng, không để quăn mép
vở.
- Hàng ngày bàn học luôn được lau sạch, học sinh rửa tay trước khi vào
lớp.

- Nếu trong vở viết sai, cần dùng thước gạch chân, không đựơc tẩy xoá.
- Sau mỗi buổi học tự giác cất vở vào tủ lớp.
* Về việc rèn chữ đẹp
- Ngay đầu năm học tôi chỉ đạo chuyên môn phổ biến lại cho giáo viên các
quy về chữ đẹp, cách viết các nét chữ, chữ cái cho đúng, đẹp.
- Chỉ đạo giáo viên rèn chữ ở bốn thời điểm: Trong giờ tập viết, trong giờ
chính tả, trong các giờ học ở nhà.
- Học sinh nắm vững cấu tạo của chữ, các con chữ. Nắm vững tư thế ngồi
viết, cách cầm bút, khoảng cách từ mắt đến vở viết là 25- 30 cm.
- Yêu cầu học sinh nắm vững cách trình bày các bài văn xuôi, các thể thơ,
cách viết hoa danh từ riêng, cách viết hoa chữ cái đầu dòng.
2.3.2. Đối với giáo viên.
Tôi chỉ đạo giáo viên làm tốt những giải pháp sau:
1.Giáo viên rèn chữ:
Chúng ta thường nói rằng: “ Thầy nào – trò nấy”. Quả thật, chữ viết của
giáo viên là vấn đề có tính chất quyết định, bởi vì giáo viên luôn là tấm gương
đối với học sinh về tất cả các mặt, nhất là học sinh Tiểu học và đặc biệt là các
lớp đầu cấp thì thầy cô giáo luôn là hình ảnh rất tài giỏi, đẹp đẽ và mẫu mực.
Khi vào các lớp đầu cấp, học sinh bắt đầu cầm bút viết những nét chữ đầu tiên
thì chữ viết của giáo viên ở bảng lớp, ở con chữ cô viết mẫu là rất quan trọng.
Các em sẽ nhìn, quan sát và bắt chước những nét chữ từ đơn giản đến phức tạp
của cô giáo. Thực tế thấy rằng nếu giáo viên viết chữ đẹp và có y thức rèn chữ
viết thì chất lượng chữ viết của lớp đó sẽ cao và qua quan sát ta thấy rằng nét
chữ của các lớp khác nhau nhưng trong một lớp thì tương đối giống nhau và rất
giống chữ của giáo viên.
Vì vậy tôi chỉ đạo toàn trường như sau:
- Trước hết người giáo viên cần phải coi trọng chữ viết thường ngày của mình
trên bảng lớp, đây là trang viết mẫu mực đầu tiên của mình cho học sinh thấy.
7



- Giáo viên cần viết đúng chính tả, đúng mẫu, rõ ràng và ngay ngắn, cần
phải quy định cho tất cả giáo viên cách trình bày lề bảng, dòng chữ ghi ngày
tháng năm, tên môn học, tên bài học cần được viết rất mẫu mực không qua loa
và tuyệt đối là không được sai chính tả. Bên cạnh đó là lời phê, lời nhận xét của
giáo viên trong bài làm của học sinh cũng vậy, kể cả khi giáo viên ghi sổ liên
lạc.
- Giáo viên phải có vở luyện viết những bài sẽ dạy cho học sinh, nộp vở
luyện viết cùng hồ sơ giảng dạy để chuyên môn kí duyệt và kiểm tra hàng tuần.
- Yêu cầu giáo viên hàng tuần trao đổi vở luyện viết với đồng nghiệp để
cùng nhau đánh giá nhận xét, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để chữ viết của mỗi
giáo viên ngày càng đúng mẫu và đẹp.
- Trong mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đều tuyên dương và trưng bày
những cuốn vở luyện viết đẹp của giáo viên để khích lệ tinh thần của giáo viên
và cũng là để cho tất cả giáo viên trong Hội đồng nhà trường học tập.
2. Giáo viên kiểm tra đồ dùng học tập của học sinh.
- Vào đầu năm học mới giáo viên chủ nhiệm lớp phải tiến hành kiểm tra
sách vở, đồ dùng học tập của học sinh, hướng dẫn học sinh nên dùng loại vở
nào, dùng loại bút nào để luyện viết. Hướng dẫn học sinh cách bọc vở và bảo
quản, giữ gìn sách vở như thế nào trong năm học.
Giáo viên nên định hướng cho học sinh một số dụng cụ học tập như sau:
- Bút để học sinh viết có rất nhiều loại: Bút phải bơm mực và bút không
phải bơm mực
+ Đối với bút bơm mực nên chọn bút Trường Sơn hoặc bút Nét Hoa. Loại
bút này có nhiều ưu điểm: Ngòi Trường Sơn tạo được nét thanh, nét đậm. Thân
bút thon đều, dài, cân đối phù hợp cho học sinh cầm viết.
+ Đối với bút không bơm mực: bút kim, bút bi.
Loại bút nét chữ đẹp nhất là bút Lá tre.
- Có đầy đủ bút thay thế khi bút các em bị hỏng.
+ Vở: Cần rõ ràng dòng kẻ, không nhoè. Vở loại tốt nhất là do công ty giấy

Hồng Hà sản xuất.
+ Mực: Pha vừa phải, viết trơn, nên chọn mua mực Thiên Long hoặc mực
Mic.
+ Có đầy đủ thước cho các em sử dụng. Mua loại thước làm bằng mê ca.
- Hướng dẫn cho học sinh các tiêu chuẩn cần phấn đấu để đạt danh hiệu: “
Vở sạch chữ đẹp”.
- Thống nhất trong cả lớp từng loại vở viết cho từng môn. Hướng dẫn cách
trình bày ở vở của học sinh trong từng thể loại bài, cách kẻ vở khi hết bài, hết
môn, hết ngày, hết tuần. Cách kẻ ô để xếp loại vở sạch chữ đẹp hàng tháng.
3. Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học.
- Tôi yêu cầu giáo viên sử dụng triệt để bộ chữ mẫu. Treo bảng chữ mẫu
lên tường để học sinh tiện theo dõi.
8


4. Giáo viên khảo sát phân loại học sinh.
- Ngay từ đầu năm học, sau khi phân lớp tôi yêu cầu giáo viên khảo sát
phân loại chữ viết của học sinh để có hướng kèm cặp những học sinh viết chữ
xấu và có kế hoạch bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu, viết chữ đẹp.
- Căn cứ vào kết quả khảo sát, tôi yêu cầu giáo viên chia học sinh thành 3
nhóm:
Nhóm: Học sinh viết chữ đẹp ( Chuẩn và đúng mẫu quy định)
Nhóm: Học sinh mắc tật chữ ( Gồm những học sinh viết sai mẫu cố định ở
một vài con chữ)
Nhóm: Học sinh viết xấu (Gồm những học sinh viết không đúng mẫu, thế
chữ không ổn định
5. Giáo viên có biện pháp rèn luyện cho từng nhóm cách Giữ vở sạch – viết
chữ đẹp:
Để có vở sạch chữ đẹp, yêu cầu vở phải sạch sẽ, không quăn mép và chữ
phải đẹp.

+ Về vở sạch: Tôi chỉ đạo giáo viên yêu cầu các em giữ vở cho cẩn thận
không được để quăn mép giây mực. Giáo viên nên mua cho mỗi em một túi ni
lông để đựng vở, khi viết để xuống dưới kê cho vở khỏi bị bẩn bìa. Mỗi quyển
vở giáo viên làm cho học sinh tờ giấy gập trang để khi các em mở vở đỡ mất
thời gian, không bị nhàu vở. Bên cạnh đó giáo viên cần làm cả tờ giấy lót tay
cho các em để vở khỏi bị bẩn không nhoè chữ. Trước khi viết giáo viên kiểm tra
tay của học sinh, yêu cầu rửa tay sạch sẽ. Khi viết tuyệt đối không được tẩy xoá.
Khi viết vở yêu cầu để vở chếch 30 o và để mở vở trên mép bàn, có như vậy vở
mới không bị quăn mép. Khi sang trang lấy ngón tay lật khẽ từng trang để vở
không bị nhàu nát.
+ Về chữ đẹp: Giữ vở đã khó nhưng việc viết đẹp lại càng khó hơn. Vì vậy,
mỗi khi viết bài giáo viên yêu cầu các em ngồi đúng tư thế như hình ảnh trong
vở tập viết. Ngồi đúng tư thế không những các em viết đẹp mà còn phòng chống
bệnh cận thị, cong vẹo cột sống … Những học sinh ngồi không đúng tư thế là do
hay tỳ ngực vào bàn. Cầm, đọc sách không đúng khoảng cách. Vì vậy giáo viên
cần nhắc nhở học sinh thực hiện tốt yêu cầu này.
- Cầm bút đúng giúp cho việc giữ sạch đôi tay, giữ sạch vở và viết lâu
không mỏi tay. Khi viết không được cầm bút dựng đứng mà phải cầm bút hơi
nghiêng về phía bên phải, tay luôn ở tư thế nắm hờ không được nắm chặt. Chỉ
được cầm bút bằng 3 ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa.
- Trong giảng dạy học sinh không chỉ được luyện chữ đứng nét đều mà còn
viết chữ đứng nét thanh, nét đậm, chữ nghiêng, chữ sáng tạo. Bài viết muốn có
nét thanh nét đậm phụ thuộc vào đưa bút. Những nét chữ đậm nằm ở những nét
đưa bút xuống còn nét thanh thì đưa bút lên. Vậy khi đưa bút lên thì đưa nhẹ tay,
nét đậm ấn mạnh tay hơn một chút. Chữ nghiêng thì cầm bút nghiêng khoảng
45 0..

9



- Thực tế nhiều em nét chữ rất đẹp nhưng khoảng cách giữa các nét chữ
trong một chữ, khoảng cách giữa chữ nọ với chữ kia không đều. Tật chữ học
sinh mắc nhiều nhất là chữ: h , l , k , b , g , nh , th.
- Để tạo khoảng cách đều trong bài viết thì giáo viên cần luyện cho học
sinh luyện chữ o cho thật chuẩn. Bởi vì chữ o làm chuẩn cho học sinh tạo ra
khoảng cách các nét chữ và giữa các chữ.
- Đối với nhóm học sinh mắc tật chữ kể trên, giáo viên luyện nhiều cho
học sinh nét “ Khuyết trên, khuyết dưới ” hoặc “ Nét cong, nét thẳng ”. Những
em mắc tật nhiều thì có riêng quyển luyện viết ở nhà. Hằng ngày chỉ cần yêu cầu
luyện viết : chữ - từ – tên riêng khoảng 5 – 6 dòng và giáo viên thường xuyên
kiểm tra chấm chữa bài.
- Đối với nhóm học sinh viết chữ xấu: Giáo viên dùng một cuốn vở ô ly,
viết mẫu tất cả các chữ cái theo từng dòng, yêu cầu học sinh viết theo mẫu. Giáo
viên nhắc nhở học sinh điểm đặt bút, điểm kết thúc của từng nét chữ. Sau khi
giáo viên kiểm tra thấy các nét chữ của các em đã chuẩn, giáo viên tiến hành cho
học sinh ghép chữ và tiếp tục luyện viết từng chữ, nâng dần lên luyện viết từng
từ, từng câu, rồi tiến tới trình bày cả bài. Cũng như đối với nhóm học sinh mắc
tật chữ, tôi yêu cầu giáo viên thường xuyên chấm chữa bài và kịp thời động viên
sự tiến bộ của các em.
- Giáo viên luyện chữ cho học sinh không chỉ luyện viết trên giấy mà còn
phải luyện viết trên bảng tay bằng phấn. Có như vậy học sinh mới luôn có ý thức
được việc làm của mình.
6- Giáo viên hướng dẫn học sinh tập viết và luyện viết bằng giáo án điện tử
- Thời đại công nghệ thông tin phát triển, việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào giảng dạy là việc làm vô cùng cần thiết ở tất cả các môn học, đặc biệt
thiết kế các tiết dạy Tập viết; Chính tả cho HS đã mang lại hiệu quả cao trong
việc rèn chữ viết.
- Tôi chỉ đạo giáo viên thiết kế trang giáo án điện tử động – đặt hiệu ứng
cho từng điểm đặt bút, cho từng nét chữ, từng con chữ, từng dấu thanh.....Trong
quá trình hướng dẫn HS luyện viết, giáo viên kích từng hiệu ứng, học sinh quan

sát nhiều lần và ghi nhớ đựơc các cách viết chữ ngay trên lớp.
- Trong một tiết luyện viết, HS rất dễ chán nản, tôi yêu cầu giáo viên quan
tâm đến tất cả các đối tượng học sinh, cho các em được tập viết chữ trên các
trang giáo án điện tử, HS được xoá đi viết lại với công nghệ hiện đại nên HS rất
hứng thú rèn chữ.
7- Xếp chỗ ngồi cho học sinh.
- Sau khi giáo viên khảo sát, phân loại chữ của học sinh theo nhóm, tôi yêu
cầu giáo viên xếp chỗ ngồi cho học sinh như sau:
Ghép học sinh ngồi theo nhóm đôi: Cứ 1 học sinh viết chữ đẹp ghép với 1
học sinh viết xấu, mắc tật chữ. Em viết chữ gần đẹp ngồi cạnh em viết chữ trung
bình, giao công việc cho các nhóm. Cuối tuần giáo viên phải nhận xét các nhóm.

10


Hằng tháng phải động viên khen thưởng những đôi bạn tiến bộ bằng quyển vở,
cái bút…Việc làm này phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập.
8- Giáo viên chấm, chữa bài.
+Vở chính tả: Tôi chỉ đạo giáo viên tranh thủ chấm 100% số bài các em
viết và chữa kịp thời cho các em. Em nào viết xấu trình bày chưa đẹp rút kinh
nghiệm ngay, chấm bài tay đôi cùng các em để các em kịp thời sửa chữa. Trong
tiết học, khi chấm bài xong nên cho học sinh đi khoe vở và tuyên dương để
động viên học sinh một cách kịp thời.
+ Giáo viên phải sửa lỗi và viết mẫu cho học sinh những con chữ mà các
em viết sai mẫu. Có những lời phê mang tính sư phạm cao thể hiện đúng tinh
thần của TT 22/2016 về đánh giá học sinh để khích lệ và động viên tinh thần các
em.
+ Chấm, xếp loại vở sạch chữ đẹp theo từng tháng, nhận xét sự tiến bộ của
từng em để các em có hướng phấn đấu.
9- Giáo viên có hình thức khen thưởng

+ Hằng ngày tôi yêu cầu giáo viên luôn động viên các em mỗi khi viết vở,
tuyên dương những em có tiến bộ. Trao đổi với Ban chấp hành cha mẹ của lớp,
có những phần thưởng nho nhỏ thưởng cho các em sau mỗi tháng xếp loại vở
sạch chữ đẹp.
2.3.3. Đối với nhà trường.
- Tôi đề nghị với Ban chấp hành cha mẹ học sinh của trường tạo mọi điều
kiện đầy đủ về cơ sở vật chất. Phòng học đủ ánh sáng, mát về mùa hè, ấm về
mùa đông, có đầy đủ hệ thống điện phục vụ cho việc dạy và học vào những buổi
tối trời. Bảng của giáo viên phải được kẻ ô vuông để giáo viên và học sinh viết
đúng mẫu. Bảng được treo ở độ cao vừa phải. Bảng của học sinh tôi yêu cầu
mua bảng Mic kẻ ô nhỏ. Bàn ghế của học sinh đủ số lượng, độ cao vừa phải.
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi chỉ đạo cho giáo viên phải tuyên
truyền cho phụ huynh biết về vai trò quan trọng của phong trào “ Giữ vở sạch viết chữ đẹp”, hướng dẫn phụ huynh trong việc mua sắm đồ dùng sách vở, bút
viết cũng như cách bọc vở cho các em, phổ biến cho phụ huynh biết các tiêu
chuẩn cụ thể khi xếp loại Vở sạch chữ đẹp hàng tháng.
- Hàng tháng, hàng kì nhà trường sẽ thông báo tình hình học tập và rèn
luyện chữ viết của học sinh qua sổ liên lạc để phụ huynh có kế hoạch kèm cặp
học sinh ở nhà.
- Tổ chức cho học sinh và giáo viên thi viết chữ đẹp mỗi học kì 2 lần, sau
đó tiến hành trưng bày sản phẩm đẹp và thực hiện tốt mô hình “ Câu lạc bộ viết
chữ đẹp của giáo viên và học sinh ”
- Tổ chức phát thưởng và tuyên dương những cá nhân đạt giải sau mỗi kì
thi trước toàn trường để khích lệ và động viên tinh thần của tất cả giáo viên và
học sinh.

11


2.3.4. Đối với phụ huynh
- Mua sắm đầy đủ đồ dùng sách vở cho con em theo đúng quy định mà giáo

viên đã phổ biến.
- Phối kết hợp cùng với giáo viên kèm cặp học sinh luyện viết ở nhà.
- Khích lệ động viên, tạo tâm lí thoải mái cho các em trong quá trình học
tập ở nhà.
- Có thông tin phản hồi kịp thời cho giáo viên về tình hình học tập ở nhà
của học sinh.
- Tạo cho các em góc học tập ở nhà có đủ ánh sáng, ngăn nắp, gọn gàng để
các em thoải mái học tập, luyện viết và không bị mất sách vở.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Cuối năm học 2017 – 2018, qua đợt kiểm tra của đoàn kiểm tra Phòng giáo
dục Thành phố, kết quả kiểm tra Vở sạch chữ đẹp của trường tôi đạt như sau:
Lớp được kiểm tra

Số lượng và %vở sạch – chữ đẹp
Loại A

STT

Lớp

Loại B

Loại C

Số HS
SL

%


SL %

Xếp Ghi
loại
chú
chung

SL %

1

1A

30

15

50%

15

50%

1

2

1B

30


21

70%

9

30%

1

3

1C

31

30

97%

1

3%

1

4

2A


34

21

62%

13

38%

1

5

2B

39

24

61,5% 15 38,5%

1

6

3A

30


22

73,3%

26,7%

1

7

3B

31

21

67,7% 10 32.3%

1

8

3C

30

23

76,7%


23,3%

1

9

4A

36

16

44,5% 20 55,5%

2

10

4B

37

25

67,6% 12 32,4%

1

11


5A

38

19

50%

19

50%

1

12

5B

34

18

53%

16

47%

1


8
7

3. Kết luận, kiến nghị
Từ những kết quả đạt được nêu trên chính là sự nỗ lực phấn đấu của cả cô
và trò , cùng vai trò của các cấp lãnh đạo nhà trường và phụ huynh học sinh.Vì
vậy tôi xin có một số đề xuất và kiến nghị như sau:
* Đối với giáo viên :
- Không ngừng rèn luyện để có chữ viết đẹp.
12


- Chấm chữa bài và sửa lỗi thường xuyên cho học sinh.
- Biết cách tổ chức cho học sinh kèm cặp giúp đỡ lẫn nhau.
- Biết cách kết hợp với phụ huynh học sinh với ban giám hiệu nhà trường
để động viên tuyên dương học sinh kịp thời.
- Phải yêu cầu nhà trường đảm bảo về cơ sở vật chất đầy đủ thiết bị dạy học
về học khi học môn tập viết luyện chữ.
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng sách vở cho các em
* Đối với học sinh :
- Không ngừng rèn luyện để có chữ viết đẹp.
- Có ý thức trong việc rèn chữ giữ vở
- Cùng nhau giúp đỡ trong học tập. Học sinh viết chữ đẹp cố gắng hơn nữa,
biết giúp bạn yếu. Học sinh yếu kém chăm chỉ luyện chữ
- Phải có dụng cụ học tập để luyện chữ ở lớp, ở nhà
* Đối với phụ huynh.
- Mua sắm đầy đủ dụng cụ học tập cho các em.
- Phối hợp cùng nhà trường giúp đỡ các em ở nhà
* Đối với nhà trường.

Đáp ứng được yêu cầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho viêc dạy và học.
- Chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức kết hợp giữa giáo viên và gia đình để động
viên, giúp đỡ các em. Tuyên truyền trên mạng lưới thông tin đại chúng về phong
trào rèn chữ giữ vở của nhà trường một cách thường xuyên.
- Thường xuyên kiểm tra để đánh giá xếp loại và theo dõi tình hình chất
lượng vở các lớp.
- Động viên và có phần thưởng đối với tập thể cá nhân xuất sắc trong
phong trào “ Giữ vở sạch – viết chữ đẹp”
- Hàng tháng tổ chức thi một bài thi viết chữ viết để thi đua.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong việc chỉ đạo phong trào “ Giữ
vở sạch viết chữ đẹp”. Để phong trào này càng phát triển tốt hơn, tôi rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các bạn bè đồng nghiệp
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đông Hải, Ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác
XÁC NHẬN CỦA BGH
Người viết

Lê Thị Nguyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13


1.
2.
3.
4.

Vở tập viết lớp 1, 2, 3.

Vở thực hành luyyện viết các lớp 1,2,3,4,5
Các tài liệu hướng dẫn luyện viết
Các tập san giáo dục.

DANH MỤC
14


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Nguyên
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường Tiểu học Đông Hải 1 - Thành
phố Thanh Hóa.

TT
1.

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)


Hướng dẫn học sinh lớp 3
giải Toán bằng sơ đồ đoạn

2.

thẳng.
Phong trào xã hội hoá ở

3.

trường TH Lý Tự Trọng.
Một số biện pháp chỉ đạo xây
dựng phong trào giữ vở viết

4.

Năm học
đánh giá xếp
loại

Sở

C

2008 - 2009

Sở

C


2009 - 2010

Sở

C

2012 - 2013

Sở

C

2015 - 2016

chữ đẹp.
Chỉ đạo giáo viên một số biện
pháp tổ chức trò chơi dân
gian cho học sinh Tiểu học.

15



×