Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số biện pháp xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường tiểu học ngư lộc i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.91 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường tại trường
Tiểu học Ngư Lộc I
2.1. Khái quát về tình hình địa phương, xã hội và nhà trường
2.2. Thuận lợi, khó khăn:
2.3. Kết quả của thực trạng
3. Các biện pháp xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường
3.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, giáo viên và phụ huynh
học sinh.
3.2. Tăng cường vai trò của cán bộ quản lý nhà trường, đặc biệt là
đồng chí Hiệu trưởng cũng như phát huy sức mạnh tổng hợp của
giáo viên và học sinh trong việc xây dựng và phát triển văn hóa nhà
trường
3.3. Xây dựng và thực hiện triệt để các chuẩn mực văn hóa (bộ quy
tắc vàng) trong nhà trường
3.4. Tổ chức thực hiện các cuộc vận động và phong trào xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực một cách hiệu quả
3.5. Khích lệ phong trào học tập, nâng cao năng lực chuyên môn của
đội ngũ giáo viên
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO



Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
4
5
6
7
7

13
14
15
16
17
19
19
20


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đã xác định: Xây dựng nền văn hóa

và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.[2]
Trong một tổ chức nói chung cũng như một nhà trường, văn hóa luôn tồn
tại trong mọi hoạt động của tổ chức đó. Trong đó, văn hóa nhà trường được các
nhà nghiên cứu định nghĩa: Văn hóa nhà trường có thể hiểu là nhất trí cơ bản,
niềm tin và các giá trị được chia sẻ tạo nên cái tôi và cách làm việc của nhà
trường, cũng như định hướng cách cư xử giữa các thành viên của nhà trường với
nhau được phản ánh qua các hiện thực văn hóa.[1]
Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường tạo ra môi trường quản lý ổn định,
giúp cho nhà trường thích nghi với môi trường bên ngoài, tạo ra sự hòa hợp môi
trường bên trong. Văn hóa nhà trường sẽ giúp nhà trường trở thành trung tâm
văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội,
góp phần quan trọng tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện.
Đối với giáo viên, văn hóa nhà trường tạo dựng và nuôi dưỡng bầu không
khí cởi mở, dân chủ, hợp tác, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau; thúc đẩy sự sáng tạo
cá nhân, tạo nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên và đảm bảo cho
sự hợp tác vì mục tiêu chung.
Đối với học sinh, văn hóa nhà trường tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò
điều chỉnh hành vi. Khi được giáo dục trong môi trường văn hóa và thấm nhuần
hệ giá trị văn hóa, học sinh sẽ hình thành được những hành vi chuẩn mực mà
quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức các em niềm tin nội tâm sâu sắc vào
những điều tốt đẹp; từ đó khao khát cuộc sống hướng thiện và sống có lý tưởng.
Đồng thời văn hóa nhà trường giúp các em khả năng thích nghi với xã hội. Một
con người có văn hóa thì trong con người đó luôn hội tụ đầy đủ những giá trị
đạo đức căn bản, đó là khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con người, sống có trách
nhiệm với bản thân và xã hội…Do vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát
sinh, dù là chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết

hành vi một cách hài hòa, các em có thể điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh, ứng
xử hợp lẽ, hợp với lòng người và cuộc sống.
Như vậy, văn hóa nhà trường là một thứ tài sản lớn của nhà trường, góp
phần tạo động lực làm việc cho các thành viên trong tổ chức, khuyến khích sự
sáng tạo và đổi mới, khuyến khích giáo viên cải tiến phương pháp nâng cao chất
lượng dạy và học, khuyến khích đối thoại và hợp tác, chia sẻ quyền lực và nâng
cao tính tự chịu trách nhiệm của các thành viên. Bên cạnh đó, nó còn hỗ trợ điều
phối, kiểm soát, hạn chế tiêu cực và xung đột; nâng cao chất lượng các hoạt
động của nhà trường. Văn hóa nhà trường lành mạnh nuôi dưỡng bầu không khí
1


cởi mở, dân chủ, mỗi cán bộ giáo viên đều hiểu rõ trách nhiệm, tích cực tham
gia vào việc ra các quyết định dạy và học. Ở đó, con người được coi trọng, được
cổ vũ hoàn thành công việc và công nhận sự thành công của mỗi nguời.[1] Đó là
điều mà bất kỳ nhà trường nào cũng mong muốn phấn đấu đạt được.
Trong khi đó, việc tìm ra các biện pháp về đổi mới phương pháp quản lý, biện
pháp chỉ đạo dạy - học trong nhà trường được nhiều nhà quản lý đầu tư nghiên cứu thì
việc tìm ra các biện pháp xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường lại ít được quan
tâm. Năm học 2013-2014, tôi được thuyên chuyển về công tác tại trường Tiểu
học Ngư Lộc I. Từ việc tìm hiểu, làm quen với môi trường mới, tôi đã có những
cảm nhận thú vị về nét văn hóa nhà trường, về phụ huynh, về tập quán của địa
phương như cách quản lý của hiệu trưởng, về đội ngũ, về học sinh, về cảnh
quan, về sự thân thiện, về những lễ hội của địa phương….Từ những cảm nhận
đó đã làm tôi quan tâm tìm hiểu về văn hóa nhà trường và được biết đối với
trường Tiểu học Ngư Lộc I thì việc xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường hầu như
chưa được các thế hệ quản lý đưa vào tìm tòi, nghiên cứu thành một đề tài cụ thể.
Xuất phát từ mong muốn khai thác các vai trò to lớn của văn hóa nhà trường,
mong muốn như là một sự mở đầu để các nhà quản lý của nhà trường nghiên cứu phát
triển thành một đề tài rộng hơn về xây dựng văn hóa nhà trường và với mục tiêu tiếp

tục nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường, góp phần đào tạo những con
người có văn hóa, có kiến thức, thực hiện hiệu quả mục tiêu của Đảng đã đề ra, tôi xin
được nghiên cứu về “Một số biện pháp xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường để
nâng cao chất lượng giáo dục ở trường Tiểu học Ngư Lộc I”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài nhằm đề xuất một số biện
pháp xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà trường, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững danh hiệu
trường chuẩn quốc gia mức độ 2.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này đi nghiên cứu nội dung, cách thức xây dựng văn hóa nhà trường;
nghiên cứu thực trạng về văn hóa nhà trường và đúc kết thành các biện pháp xây
dựng và phát triển văn hóa nhà trường tại trường Tiểu học Ngư Lộc I.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sử dụng nhóm các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận: nghiên cứu lý luận về văn hóa,
văn hóa nhà trường, nghiên cứu về một số Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát về tình
hình nhà trường, địa phương trước và sau khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê, xử lý dữ liệu: đánh giá thực trạng của nhà trường
và hiệu quả sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm để khẳng định tính đúng
đắn của các biện pháp đã thực hiện.

2


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết, văn hóa xuất hiện từ khi có loài người, có xã hội.
Văn hóa tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó. Nếu môi

trường tự nhiên là “cái nôi” đầu tiên nuôi sống con người, để loài người hình
thành và sinh tồn thì văn hóa là “cái nôi” thứ hai giúp con người trở thành
“người ” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng
vươn tới chân - thiện - mỹ. Mà để có được những con người văn hóa trước hết
phải được bắt đầu từ văn hóa của gia đình, văn hóa của nhà trường.
* Khái niệm văn hóa: Có nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng tất cả đều tựu
trung lại ở hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Trong đó, UNESCO đã định nghĩa
về văn hóa:
- Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là một tổng thể các đặc trưng diện mạo về
tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm, khắc họa lên bản sắc của một cộng đồng,
gia đình, xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những truyền thống tín
ngưỡng . [1]
- Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp: Văn hóa là một tổng thể những hệ thống
biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng đồng
khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Văn hóa bao gồm những giá trị để đánh giá
một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, có đạo đức hay vô đạo đức, đúng hay
sai…) theo cộng đồng ấy. [1]
Về chức năng và nhiệm vụ: Như một thuộc tính quan trọng bậc nhất, văn
hóa chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của con người. Văn hóa
tổ chức và điều chỉnh xã hội, giúp con người giao tiếp và thông tin; văn hóa giáo
dục và đưa con người gia nhập vào cộng đồng xã hội. Văn hóa vừa là nền tảng
tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu và động lực phát triển của xã hội xuyên suốt
thời gian và không gian. Văn hóa là chất men gắn kết con người trong cộng
đồng.
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người với xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn
hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của

con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra.
* Khái niệm văn hóa tổ chức: Văn hóa tổ chức là tập hợp các giá trị và quy
tắc được các cá nhân và các nhóm trong một tổ chức chia sẻ với nhau. Các giá
trị và quy tắc này quy định cách ứng xử của mọi người với nhau và giữa những
người trong tổ chức với các bên có liên quan nằm ngoài tổ chức.
* Khái niệm văn hóa nhà trường: Cũng như văn hóa, có nhiều định nghĩa
về văn hóa nhà trường. Tuy nhiên có thể hiểu một cách tổng quát: Văn hóa nhà
3


trường (school culture) là nhất trí cơ bản, niềm tin và các giá trị được chia sẻ tạo
nên cái tôi và cách làm việc của nhà trường, cũng như định hướng cách cư xử
giữa các thành viên của nhà trường với nhau, được phản ánh qua các hiện thực
văn hóa.[1]
Văn hóa nhà trường liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của
một nhà trường, nó biểu hiện trước hết trong tầm nhìn, sứ mạng, triết lý, mục
tiêu, các giá trị, phong cách lãnh đạo, quản lý…bầu không khí tâm lý. Tất cả
được thể hiện thành hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng
xử… được xem là tốt đẹp và được mỗi thành viên trong nhà trường chấp nhận.
Văn hóa nhà trường được xác định ở 3 yếu tố: Yếu tố hiện thực bao gồm
các thành tố như biểu tượng, nghi lễ, giai thoại, các mẫu hành vi nhìn và nghe
thấy; các giá trị niềm tin (ý thức về cái phải làm); các chức năng về hành vi (các
nhất trí cơ bản).
Văn hóa nhà trường tác động đến mọi hoạt động của nhà trường, tạo nên
động lực phát triển của nhà trường, nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên
và chất lượng học tập của học sinh, nâng cao vị thế của nhà trường đối với cộng
đồng xã hội, giúp nhà trường tạo nên thương hiệu.
2. Thực trạng về xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường ở trường

Tiểu học Ngư Lộc I.
2.1. Khái quát về tình hình địa phương, xã hội và nhà trường
2.1.1. Tình hình địa phương và xã hội hiện nay:
Ngư Lộc là xã nghèo bãi ngang ven biển, đông dân, đất đai chật hẹp (hơn
17 nghìn dân/ 0,56 km2 đất liền), là nơi tiếp giáp, giao lưu với nhiều địa phương
khác. Nhân dân sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt, chế biến và buôn bán hải sản.
Bên cạnh đó có một số hộ dân sống bằng nghề kinh doanh hay làm dịch vụ
khác; một bộ phận đi làm ăn ở nước ngoài hoặc địa phương khác bằng các nghề
buôn bán, lao động giúp việc.
Địa phương có truyền thống hiếu học, nét phong tục tập quán đặc sắc, hàng
năm có tổ chức lễ hội Cầu ngư và 5 năm lại có hội đua thuyền. Người dân có lối
sống mộc mạc, nói năng suồng sã kiểu “ăn sóng, nói gió”.
Xã hội phát triển, việc sử dụng mạng xã hội rộng rãi, có thể nói tất cả các
độ tuổi đều tham gia cộng đồng mạng. Trong khi đó, việc sàng lọc các thông tin,
hình ảnh đưa lên mạng xã hội nói chung chưa chặt chẽ.
2.1.2. Tình hình nhà trường:
Trường Tiểu học Ngư Lộc I là một trong 4 trường của xã Ngư Lộc. Trường
nằm ở vị trí trung tâm của xã, cạnh trường Trung học cơ sở Ngư Lộc và trường
Tiểu học Ngư Lộc II.
Về quy mô, cơ cấu của trường: Nhà trường có đầy đủ các tổ chức theo quy
định. Đó là: Chi bộ Đảng có 34 đảng viên; Nhà trường có 45 cán bộ, giáo viên,
trong đó có 41 đồng chí đạt trình độ trên chuẩn, 4 đồng chí có trình độ đạt
chuẩn; Chi đoàn thanh niên có 21 đồng chí; có 777 học sinh, chia thành 25 lớp.
Về cơ sở vật chất: có 25 phòng học cao tầng; 1 phòng đa năng; 1 phòng dạy
Mỹ thuật, 1 phòng dạy Âm nhạc, 1 phòng truyền thống, 1 phòng y tế, 1 phòng
4


sinh hoạt Đoàn – Đội. Khu hiệu bộ gồm phòng hiệu trưởng, phòng phó hiệu
trưởng, phòng các bộ phận; Có khu vệ sinh đúng quy cách, có nước sạch và

nước tinh khiết cho giáo viên và học sinh sinh hoạt.
2.2. Thuận lợi, khó khăn:
2.2.1. Thuận lợi:
- Nhà trường thường xuyên nhận được sự chỉ đạo kịp thời của Phòng Giáo
dục - Đào tạo Hậu Lộc, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo chính quyền địa
phương, Hội cha mẹ học sinh. Bên cạnh đó, nhà trường nhận được sự ủng hộ to
lớn về vật chất của một số doanh nghiệp trên địa bàn xã và sự ủng hộ của phụ
huynh học sinh.
- Nhà trường có cơ sở vật chất khang trang, trang thiết bị dạy học tương đối
đầy đủ.
- Nhà trường có truyền thống dạy tốt, học tốt, đội ngũ giáo viên có trình độ
chuẩn, yêu nghề. Cán bộ quản lý của nhà trường có sự đoàn kết nhất trí, hỗ trợ
nhau hoàn thành nhiệm vụ, cùng làm việc. Các em học sinh cơ bản ngoan
ngoãn, lễ phép, chất lượng đại trà hàng năm đều đạt 100%. Trường nhiều năm
đạt tập thể tiên tiến.
- Phong tục tập quán địa phương có nhiều nét đặc sắc.
Đây là tiền đề để nhà trường tiếp tục giành những kết quả cao hơn và thực
hiện tốt công tác xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường.
2.2.2. Khó khăn:
- Vẫn còn một số giáo viên và phụ huynh học sinh có nhận thức chưa thực sự
đúng đắn. Giáo viên còn nóng vội trong giáo dục, giảng dạy. Một số giáo viên còn
xa lạ với khái niệm văn hóa nhà trường.
- Tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học còn non nớt, dễ tiếp thu những thói hư
tật xấu ngoài xã hội. Trong khi, do đặc thù nghề nghiệp và vị trí địa lý, địa
phương có điều kiện phát triển kinh tế, tiếp thu những tiến bộ của xã hội nhưng
cũng tiềm ẩn việc tiếp thu không chọn lọc cả những thói hư tật xấu từ địa
phương khác; một số người dân nói năng suồng sã, một bộ phận thanh thiếu niên
có biểu hiện đua đòi, ăn mặc chưa đẹp mắt, nói năng chưa lịch sự, có những ảnh
hưởng nhất định đến cách sử dụng ngôn ngữ của học sinh hàng ngày cũng như
ảnh hưởng đến điều kiện học tập của các em. Một số phụ huynh chưa quan tâm

đến việc học tập của con em mình, chưa chú ý đến việc phải mẫu mực từ lời ăn
tiếng nói, cách ăn mặc, cách giao tiếp hằng ngày…cho con em mình noi theo.
Một số học sinh cá tính rụt rè nhưng chưa được giáo viên và phụ huynh khích lệ,
đưa các em vào nhiều hoạt động giao tiếp.
- Địa phương còn chưa được công nhận xã đạt chuẩn văn hóa.
2.3. Kết quả của thực trạng:
Để có được biện pháp thực hiện một cách phù hợp, hữu hiệu, tôi đã tiến
hành khảo sát, thu thập các thông tin về chất lượng giáo dục, về những biểu hiện
văn hóa của nhà trường. Kết quả thu được rất đáng khích lệ nhưng cũng khiến
tôi không ít trăn trở.
2.3.1. Về chất lượng giáo dục:
5


Bảng 1- Kết quả sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của
học sinh năm học 2015-2016
Số HS

734

TS
45

Sự hình thành và
phát triển phẩm
chất

Đạt về sự hình
thành và phát triển
năng lực


Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt

734

0

734

0

Số huy
chương trong
các kỳ giao
lưu SCTT cấp
huyện

Số giải
TDTTvà văn
nghệ, kể
chuyện cấp
huyện

12


11

Bảng 2: Chất lượng đội ngũ năm học 2015-2016
Trình độ đào tạo
Năng lực
GVG các cấp
ĐH CĐ THSP Giỏi Khá TB Yếu Tỉnh Huyện Trường
39
2
4
11
24
10
0
0
6
20

2.3.2 Biểu hiện văn hóa tích cực:
Qua quan sát các yếu tố hiện thực nhà trường đã định hình văn hóa nhà
trường theo các tiêu chuẩn của đơn vị văn minh, nhà trường văn hóa, trường học
thân thiện, học sinh tích cực, như:
- Cảnh quan trường học xanh - sạch- đẹp, đảm bảo các tiêu chí của trường
học thân thiện, học sinh tích cực. Các lớp học trang trí đẹp, mô phạm.
- Tập thể cán bộ giáo viên có tinh thần tương thân tương ái cao.
- Nhà trường thể hiện sự quan tâm, có mối quan hệ chặt chẽ và thu hút
được các lực lượng xã hội cùng tham gia vào công tác giáo dục.
- Một số đông cán bộ giáo viên yêu nghề, có trách nhiệm với nghề, với học
sinh, luôn đề cao đạo đức, danh dự nghề nghiệp, toàn tâm toàn ý vì sự phát triển

của nhà trường, luôn mong muốn cùng tập thể đưa nhà trường lên một bước phát
triển cao hơn nữa.
Về các giá trị niềm tin và nhất trí cơ bản, bước đầu khảo sát có nhiều ý kiến
khác nhau, bản thân tôi nhận thấy một trong những yếu tố được đa số mọi người
thừa nhận là khi họ có một niềm tin vào môi trường giáo dục lành mạnh, khi họ
tin tưởng vào người lãnh đạo sống trong sáng, hết mình vì tập thể, biết tôn trọng
nhân viên, họ sẽ cố gắng làm việc và cống hiến cho nhà trường. Theo thời gian,
nhiều giá trị đã được giáo viên và học sinh thừa nhận và tôn trong như: tính dân
chủ, sự đề cao các giá trị nhân văn, lòng trung thực, tính kỷ luật, tính thực chất
trong dạy và học. Một số giá trị mà đội ngũ cán bộ giáo viên mong muốn xây
dựng và đạt được trong thời gian tới là sự đổi mới, hợp tác và chia sẻ trong công
việc.
2.3.3. Những mặt hạn chế:
Bên cạnh những biểu hiện tích cực thì văn hóa nhà trường ở trường Tiểu
học Ngư Lộc I cũng còn bộc lộ một số hạn chế sau:
- Một số giáo viên chưa phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh; một
số giáo viên còn trách mắng học sinh khi thấy các em chậm tiến bộ trong học tập
hay làm việc riêng trong giờ học.
6


- Trong nội bộ giáo viên vẫn còn hiện tượng thiếu sự hợp tác, thiếu sự chia
sẻ học hỏi lẫn nhau; một bộ phận giáo viên thiếu chủ động trong công việc, thiếu
sự hỗ trợ nhau; một bộ phận giáo viên chưa tích cực tham gia các hoạt động văn
hóa xã hội.
- Còn hiện tượng xuề xòa trong coi, chấm thi, trong góp ý giờ dạy ở các tiết
thao giảng. Chất lượng giảng dạy của các lớp chưa đồng đều. Một số giáo viên
bằng lòng với kết quả hiện tại của bản thân và nhà trường mà chưa có ý chí
vươn lên.
- Một vài giáo viên chưa chú trọng nhiều về hình thức khi đến trường.

- Một số học sinh còn rụt rè trong giao tiếp, chưa mạnh dạn trước đông
người. Đôi lúc vẫn còn một vài học sinh cách nói năng, xưng hô với bạn bè chưa
đúng mực.
3. Các biện pháp xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường.
Việc xây dựng văn hóa nhà trường được xác định gồm 8 nội dung. Xuất
phát từ kết quả khảo sát, từ 8 nội dung xây dựng văn hóa nhà trường, từ những
việc mà nhà trường và bản thân đã làm, tôi xin đưa ra nhóm các biện pháp xây
dựng và phát triển văn hóa nhà trường.
3.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, giáo viên và phụ huynh
học sinh.
Như ta biết, khi nhận thức đúng là có hành động đúng. Mục đích của biện
pháp này là để đội ngũ cán bộ, giáo viên, phụ huynh hiểu ý nghĩa tốt đẹp, tầm
quan trọng của xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường, hiểu được những nội
dung, công việc để xây dựng cũng như phát triển văn hóa nhà trường. Trên cơ sở
đó, mỗi người sẽ xác định trách nhiệm của mình, tự giác tham gia một cách tích
cực vào hoạt động này. Việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên, phụ
huynh học sinh thông qua các việc làm sau:
3.1.1. Thông qua hình thức tuyên truyền vận động;
Tuyên truyền vận động có tác dụng rất tích cực đến việc thay đổi nhận thức
con người. Do vậy, đối với cán bộ, giáo viên, thông qua việc học nhiệm vụ năm
học, Hội nghị công chức, viên chức, người lao động và các ngày kỷ niệm, lãnh
đạo nhà trường đã đưa ra nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường
để mọi người cùng nắm được và cùng trao đổi, cùng xác định đó là nhiệm vụ
của mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Thường xuyên tổ chức
các buổi tuyên truyền, phổ biến về vai trò, ý nghĩa của công tác xây dựng và
phát triển văn hóa nhà trường. Bên cạnh đó, nhà trường thuyết phục đội ngũ cán
bộ, giáo viên, nhân viên hòa đồng lợi ích của bản thân với lợi ích của tập thể,
kích thích nhu cầu cống hiến xã hội và nhu cầu tự khẳng định bản thân như: tích
cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường dù có thể phải hy sinh thêm thời
gian, nỗ lực nâng cao chất lượng giảng dạy để nâng cao uy tín với đồng nghiệp,

với học sinh, tạo thương hiệu cho bản thân và nhà trường... Từ đó, các đoàn thể,
các tổ chuyên môn và cá nhân cán bộ, giáo viên chủ động đưa nhiệm vụ xây
dựng văn hóa nhà trường vào kế hoạch hoạt động của tổ chức mình, đoàn thể
mình cũng như nhiệm vụ của bản thân.
7


Ví dụ: Triển khai nhiệm vụ năm học 2016-2017, ngoài các nội dung về
nhiệm vụ chung của Ngành thì trường Tiểu học Ngư Lộc I còn đưa thêm nội
dung về xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường. Với nội dung này, ban đầu
một số giáo viên cũng cảm thấy lạ lẫm nhưng khi được cán bộ quản lý nhà
trường cụ thể hóa thành những việc làm cụ thể như tổ chức trang trí lớp học, giữ
gìn cảnh quan trường học, biết thương yêu đồng nghiệp và học sinh, trung thực
trong công việc và cuộc sống, chia sẻ, hợp tác với đồng nghiệp,...; cụ thể hóa
thành những tiêu chí như: quan hệ và hợp tác với đồng nghiệp, với phụ huynh
học sinh, với nhân dân; tham gia các hoạt động của nhà trường và các tổ chức,
đoàn thể; trau dồi đạo đức nghề nghiệp, lối sống; kết quả giảng dạy và giáo dục;
trang phục lịch sự, phù hợp nghề nghiệp; cách nói năng cư xử với những người
xung quanh....thì họ đã thấu hiểu. Từ việc hiểu được nội dung, ý nghĩa, vai trò
của văn hóa nhà trường, mỗi tổ chức, đoàn thể, cá nhân trong trường đều có kế
hoạch thực hiện một cách cụ thể.
Đối với phụ huynh học sinh, chúng tôi phối hợp với Ban văn hóa xã, Hội
khuyến học xã tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa của giáo dục gia đình, về vai trò
của gia đình trong viêc giáo dục toàn diện học sinh, trong việc quản lý các em,
định hướng việc sử dụng mạng internet, mạng xã hội theo hướng tích cực, giúp
các em tránh xa những tệ nạn xã hội, tránh xa những thói hư tật xấu. Bên cạnh
đó, chúng tôi cũng cùng với Hội Liên hiệp phụ nữ xã tuyên truyền tới các bà mẹ
cần phải luôn làm gương cho con em mình từ lời ăn tiếng nói, cách ăn mặc, cư
xử hàng ngày…bởi không ai gần gũi con nhỏ bằng người mẹ, ảnh hưởng của
người mẹ vô cùng to lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con mình.

Do vậy việc giáo dục, làm gương cho các em ở gia đình có vai trò rất lớn trong
sự thành công của việc xây dựng, phát triển văn hóa nhà trường.
Ví dụ: Hàng tháng, Hội Liên hiệp phụ nữ xã tổ chức các buổi sinh hoạt, nói
chuyện về kinh nghiệm nuôi dạy con cái, phổ biến về cách nhận biết những biểu
hiện khác thường về tâm lý của trẻ để các bà mẹ có được biện pháp giáo dục con
mình một cách phù hợp, khoa học. Hội còn kịp thời tuyên dương những bà mẹ
đã có thành tích nuôi con ngoan ngoãn, khỏe mạnh, học giỏi....để khích lệ các bà
mẹ tiếp tục nuôi dạy con trưởng thành.
Đối với cộng đồng xã hội, ban Công an xã, ban Văn hóa xã…cùng tuyên
truyền tới các gia đình kinh doanh mạng internet vì tương lai của con em địa
phương hãy kinh doanh một cách lành mạnh. Mỗi điểm kinh doanh Internet đều
có bản cam kết về việc thực hiện kinh doanh như nội dung các game, thời gian
chơi, đối tượng chơi....Bên cạnh đó, ban Công an xã thường xuyên đến các điểm
internet để kiểm tra, quản lý một cách chặt chẽ. Điểm nào vi phạm sẽ bị xử phạt
nghiêm khắc.
3.1.2. Thông qua các diễn đàn, các buổi tọa đàm trao đổi về vai trò của
văn hóa nhà trường.
Chính nhân cách của nhà giáo sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nhân cách của học
trò. Vì vậy, nhà giáo ngoài kiến thức chuyên môn cần có kiến thức về cuộc sống,
về văn hóa xã hội.
8


Trong một năm học, nhà trường có nhiều ngày kỷ niệm. Trong các dịp đó,
các nhà trường thường tổ chức các buổi hội thảo về chủ đề “giỏi việc trường,
đảm việc nhà”, “kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”, hay “cô giáo, người mẹ
hiền” thì nhà trường cũng tổ chức những buổi hội thảo, tọa đàm, hội thi hoặc câu
lạc bộ…lồng ghép về chủ đề xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường. Ở đó,
mọi người có thể nói lên suy nghĩ của mình về văn hóa nhà trường, cần thiết hay
không, mong muốn của mình về một nhà trường lý tưởng, về một mẫu hình

người quản lý, mẫu hình người giáo viên… ra sao. Ở đó, hiệu trưởng cùng chia
sẻ tầm nhìn với mọi người và cũng là dịp để mọi người tự rà soát lại những giá
trị mà bản thân và nhà trường đang theo đuổi. Để rồi từ đó, mọi người sẽ thấu
hiểu hơn về vai trò của văn hóa nhà trường, soi mình để tự đánh giá về khả năng
của mình, về những giá trị nào của bản thân, của nhà trường còn phù hợp cần
duy trì và cần có thêm những giá trị nào.
Ví dụ: Trường Tiểu học Ngư Lộc I hiện đang đề cao giá trị cốt lõi là: tình
thương, đoàn kết, chất lượng thì qua các diễn đàn, các thành viên trong nhà
trường cùng bộc lộ được mong muốn của bản thân về một nhà trường trong thời
kỳ hội nhập với các giá trị cốt lõi là: chất lượng, hiện đại, tình thương, đoàn kết,
trách nhiệm và thân thiện. Và rồi, qua đó, mỗi thành viên đều thấu hiểu rằng đó
là mong muốn của mình, mình phải có trách nhiệm để thực hiện được mong
muốn đó. Mọi người đã thấm nhuần về trách nhiệm của mình, khi đó nhà trường
tổ chức các buổi thảo luận về nội dung, phương pháp…xây dựng văn hóa nhà
trường. Cũng ở diễn đàn này, mọi người chia sẻ kinh nghiệm và những ý tưởng
của bản thân về xây dựng, phát triển văn hóa nhà trường một cách thiết thực và
hữu hiệu nhất.
Ngoài ra, nhà trường cũng tổ chức các diễn đàn trao đổi về trang phục thế
nào cho đẹp, lịch sự. Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu: “đi hội áo này, đi cày áo
khác” để khuyên mọi người ăn mặc cho phù hợp với tính chất công việc. Vì vậy,
người giáo viên lại càng phải quan tâm tới việc ăn mặc của mình, không thể xuê
xoa được, đặc biệt là khi tới trường lại càng phải ăn mặc đẹp mà lịch sự. Từ đó,
mọi người đều hiểu rằng cần ăn mặc đẹp, hiện đại nhưng vẫn giữ được nét mô
phạm của nhà giáo. Đó chính là sự tự trọng và tôn trọng mọi người.
Ví dụ: Dịp 20.10.2016, nhà trường phối hợp với ban nữ công tổ chức hội
thi “ Nữ công nhân, viên chức, người lao động tài năng, duyên dáng” đã để lại
ấn tượng tốt đẹp trong hội đồng sư phạm và có tác dụng to lớn trong việc xây
dựng và phát triển văn hóa nhà trường. Qua phần thi, thí sinh đã bộc lộ được tài
năng, kiến thức, cách ứng xử cũng như nhân sinh quan và thẩm mỹ của mình.
Không những thế, những thành viên khác trong nhà trường cũng có thêm kiến

thức cũng như được học hỏi thêm về những cách ứng xử có văn hóa, thông minh
của các thí sinh. Hội thi đã tôn vinh trí tuệ, tài năng, sáng tạo của các cô giáo.
Qua đó, hội thi còn khơi dậy và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của nữ cán
bộ, giáo viên, thực hiện về bình đẳng giới.
Hay trong dịp 20.11.2016, nhà trường phối hợp với công đoàn tổ chức hội
thảo “Người giáo viên với văn hóa nhà trường”. Hội thảo không đưa ra những
9


vấn đề lớn lao, vĩ mô mà chỉ căn cứ vào các nội dung xây dựng văn hóa nhà
trường để dẫn dắt mọi người đưa ra ý kiến của mình. Ở hội thảo này chúng tôi
đã tập trung trao đổi, bày tỏ ý kiến về các vấn đề sau: Nhận thức của mỗi người
về văn hóa nhà trường? Cần có những quy tắc hay chuẩn mực gì trong nhà
trường? Làm thế nào để xây dựng môi trường văn hóa trong nhà trường? Việc tổ
chức các lễ kỷ niệm có ý nghĩa như thế nào? Hình mẫu người quản lý trong suy
nghĩ của mỗi cá nhân như thế nào? Mỗi cá nhân đang đề cao giá trị cốt lõi
nào?....
Hội thảo và hội thi đã góp phần tích cực vào công tác xây dựng và phát triển
văn hóa nhà trường.
3.1.3. Tổ chức tốt các lễ kỷ niệm của nhà trường cũng như luôn tôn trọng
và phát huy khía cạnh tích cực các phong tục, tập quán của địa phương:
Các nghi lễ kỷ niệm tạo bầu không khí vui vẻ, công nhận thành tích và chia
sẻ các giá trị. Việc tiến hành các lễ kỷ niệm có ý nghĩa quan trọng bởi nó thể
hiện cái gì đang được đánh giá trong nhà trường và nó giúp nhà trường có một
nền văn hóa tốt hơn.[1]
Với trường Tiểu học Ngư Lộc I, hàng năm trường luôn tổ chức tốt các lễ kỷ
niệm như kỷ niệm ngày phụ nữ Việt Nam 20.10, kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt
Nam 20.11, kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22.12, kỷ
niệm ngày thành lập Đảng 3.2, kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8.3, kỷ niệm ngày
gia đình Việt Nam 28.6, kỷ niệm ngày thành lập trường vào dịp tháng 8 hàng

năm.
Với từng ngày kỷ niệm, theo từng chủ đề, nhà trường có những hình thức
tổ chức phù hợp mà ý nghĩa.
Ví dụ: Kỷ niệm ngày 20.10, trường tổ chức Hội thi “Nữ công nhân, viên
chức, người lao động tài năng duyên dáng” để tôn vinh người phụ nữ trong gia
đình cũng như xã hội, khích lệ học học hỏi, vươn lên, tiếp tục cống hiến cho gia
đình và xã hội. Kỷ niệm ngày 20.11, nhà trường tổ chức hội thảo “Người giáo
viên với văn hóa nhà trường” để làm tốt nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa
nhà trường. Kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, nhà trường tổ
chức nói chuyện về truyền thống của Quân đội để giáo dục truyền thống uống
nước nhớ nguồn, thi đua học tập rèn luyện theo gương anh bộ đội Cụ Hồ. Kỷ
niệm ngày gia đình Việt Nam 28.6, nhà trường tổ chức tọa đàm về vai trò của gia
đình - tế bào của xã hội, trách nhiệm của mỗi cá nhân để có được một gia đình
hạnh phúc.
Trong lễ kỷ niệm đó nhà trường sẽ vinh danh những người đã có đóng góp
cho nhà trường về vật chất cũng như tinh thần, những thế hệ nhà giáo đã có
đóng góp cho sự thành công của nhà trường và kịp thời tuyên dương, khen ngợi
các cá nhân có thành tích của từng giai đoạn. Chính từ việc tuyên dương, ghi
nhận thành tích một cách kịp thời đã khích lệ các thành viên của nhà trường.
Thành tích đó có thể là đạt giáo viên dạy giỏi, có thể là có biện pháp chủ nhiệm
lớp tốt, có thể là có hồ sơ tốt, có thể là có tinh thần tương trợ đồng nghiệp, có thể
là giúp học sinh có điều kiện khó khăn về kinh tế, có thể là có cách ứng xử đẹp
10


đẽ, có thể là cử chỉ dịu dàng với học sinh và đồng nghiệp, có thể là nuôi dạy con
ngoan ngoãn, thành đạt, có thể là hiếu thảo với cha mẹ…Những điều đó có thể
là nhỏ nhưng có tác dụng vô cùng to lớn trong việc xây dựng và phát triển văn
hóa nhà trường.
Đồng thời, trong các ngày kỷ niệm, công đoàn thường mời vợ/chồng của

đoàn viên đến dự để họ cảm thông với công việc của chồng/vợ mình, sẵn sàng
chia sẻ khó khăn để chồng/vợ mình hoàn thành nhiệm vụ. Và cũng qua đó, họ lại
có thêm lòng tự hào về chồng/vợ mình, tự hào vì sự hy sinh, vì những thành tích
của chồng/vợ mình đã từng đạt được, họ lại càng động viên một nửa yêu thương
của mình cố gắng nhiều hơn vì sự nghiệp trồng người cao quý. Bản thân mỗi cán
bộ, giáo viên lại càng ra sức cố gắng trau dồi, rèn luyện, cống hiến nhiều hơn,
hoàn thiện mình hơn như chính sự tin tưởng của người mình thương yêu. Như dịp
08.3.2017, tổ chức Hội thi “Nữ công nhân, viên chức người lao động tài năng,
duyên dáng” và kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ, trường đã mời dâu, rể của trường
về dự. Những lần gặp gỡ đã thực sự gắn kết các thành viên nhà trường lại với
nhau hơn và góp phần cho đội ngũ giáo viên nhà trường xây dựng hạnh phúc gia
đình bền chặt hơn, tạo động lực cho họ cống hiến cho nhà trường nhiều hơn.
Ngoài ra, trường còn tổ chức kỷ niệm ngày thành lập trường vào trước thời
gian tựu trường hàng năm (20.8.1993 trường Tiểu học Ngư Lộc I được tách ra từ
trường Phổ thông cơ sở Ngư Lộc). Vào dịp này nhà trường mời các thế hệ cán bộ
quản lý đã từng công tác ở trường, mời những đồng chí giáo viên đã có thời gian
dài gắn bó với trường về dự và ôn lại chặng đường đã qua của trường, nhắc lại
những đóng góp của các thế hệ quản lý và nhà giáo đối với sự trưởng thành của
nhà trường. Không những thế, nhà trường còn ghi nhận những sự ủng hộ về tinh
thần, vật chất của các cá nhân và tập thể. Đó là các cô giáo Nguyễn Thị Phượng,
cô giáo Hoàng Thị Thu, cô giáo Nguyễn Thị Thống, cô giáo Trần Thị An, cô giáo
Trần Thị Thiều....Có những cô giáo sau khi nghỉ hưu đã cùng gia đình sống ở nơi
khác cách xa mấy trăm cây số nhưng vào dịp thành lập trường cũng về chung vui.
Về các cá nhân và tập thể đã ủng hộ về tinh thần và vật chất cho nhà trường có thể
kể đến tập thể công đoàn ngân hàng Viettin Bank, doanh nghiệp Hoàng Thắng...
Vào dịp kỷ niệm thành lập trường, trường cũng mời đại diện các đơn vị về dự. Dù
có thể không về dự được nhưng các đơn vị, tập thể ấy vẫn luôn dành những tình
cảm tốt đẹp cho nhà trường. Đó chính là sự khích lệ, động viên rất lớn đối với tập
thể cán bộ, giáo viên và học sinh nhà trường.
Hàng năm, cùng với lễ tổng kết năm học, nhà trường tổ chức cho các em học

sinh lớp 5 tốt nghiệp ra trường một cách trang trọng để các em đánh dấu cột mốc
đầu tiên trong chặng đường học tập, khẳng định sự trưởng thành của các em sau 5
năm học tập rèn luyện trong mái trường tiểu học, để các em tri ân cha mẹ, thầy cô
trước khi bước vào cấp học cao hơn. Đó chính là giáo dục đạo lý uống nước nhớ
nguồn của dân tộc ta và tạo dấu ấn tốt đẹp cho các em.
Đối với các truyền thống, phong tục của địa phương: Thu nhập của nhân
dân Ngư Lộc chủ yếu là từ nguồn hải sản đánh bắt trên biển. Từ xa xưa con
người ở đây đã sống phụ thuộc vào thiên nhiên, biển cả, sinh mạng con người
11


thật nhỏ bé giữa biển khơi mênh mông…nên người dân ở đây luôn có một niềm
tin huyền bí vào những đấng siêu nhiên. Mặc dù khoa học đã tiến bộ, phương
tiện đánh bắt được hiện đại hóa, nhận thức con người cũng được nâng lên rất
nhiều nhưng không phải không có những hiểm họa xảy ra đối với con người trên
biển. Vì thế, những người đi biển luôn cầu mong biển cả mãi bình yên, luôn ưu
ái họ, cho họ những chuyến đánh bắt đầy ắp hải sản. Những người thân của họ
luôn mong ngóng họ trở về sau mỗi chuyến đi biển dài ngày được vẹn nguyên,
mạnh khỏe. Những ước nguyện đó đã hòa thành một ước nguyện chung cho
nhân dân cả vùng. Hằng năm, cứ vào ngày 22 tháng 2 âm lịch xã Ngư Lộc lại tổ
chức lễ hội Cầu ngư. Đây là một nét văn hóa tâm linh nổi bật ở đây. Vào dịp này
nhà trường cũng được địa phương mời tham dự lễ hội, các nhà trường trên địa
bàn đều đến dự lễ và có những món quà nhỏ gửi tới như một sự ủng hộ, trân
trọng lễ hội, một lời cầu chúc cho nhân dân ở đây luôn được bình yên, hạnh
phúc. Về phía học sinh, nhà trường cùng trao đổi với các em ý nghĩa tốt đẹp và
những mặt tích cực của lễ hội thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp và các tiết học chính khóa trên lớp. Việc tổ chức trong hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp có thể là trước hoặc sau lễ hội. Trong học chính khóa của
chương trình Tiếng Việt lớp Ba có các bài tập đọc về chủ đề lễ hội và Tập làm
văn viết về một lễ hội, chúng tôi giúp các em tìm hiểu ngay về lễ hội của địa

phương. Lễ hội Cầu Ngư rất đỗi thân quen với các em học sinh Ngư Lộc nên khi
được hỏi các em rất hào hứng. Ở buổi ngoại khóa cũng như chính khóa, qua việc
cho các em kể lại các hoạt động của lễ hội, giáo viên sẽ nói về ý nghĩa của từng
hoạt động đó, ý nghĩa của cả lễ hội, như cảm ơn biển cả đã cung cấp hải sản, là
sự biết ơn tới những người đã mất, là sự răn dạy phải sống thiện để được may
mắn, hạnh phúc, lễ hội cũng gắn kết mọi người lại với nhau, khiến mọi người
sống thân ái hơn. Qua đó, chúng tôi giáo dục các em về việc bảo vệ môi trường
biển, chăm chỉ học tập để đền ơn cha mẹ và sau này xây dựng quê hương giầu
đẹp. Ý nghĩa của lễ hội đã có tác động tích cực tới học sinh và đội ngũ giáo viên
nhà trường. Đội ngũ giáo viên thông cảm với hoàn cảnh của các em học sinh
hơn, thông cảm với những suy nghĩ, cách cư xử của phụ huynh học sinh hơn và
càng cố gắng cống hiến nhiều hơn. Từ sự cảm thông, thấu hiểu về phong tục địa
phương của đội ngũ cán bộ giáo viên nhà trường thì lãnh đạo địa phương cũng
như nhân dân lại càng thấy gần gũi với nhà trường hơn, họ sẵn sàng chia sẻ,
tham gia phối hợp trong công tác giáo dục của nhà trường hơn.
3.2 Tăng cường vai trò của cán bộ quản lý nhà trường, đặc biệt là đồng
chí Hiệu trưởng cũng như phát huy sức mạnh tổng hợp của giáo viên và học
sinh trong việc xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường.
3.2.1. Tăng cường vai trò của cán bộ quản lý:
Như ta đã biết cán bộ quản lý, đặc biệt là đồng chí Hiệu trưởng có vai trò vô
cùng quan trọng đối với mọi hoạt động của nhà trường, được xem như linh hồn
của mỗi nhà trường, đúng như câu nói “cán bộ nào phong trào đó”. Do vậy, người
Hiệu trưởng cần biết nuôi dưỡng văn hóa nhà trường, qua những việc làm sau:
- Tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động cũng như cuộc sống;
12


- Xây dựng bầu không khí dân chủ, nhân văn, cởi mở, hợp tác, cùng chia
sẻ, hỗ trợ lẫn nhau, mọi người luôn được tôn trọng và có cơ hội thể hiện, phát
triển khả năng của mình;

- Xây dựng cơ chế giám sát, khen - chê phù hợp, kịp thời;
- Tăng cường dự giờ, trao đổi chuyên môn với giáo viên đứng lớp về
phương pháp, hình thức dạy học, giáo dục...; luôn quan tâm, yêu thương học
sinh, cố gắng đảm bảo học sinh có một tương lai xứng đáng từ sự chăm lo, đầu
tư của cha mẹ các em và xã hội;
- Chia sẻ tầm nhìn, sứ mệnh của nhà trường với cán bộ, giáo viên. Người
Hiệu trưởng luôn giữ vai trò dẫn dắt (bằng các định hướng, chiến lược, mục tiêu),
là hoa tiêu của chuyến tàu giáo dục nhà trường; Chia sẻ quyền lực, tin tưởng cấp
dưới, mạnh dạn trao quyền cho giáo viên, trong đó đề cao vai trò lãnh đạo cho
hoạt động dạy học, giáo dục của giáo viên, cho thấy một Hiệu trưởng đầy nhiệt
tâm, luôn trách nhiệm và yêu thương nhân viên và học trò;
- Thường xuyên có mặt ở trường, ở lớp và tham dự nhiều sinh hoạt của học sinh;
người Hiệu trưởng cần quen mặt ít nhất là môt nửa số học sinh trong trường; sẵn sàng
trò chuyện với các em, chia sẻ với các em;
- Thường xuyên trao đổi kỹ năng giao tiếp, lắng nghe tất cả mọi người,
khuyến khích phụ huynh học sinh tham gia vào các hoạt động của trường và làm
cho phụ huynh học sinh hiểu rõ hơn vai trò của họ trong việc giáo dục học sinh;
- Luôn học hỏi, nâng cao năng lực, nâng cao uy tín thực sự của mình và coi
trọng việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn để không ngừng phát triển đội ngũ.
3.2.2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các đoàn thể và các thành viên
trong nhà trường:
Mỗi thành viên trong nhà trường phải biết việc xây dựng và phát triển văn
hóa nhà trường là nhiệm vụ của tất cả các thành viên trong tập thể này và họ có
vai trò to lớn để nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ này.
Như trên đã nói, Hiệu trưởng cần tạo điều kiện để các thành viên phát huy tối
đa năng lực của mình, để họ có cơ hội cống hiến, để mỗi cá nhân, mỗi đoàn thể
cùng nhau tạo nên một sức mạnh tổng hợp làm nên thành công cho nhà trường.
Chi bộ mà đứng đầu là đồng chí Bí thư luôn tập hợp, quy tụ được toàn thể
đội ngũ, nắm được tâm tư nguyện vọng, mong muốn của của từng thành viên
trong nhà trường. Công đoàn phải thực sự là một mái ấm, mà ở đó có sự thông

cảm, có sự sẻ chia, là nơi để mọi người nói lên mong muốn của mình. Công
đoàn là cầu nối giữa đội ngũ giáo viên với Hiệu trưởng nhà trường. Công đoàn
là nơi để đoàn viên công đoàn học tập, rèn luyện về cách sống, về đối nhân xử
thế, để bản thân mỗi người được hoàn thiện hơn. Chi đoàn thanh niên là nơi để
giáo viên trẻ tôi luyện về bản lĩnh, về phẩm chất, về ý chí nghị lực và là nơi để
họ công hiến, thực hiện trách nhiệm và trưởng thành. Các tổ chuyên môn là nơi
để đội ngũ giáo viên rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ để lớn lên trong nghề,
để có thêm uy tín với xã hội, có thêm uy tín với phụ huynh và học sinh…
Tất cả các đoàn thể đều cùng nhau xác định hệ giá trị cốt lõi cho nhà trường
và cùng xây dựng một sứ mệnh, tầm nhìn trong tương lai để cùng nhau phấn đấu
13


thực hiện, đều có một mong muốn cho nhà trường của mình phát triển lên một
bước cao hơn nữa. Để rồi, không những chỉ học sinh mà tất cả cán bộ giáo viên
đều thấy “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
3.3. Xây dựng và thực hiện triệt để các chuẩn mực văn hóa (bộ quy tắc
vàng) trong nhà trường
Không thể tách rời việc xây dựng văn hóa nhà trường với việc xây dựng một
môi trường văn hóa. Đảng ta đã xác định: “Xây dựng mỗi trường học phải thực
sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm
chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ”.[2] Do
vậy, cần xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh. Để có được môi trường
văn hóa lành mạnh cần xây dựng được các chuẩn mực văn hóa để các thành viên
cùng thực hiện.
Chuẩn mực là các quy định không viết thành văn để chỉ dẫn chúng ta hành
động như thế nào và làm như thế nào. Đó là các quy tắc chỉ đạo sự tương tác
giữa các thành viên với nhau, cách thức làm việc, ra quyết định, giao tiếp, thậm
chí là cả ăn mặc. Tất cả các tổ chức, các nhóm người muốn thực hiện các hoạt
động kinh doanh và các hoạt động khác đều cần phát triển các chuẩn mực.

Chuẩn mực cần thiết được thiết lập ngay từ đầu khi mới thành lập các nhóm làm
việc và các nhóm phải tự thiết lập chuẩn mực cho mình, tự soạn thảo chuẩn mực
để có trách nhiệm và làm chủ các chuẩn mực do mình soạn thảo. [1]
Như vậy, mỗi nhà trường đều phải xây dựng chuẩn mực văn hóa cho mình.
Với trường Tiểu học Ngư Lộc I, đồng chí Hiệu trưởng đã cùng các thành viên
trong nhà trường xây dựng bộ quy tắc áp dụng trong nhà trường. Việc làm này
được bắt đầu trong buổi Hội thảo ngày 20.11. 2016, sau đó khi các tổ chức, cá
nhân xây dựng kế hoạch xong thì mỗi cá nhân và tổ chức, đoàn thể trong nhà
trường sẽ đưa ra các chuẩn mực mà theo mình cần thực hiện. Qua tổng hợp,
chúng tôi nhận thấy 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên được hỏi đều trả lời phải
thực hiện đúng Điều lệ trường tiểu học, Luật Giáo dục, thực hiện đúng nhiệm vụ
của người giáo viên theo Chuẩn giáo viên Tiểu học. Và cùng thực hiện các quy
tắc sau:
*Quy tắc giao tiếp, ứng xử với mọi người trong nhà trường:
- Tôn trọng người khác; tôn trọng lời hứa, tôn trọng sự cam kết;
- Thân thiện, đoàn kết và hợp tác;
- Trung thực; trách nhiệm, kỷ luật;
- Không làm tổn thương người khác, không nói mỉa mai, chỉ trích;
- Luôn tìm các ưu điểm của người khác;
- Vị tha, đặt vị trí của mình vào vị trí của người khác để đối xử.
*Quy tắc ứng xử với môi trường:
- Bảo vệ sức khỏe; bảo vệ môi trường sống;
- Giữ gìn vệ sinh trường lớp;
- Tiết kiệm năng lượng.
* Quy định về trang phục, đầu tóc:
- Đầu tóc, trang phục gọn gàng, lịch sự, phù hợp với môi trường sư phạm;
14


- Thứ 2 hàng tuần và các ngày lễ giáo viên nữ mặc áo dài, giáo viên nam

mặc com lê thắt cà vạt (mùa hè mặc sơ mi sơ vin, thắt cà vạt)
- Thứ 2,4,6 học sinh mặc đồng phục.
3.4. Tổ chức thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi đua xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực một cách hiệu quả.
Các cuộc vận động cũng như các phong trào thi đua từ nhiều năm nay đã
được các trường học thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Chính từ việc thực hiện
tốt các cuộc vận động và các phong trào đó mà chất lượng đội ngũ nhà giáo, chất
lượng giáo dục của các nhà trường không ngừng được nâng lên - đặc biệt là
nâng hiệu quả cho công tác xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường, giúp mỗi
nhà trường nâng cao thương hiệu của mình.
Trường Tiểu học Ngư Lộc I đã làm tốt việc tổ chức thực hiện các cuộc vận
động lớn, các phong trào thi đua, như: Chỉ thị 06- CT/TW ngày 07.11.2006; Chỉ
thị 03-CT/TW ngày 14.5.2011; Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15.5.2016; cuộc vận
động “Hai không”; Phong trào “thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”… Việc
hưởng ứng các cuộc vận động, các phong trào đã mang lại hiệu quả lớn trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường, rèn luyện đội ngũ. Đặc biệt
với Chỉ thị 05/CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ chí Minh”, Bộ Chính trị yêu cầu gắn việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Bác với thực hiện Nghị quyết số 33- NQ/TW về
“xây dựng và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”, trong đó nhấn mạnh gắn học tập tư tưởng, đạo đức, tác phong
Hồ Chí Minh với việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xây
dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ
đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế [3]. Bộ Chính trị
cũng yêu cầu gắn việc học tập tấm gương đạo đức, tư tưởng, tác phong Hồ Chí
Minh với việc thực hiện Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục đào tạo. Chính vì vậy, trường Tiểu học Ngư Lộc I đã kip thời triển khai
tới toàn thể cán bộ giáo viên, làm cho việc học tập theo Bác trở thành nhu cầu
thiết thực của mỗi cá nhân và tiến hành thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết một

cách đồng bộ. Mỗi năm nhà trường đều tổ chức cho cán bộ giáo viên đăng ký
việc làm học tập theo tấm gương đạo đức và phong cách của Bác. Cuối năm,
mỗi cá nhân tự đánh giá kết quả đã thực hiện được, xây dựng phương hướng
phấn đấu, rèn luyện trong thời gian tiếp theo. Việc làm đó có tác dụng vô cùng
lớn lao đến việc mỗi cán bộ, giáo viên luôn gọt giũa, rèn luyện phẩm chất đạo
đức, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ để “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”.
Bên cạnh đó nhà trường luôn chú trọng tới hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp; phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. Theo từng
chủ đề, chủ điểm, các em đã được các thầy cô tổ chức cho hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp phù hợp với điều kiện của nhà trường. Có thể kể đến các hoạt
động các em từng tham gia như: chăm sóc tượng đài liệt sĩ, thăm hỏi Bà mẹ Việt
15


Nam anh hùng Đồng Thị Vận ở thôn Thành Lập, đến thăm khu nhà mẹ Tơm tại
xã Đa Lộc, tìm hiểu về lễ hội Cầu ngư của địa phương, quần loa cổ động tuyên
truyền nhân kỷ niệm 64 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Ngư Lộc....Với mục
tiêu: Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường
để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều
kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội; phát huy tính chủ động, tích
cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách hiệu
quả [4] thì việc thực hiện tốt 5 nội dung của phong trào thi đua xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực đã góp phần tích cực cho việc xây dựng và phát
triển văn hóa nhà trường: cảnh quan trường học được xanh, sạch đẹp; các em
được giáo dục phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, có thêm lòng tự tin trong học tập,
khắc phục tính rụt rè, thiếu tự tin mà học sinh nông thôn thường mắc phải; các
em được rèn luyện kỹ năng sống; các em được tham gia các hoạt động tập thể
vui tươi, lành mạnh; các em được biết về các giá trị văn hóa, di sản, cách
mạng…ở địa phương, được bồi đắp lòng ân nghĩa, biết trân trọng các giá trị văn

hóa. Và một điều không thể phủ nhận là chính từ việc thực hiện các nội dung đó
cũng giúp cho giáo viên hoàn thiện hơn, lớn hơn trong chuyên môn, trong nghề
nghiệp cũng như đời thường.
3.5. Khích lệ phong trào học tập, nâng cao năng lực chuyên môn của
đội ngũ giáo viên.
Xuất phát từ việc hạn chế về năng lực chuyên môn nên việc thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học của một vài giáo viên chưa triệt để dẫn đến chất
lượng dạy học chưa cao bằng chất lượng dạy học của đồng nghiệp, chưa thu hút
được học sinh. Cũng từ đó, họ không tự tin trong dạy học, hoặc chấp nhận kết
quả hiện có của mình. Họ ngại sự thay đổi. Để giúp họ thay đổi suy nghĩ, tự tin
trong giảng dạy, mong muốn thay đổi theo chiều hướng tốt lên, mong muốn tạo
thương hiệu cho lớp mình giảng dạy…thì nhà trường phải tạo điều kiện cho họ
học tập vươn lên, để học tập nâng cao trình độ trở thành nhu cầu của bản thân
mỗi giáo viên. Việc học tập nâng cao trình độ có thể bằng nhiều hình thức như
học tập nâng chuẩn (liên thông, tại chức), bồi dưỡng thường xuyên, học qua
mạng, học trên báo chí, học ở đồng nghiệp, thậm chí học ở phụ huynh và học
sinh (thông qua những lời tâm sự tán thành hay không tán thành về phương pháp
dạy học, phương pháp giáo dục của giáo viên)…
Hàng năm, công tác bồi dưỡng thường xuyên của trường triển khai và thực
hiện khá tốt. Hàng tháng, nhà trường đều đặn kiểm tra việc học tập cũng như kịp
thời tổ chức giải đáp thắc mắc cho các đồng chí giáo viên. Kết quả xếp loại
100% đạt loại khá trở lên. Các đồng chí đã vận dụng một cách hiệu quả những
kiến thức được bồi dưỡng vào quá trình giáo dục, giảng dạy. Qua các buổi thao
giảng, sinh hoạt chuyên môn, dự giờ thăm lớp của các đồng chí quản lý, chất
lượng giờ dạy đã được nâng lên rõ rệt. Các đồng chí đã mạnh dạn thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học, lôi cuốn các em vào giờ học bằng những hình thức
dạy học phong phú, phù hợp. Bất kỳ ai cũng có lòng tự ái nghề nghiệp, chúng tôi
luôn khai thác đặc điểm này của đội ngũ thông qua hình thức tuyên dương
16



những đồng chí có thành tích trong giảng dạy; đưa tin về những giáo viên tiêu
biểu ở những vùng khó khăn trên mọi miền đất nước rồi phân tích vì sao họ làm
được, vì sao mình chưa làm được như họ.
Uy tín của giáo viên không chỉ được đánh giá từ đồng nghiệp mà được đánh
giá rõ nhất từ suy nghĩ của học sinh. Các em có lưu luyến thầy cô khi chuyển lớp
không? Các em vui hay buồn khi không được học với thầy, cô giáo cũ? Điều đó
có thể bộc lộ khi các em lên lớp, chuyển trường hoặc có thể bộc lộ qua những bài
viết. Những bài văn của học sinh viết về thầy, cô giáo cũ có lẽ là lời nhận xét mà
mỗi giáo viên đều phải đọc. Suy nghĩ của các em chân thật, nhìn nhận về giáo
viên thế nào sẽ viết như thế. Vì thế, chúng tôi sẽ mượn đọc các bài văn của học
sinh lớp 5 tả thầy cô giáo để lại cho em nhiều ấn tượng nhất cho các đồng chí đọc.
Trong đó, các em nói về bài văn, bài toán thầy cô từng giảng, về những câu
chuyện thầy cô kể, về cách ăn mặc, nói năng của thầy cô… Qua mỗi lời khen, chê
của học sinh, bản thân các đồng chí được tả sẽ biết mình cần làm gì. Những đồng
chí khác tự soi mình vào xem đã làm gì, chưa làm gì, cần làm gì.
Cứ như vậy, các đồng chí đã âm thầm học hỏi để không bị thua kém đồng
nghiệp và tự điều chỉnh mình, hoàn thiện mình hơn để đẹp hơn trong mắt học trò
thân yêu của mình.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Để khẳng định tính hiệu quả của các biện pháp xây dựng, phát triển văn
hóa nhà trường tôi tiến hành khảo sát về sự hình thành và phát triển phẩm chất,
năng lực, kết quả các kỳ giao lưu, hội thi của học sinh; khảo sát về chất lượng
đội ngũ cũng như các biểu hiện về văn hóa, bước đầu chúng tôi đã thu được kết
quả đáng mừng.
Thứ nhất, ta quan sát các bảng đối chứng sau:
Bảng 3: Đối chứng về kết quả khảo sát sự hình thành và phát triển năng
lực phẩm chất học sinh giai đoạn giữa học kỳ 2 năm học 2016-2017
Sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất
Năng lực

Phẩm chất

Số Hs

777

Tốt

Đạt

Cần cố
gắng

Tốt

Đạt

Cần cố
gắng

523

255

0

585

192


0

Số huy
Số giải
chương
TDTT,
giao lưu VN, KC
cấp huyện cấp huyện

42

15

Bảng 4: Đối chứng chất lượng đội ngũ đến giữa kỳ 2 năm học 2016 - 2017
Trình độ đào tạo
Năng lực
GVG các cấp
TS
45

ĐH



39

2

THSP
4 (đang học

ĐHSP:2)

Giỏi

Khá

TB

Yếu

19

22

3

0

Tỉnh Huyện Trường

1

6

24

Như vậy, ta thấy kết quả sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của
hcoj sinh cũng như chất lượng đội ngũ đã được nâng lên một cách rõ rệt, đặc
biệt là số học sinh đạt huy chương trong kỳ giao lưu sân chơi trí tuệ cấp huyện
tăng gần 4 lần so với các năm học trước đó. Điều đó thể hiện việc chuyển biến

tốt trong giáo viên, học sinh và phụ huynh cả về nhận thức và hành động. Đó là
17


sự chuyển biến về phương pháp giảng dạy, phương pháp giáo dục, trách nhiệm
với nghề…của giáo viên. Sự chuyển biến về phương pháp giáo dục con cái,
trách nhiệm đối với con cái của phụ huynh học sinh. Sự chuyển biến về phương
pháp học tập, rèn luyện, về bổn phận làm con, trách nhiệm người học sinh…của
các em.
Thứ hai, những tồn tại hạn chế không còn và các biểu hiện tích cực trong
văn hóa nhà trường trước đó được duy trì và phát triển cao hơn. Đó là:
- Cảnh quan trường học thực sự xanh, sạch, đẹp. Lớp học trang trí đẹp mắt,
có tính giáo dục cao. Nhà trường luôn tích cực trong phong trào xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực. Nhà trường đề cao khẩu hiệu “Mỗi thầy
cô là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
- Giáo viên và học sinh ăn mặc đẹp, lịch lãm, mô phạm. Học sinh có đồng
phục mùa đông và mùa hè được quy định mặc vào các ngày học trong tuần. Các
em có giầy dép đi ngoài đường riêng và dép đi trong lớp riêng, nhằm giữ vệ sinh
lớp học được sạch sẽ.
- Học sinh và cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường đều có hành vi
giao tiếp đúng mực. Trong giao tiếp hàng ngày, cách xưng hô giữa đồng nghiệp
với nhau, giữa giáo viên với học sinh, giữa giáo viên với phụ huynh học sinh
luôn chuẩn mực, thân thiện. Không còn hiện tượng học sinh xưng hô không
đúng mực với bạn bè.
- Nhà trường chú trọng công tác giáo dục niềm tin, giáo dục các nghi lễ
truyền thống, giữ gìn phong tục của tổ tiên, của địa phương, truyền thống tôn sư
trọng đạo, hiếu kính với cha mẹ…, cuối năm học cuối cấp, các em học sinh lớp
5 được tổ chức lễ ra trường, tri ân tới thầy cô và cha mẹ trước khi bước vào cấp
học cao hơn. Các thầy cô trong nhà trường thực sự là những người cha, người
mẹ, người anh, người chị mẫu mực, giàu tình yêu thương. Không còn hiện tương

giáo viên quát mắng học sinh.
- Công tác tương thân tương ái được đội ngũ cán bộ giáo viên chú ý vun
đắp. Không những kịp thời chia sẻ, thăm hỏi đồng nghiệp mà đội ngũ cán bộ
giáo viên nhà trường còn làm tốt công tác nhân đạo, đúng với giá trị truyền
thống của dân tộc “thương người như thể thương thân” qua việc hỗ trợ đồng
nghiệp mắc bệnh nặng, học sinh nghèo, đồng bào bị thiên tai, lũ lụt…Nhà
trường thực sự là một tổ ấm của cả giáo viên và học sinh. Mọi người luôn quan
tâm, chia sẻ với nhau, tạo thành một khối đoàn kết, nhất trí cao, luôn mong
muốn cùng tập thể đưa nhà trường lên một bước phát triển cao hơn nữa.
- Trường có sự chia sẻ quyền lực, trao quyền, khuyến khích, tự chịu trách
nhiệm. Các phó hiệu trưởng và các tổ trưởng chuyên môn thấy được vai trò
trách nhiệm của mình khi được Hiệu trưởng giao quyền; mỗi cán bộ, giáo viên
đều hiểu rõ việc mình cần phải làm, tích cực tham gia vào việc ra các quyết định
dạy và học. Lãnh đạo nhà trường luôn coi trọng con người, cổ vũ sự hoàn thành
công việc và công nhận sự thành công của mỗi người; chú trọng tính sáng tạo và
đổi mới; khuyến khích đối thoại và hợp tác, làm việc nhóm. Mọi người cùng tôn
trọng và theo đuổi giá trị tốt đẹp: chất lượng, hiện đại, nhân văn, đoàn kết, trách
18


nhiệm và thân thiện với tâm niệm “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “thương hiệu
của nhà trường bắt đầu từ thương hiệu của mỗi thành viên trong nhà trường”.
Mọi thành viên trong nhà trường đều ý thức đúng trách nhiệm của mình và
nghiêm túc trong công tác coi, chấm thi, góp ý giờ dạy vì họ hiểu rằng đó là
cách tốt nhất để cả thầy và trò cùng tiến bộ
- Giáo viên được khuyến khích cải tiến phương pháp, nâng cao chất lượng
dạy học; giáo viên được khuyến khích tham gia góp ý kiến trong mọi hoạt động
của nhà trường, được lãnh đạo nhà trường lắng nghe và giải quyết kịp thời
những yêu cầu chính đáng. Bầu không khí nhà trường cởi mở, dấn chủ, hợp tác,
tôn trọng và tin cậy lẫn nhau. Lãnh đạo nhà trường điều hành công việc hiệu

quả, công khai, minh bạch. Các tổ chức đoàn thể phát huy tốt vai trò của mình.
Vì thế, mọi người luôn thấy mình được tôn trọng, được yêu thương, càng ra sức
cố gắng phấn đấu, cống hiến để khẳng định mình, tự chịu trách nhiệm với kết
quả công việc của mình. Trong năm học, có 24 đồng chí được công nhận danh
hiệu giáo viên giỏi cấp trường. Điều đặc biệt là nhà trường có 01 đống chí được
đi dự buổi gặp mặt các giáo viên tiêu biểu công tác tại các xã đảo do Trung ương
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tổ chức, được nhận bằng khen của Bộ
trưởng BGD ĐT, bằng khen của Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên và bằng
khen của chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa; 01 đồng chí đạt giáo viên
dạy giỏi cấp tỉnh. Những hoạt động khác được các đồng chí tham gia tích cực và
hiệu quả. Một điều được khẳng định rằng mọi thành viên trong nhà trường luôn
muốn được mãi gắn bó với tập thể này, nơi có người Hiệu trưởng biết yêu
thương, cảm thông, chia sẻ, khích lệ; nơi có những đồng nghiệp đáng tin cậy,
luôn gần gũi, động viên; nơi có những học trò đáng yêu và những phụ huynh
học sinh mộc mạc, chân thành, luôn ủng hộ nhà trường.
Từ kết quả trên, ta thấy rằng những giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa
nhà trường mà trường Tiểu học Ngư Lộc I đã thực hiện là đúng đắn. Với kết quả
đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường; góp
phần rèn luyện những giáo viên vừa hồng, vừa chuyên, giàu lòng nhân ái bao
dung, hội tụ những nét văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam; góp phần đào
tạo ra những thế hệ con người Việt Nam văn hóa, hiện đại, khoa học, sáng tạo.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Văn hóa quyết định sự trường tồn của nhà trường. Văn hóa nhà trường có
vai trò, ý nghĩa vô cùng to lớn. Làm tốt công tác xây dựng văn hóa nhà trường là
đang xây dựng một xã hội văn hóa: con người có kiến thức, có kỹ năng, thân
thiện với môi trường, thân thiện với con người, mọi người ứng xử có văn hóa,
sống có văn hóa….Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện tôi rút ra được bài học
kinh nghiệm sau:
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa nhà trường, như: quá trình toàn

cầu và hội nhập, kinh tế tri thức và nhu cầu phát triển tổ chức biết học hỏi, văn
hóa dân tộc và văn hóa học tập của dân tộc, điều kiện vât chất cho thực thi các
các hoạt động xây dựng văn hóa nhà trường, năng lực và phong cách của người
19


lãnh đạo quản lý...Vì vây, người lãnh đạo cần phải xây dựng cho mình một
phong cách lãnh đạo phù hợp, phải luôn tự học hỏi nâng cao năng lực chuyên
môn cũng như năng lực lãnh đạo, phải có sức quy tụ quần chúng, chia sẻ và cảm
thông với đội ngũ cán bộ giáo viên, giầu lòng yêu người, vì con người, phải
khích lệ được phong trào thi đua, học hỏi trong nhà trường. Người lãnh đạo phải
biết huy động các nguồn lực, biết tôn trọng nét văn hóa dân tộc, nét văn hóa, tập
quán của địa phương cũng như biết tôn trọng nét riêng của mỗi con người.
Người lãnh đạo phải cùng tập thể xây dựng được một chuẩn mực để các thành
viên cùng thực hiện. Theo quan niệm phương Đông “Một tấm gương sống hơn
một trăm pho sách”, người lãnh đạo phải luôn gương mẫu trong mọi công việc,
mọi hoạt động, phải luôn là trung tâm đoàn kết, xây dựng được mối đoàn kết và
phát huy sức mạnh tống hợp của các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường.
- Với cá nhân mỗi giáo viên nhà trường phải luôn có nhận thức đúng đắn, xây
dựng cho mình tác phong làm việc hiệu quả, có trách nhiệm với công việc, với
tập thể, không ngừng học tập vươn lên, luôn nuôi dưỡng lòng yêu nghề và tinh
thần thi đua, phải biết hòa đồng lợi ích của cá nhân với lợi ích tập thể, sống biết
yêu thương con người, luôn hướng tới chân- thiện- mỹ, có được vẻ đẹp về nhân
cách và tâm hồn.
- Các tổ chức đoàn thể trong nhà trường phải cùng phối hợp, hỗ trợ nhau hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ.
- Nhà trường phải phối hợp tốt với địa phương, tranh thủ mọi sự hỗ trợ của địa
phương, của nhân dân và của phụ huynh học sinh.
2. Kiến nghị:
Trong việc thực hiện các biện pháp xây dựng, phát triển văn hóa nhà

trường, tôi xin kiến nghị với cán bộ, giáo viên, các nhà trường và cấp trên:
- Bản thân mỗi cán bộ, giáo viên phải không ngừng học tập để hoàn thiện mình,
phải luôn cầu thị trong công việc cũng như đời thường.
- Địa phương cùng chung tay với nhà trường làm tốt công tác xã hội hóa
giáo dục; địa phương cần phấn đấu đạt danh hiệu xã đạt chuẩn văn hóa.
- Cấp trên đầu tư cơ sở vật chất và cùng chia sẻ với nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 02 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không copy nội dung của người khác.

Bùi Thị Hương

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục - Học viện Quản lý giáo dục.
2.. Nghị quyết 33- NQ/TW ngày 9.6.2014 về xây dựng văn hóa và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước con người.
3. Chỉ thị 05/CT/TW ngày 15.5.2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ chí Minh.
4.Chỉ thị số 40/2008/CT-BGD ĐT về xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực.
5. Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo.



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường tiểu học Ngư Lộc I

TT

1
2
3
4

5

6

7

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 5 học tốt phân môn
Tập đọc
Một số biện pháp chỉ đạo
giáo viên khối 5 dạy tốt phân
môn Tập làm văn.
Một số biện pháp bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên đáp ứng

yêu cầu đổi mới giáo dục.
Một số biện pháp bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục.
Một số biện pháp chỉ đạo dạy
môn Đạo đức góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn
diện tại trường tiểu học Minh
Lộc 2
Một số biện pháp chỉ đạo đội
ngũ giáo viên sử dụng đồ
dùng dạy học để nâng cao
hiệu quả giờ dạy tại trường
tiểu học Minh Lộc 2.
Một số biện pháp chỉ đạo
nâng cao hiệu quả hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp tại
trường tiểu học Ngư Lộc I

Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá
xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học

đánh giá xếp
loại

Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2002-2003

Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2004-2005

Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2006-2007

Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2008-2009


Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2010-2011

Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2012-2013

Phòng GD ĐT
Hậu Lộc

B

2014-2015


PHỤ LỤC
1.Phụ lục 1: Trình bày nội dung Hội thi “Nữ công nhân, viên chức, người lao
động tài năng, duyên dáng” của trường Tiểu học Ngư Lộc I - thực hiện ngày
08.3.2017.
- Tên hội thi: “Nữ công nhân, viên chức người lao động tài năng, duyên dáng”
- Số lượng thí sinh: 6 đồng chí nữ đại diện cho 3 tổ chuyên môn.
- Nội dung thi: gồm 3 phần:

+ Phần chào hỏi: Thí sinh giới thiệu bản thân, nghề nghiệp, sở thích, sở trường,
quan điểm sống...một cách duyên dáng, lôi cuốn.
+ Phần 2: Duyên dáng. Thí sinh thi trang phục áo dài truyền thống và trang
phục tự chọn khi lên lớp. Trang phục tự chọn khi lên lớp phải đẹp, có thâm rmyx
ngưng phải phù hợp với hoạt động lên lớp.
+ Phần 3: Tài năng. Phần tài năng thí sinh thể hiện được tài năng ứng xử, hiểu
biết; tài năng xử lý tình huống sư phạm và năng khiếu của bản thân.
Cụ thể:
Phần chào hỏi thí sinh giới thiệu bản thân, nghề nghiệp, sở thích, sở
trường...của mình.
Phần thi tài năng, câu hỏi ứng xử, gồm:
Câu 1: Chị quan niệm về một người phụ nữ đẹp là gì? Trong thời kỳ hiện
đại câu “Cái nết đánh chết cái đẹp” có còn phù hợp không?
Câu 2: Ngày gia đình Việt Nam có ý nghĩa như thế nào?
Câu 3: Chị hiểu như thế nào về: công, dung, ngôn, hạnh đối với phụ nữ thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế?
Câu 4: Bốn phẩm chất đạo đức cốt lõi phụ nữ Việt Nam cần phấn đấu rèn
luyện trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là gì?
Câu 5: Theo chị, phụ nữ thời hiện đại có bị áp lực, thách thức nhiều hay
không?
Câu 6: Chị có tán thành câu “Một sự nhịn là chín sự lành” hay không? Điều
đó, chị thực hiện ở gia đình và ở trường như thế nào?
Câu 7: Chị nghĩ gì về câu “Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ
nữ không biết làm đẹp”?
Câu 8: Những điều căn bản đẻ giáo dục con cái của chị là gì?
Câu 9: Chị cho biết trách nhiệm của mình trong việc xây dựng văn hóa nhà
trường?.
Câu 10; Chị hiểu thế nào về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục mà Nghị
quyết 29/NQ- BCH TW đã nêu.
Câu 11: Chị hãy cho ý kiến về đoạn thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh:

Mẹ đâu phải của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ hết đời chưa xong.
Câu 12: Nếu được đại diện cho nữ giáo viên đến gặp Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và đào tạo thì chị sẽ nói gì với Bộ trưởng?


Về xử lý tình huống sư phạm, có các tình huống:
Tình huống 1: Lớp chị chủ nhiệm có một học sinh có hoàn cảnh gia đình
đặc biệt, em ở với ông bà nội. Em tính tình cục cằn, hay nổi nóng với bạn bè,
ông bà quá nuông chiều cháu nên không cho ai đụng đến cháu. Gặp trường hợp
này, chị sẽ xử lý thế nào?
Tình huống 2: Có phụ huynh đến đề xuất với chị rằng: Với các học sinh
khác cô giáo cứ thực hiện theo Thông tư 22/ 2016/TT- BGD ĐT, còn con tôi nhờ
cô cứ chấm điểm hàng ngày cho cháu để tôi biết tình hình học tập của cháu. Chị
sẽ giải quyết thế nào?
Tình huống 3: Trong lần chấm bài thi định kỳ, có đồng nghiệp nhờ chị giúp
đỡ bằng cách nâng điểm cho học sinh. Chị sẽ làm thế nào?
Tình huống 4: Có đồng nghiệp góp ý với chị về cách ăn mặc khi lên lớp.
Có thể cách góp ý ấy là chưa phù hợp, chị sẽ làm gì?
Tình huống 5: Chị là tổ trưởng chuyên môn, trong một lần thao giảng
chuyên môn do tổ chủ trì, giờ của một đồng nghiệp dạy còn nhiều thiếu sót
nhưng các thành viên trong tổ đề nghị là góp ý để đồng chí ấy biết và rút kinh
nghiệm thôi còn về xếp loại thì vẫn xếp giờ giỏi. Chị sẽ xử lý ra sao?
Tình huống 6: Trong cuộc họp Hội đồng sư phạm, chị chưa thống nhất với
kế hoạch của hiệu trưởng nhưng tất cả các thành viên khác không có ý kiếm gì.
Chị có ý kiến trở lại với hiệu trưởng không?
Thi năng khiếu, thí sinh có thể hiện các năng khiếu khác nhau.
Phần duyên dáng, thí sinh thi trang phục áo dài truyền thống và trang phục

tự chọn khi lên lớp.
2. Phụ lục 2: Một số ảnh tư liệu về các hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa
nhà trường của trường Tiểu học Ngư Lộc I
- Ảnh về lễ hội Cầu ngư của địa phương;
- Ảnh buổi hội thảo về chủ đề xây dựng và phát triển văn hóa nhà trường;
- Ảnh hội thi “ Cô giáo tài năng, duyên dáng”;
- Ảnh chụp một góc trường cho thấy cảnh quan khang trang, xanh - sạch – đẹp
của trường Tiểu học Ngư Lộc I.
- Ảnh Đoàn thanh niên nhà trường Tiểu học Ngư Lộc I tổ chức tết trung thu cho
các em học sinh.
- Ảnh chụp cảnh một số em học sinh lớp 5 trong buổi lễ tốt nghiệp ra trường.


×