MỤC LỤC
Mục
Nội dung
I
Trang
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1
2
3
4
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
3-4
4
4
4
II
1
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
5
5
5-7
3
nghiệm
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng
7-18
4
để giải quyết vấn đề.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
18-19
giáo dục,với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng, Nhà
nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ
bản của giáo dục đào tạo hiện nay là: hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa -hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt tiểu học là dạy cho học sinh
một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng việt như một công cụ
giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải nắm được vốn từ Tiếng việt. Từ là
1
đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn từ của một
ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học tập cũng như trong giao
tiếp. [1] Ngoài ra vốn từ ngữ của một người càng giàu bao nhiêu thì khả năng diễn
đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì vậy, làm giàu vốn từ cho
học sinh là việc làm quan trọng và cần thiết.
Thật vậy, trong quá trình dạy học việc rèn luyện tư duy thích hợp được chú
trọng ở tất cả các môn học. Môn Tiếng việt ở bậc Tiểu học xác định là môn học
công cụ bởi mục tiêu quan trọng của nó. Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 có nhiệm
vụ cung cấp cho học sinh vốn từ. Học sinh được lĩnh hội kiến thức thông qua một
hệ thống bài tập. Như vậy sách giáo khoa tạo điều kiện để giáo viên và học sinh
thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, trong đó giáo viên
đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt
động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên
kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới
hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ
chưa đầy đủ và chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp
và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn và bị lúng túng trong việc
tìm từ và sử dụng từ. Làm giàu vốn từ cho học sinh ngoài việc cung cấp thêm các
từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ còn tạo tính thường trực của từ nhằm nâng
cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của học sinh.
Tuy nhiên làm giàu vốn từ cho học sinh hiện nay đạt hiệu quả chưa cao, một
mặt trong số các nguyên nhân đó là giáo viên chưa chú ý đúng mức và đầy đủ tới
vai trò cũng như đặc trưng của phân môn Luyện từ và câu nói chung và bài mở
rộng vốn từ nói riêng. Giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức làm giàu vốn từ
sao cho hiệu quả, cách thức, biện pháp hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ và phát
triển vốn từ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, vốn từ của giáo viên chưa thật sự
phong phú cũng là lý do khiến cho hiệu quả làm giàu vốn từ chưa được như mong
muốn. Mặt khác, trong các giờ mở rộng vốn từ, giáo viên vẫn là người hoạt động
chủ yếu, học sinh chưa phát huy được tính chủ động tích cực. Vì vậy, làm giàu vốn
từ vẫn chưa phải là công việc hứng thú của học sinh và các em chưa có ý thức làm
giàu vốn từ cho chính bản thân mình.
Vai trò của việc làm giàu vốn từ, từ thực tế học tập của học sinh và từ những
khó khăn về các biện pháp làm giàu vốn từ, tôi thấy cần phải có một số biện pháp
làm giàu vốn từ cho học sinh để giúp giáo viên thuận lợi hơn trong quá trình làm
giàu vốn từ, giúp học sinh nắm từ tốt hơn, sâu sắc hơn, hệ thống hơn, vận dụng vào
giao tiếp hiệu quả và văn hóa hơn. Góp phần nâng cao chất lượng dạy Luyện từ và
câu nói riêng và tác dụng của phân môn Luyện từ và câu nói chung.
2
Trên đây là những lý do để tôi chọn, nghiên cứu và viết sáng kiến kinh
nghiệm “Các biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 3 qua phân môn Luyện
từ và câu”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu nội dung dạy Luyện từ và câu giúp mở rộng, hệ thống vốn từ
của học sinh lớp 3, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản, rèn cho học
sinh kỹ năng dùng từ đặt câu một cách tốt nhất. Luyện từ và câu có vai trò
hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí
tuệ của các em. Trong Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu làm giàu vốn từ
cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là: Dạy kiểu bài “Làm giàu vốn từ” qua phân môn
Luyện từ và câu cho học sinh lớp 3A.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận:
- Phân tích tổng hợp tài liệu, hệ thống hóa, khái quát hóa một số vấn đề lí luận có
liên quan đến dạy - học phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Thông qua các bài dạy, tiết kiểm tra, chữa bài để tìm hiểu những sai sót của
học sinh. Thường xuyên dự giờ đồng nghiệp, rút kinh nghiệm sau mỗi giờ dự để có
những biện pháp dạy học làm giàu vốn từ nhằm giúp học sinh nắm từ tốt hơn, sâu
sắc hơn, hệ thống hơn, vận dụng vào giao tiếp hiệu quả và văn hóa hơn. Góp phần
nâng cao chất lượng dạy Luyện từ và câu.
3. Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê chất lượng.
4. Phương pháp luyện tập, thực hành, trò chơi.
II. NỘI DUNG
II.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đất nước ngày càng phát triển cần phải có những con người năng động, sáng
tạo, tự lực, tự cường. Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung
Chương trình bậc Tiểu học một cách phù hợp. [3]
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. [5]
3
Ngôn ngữ nói chung, Tiếng việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
phương pháp dạy học Tiếng việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các bộ
phận ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ thống
nhỏ, có cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống ngôn
ngữ. [1]
Với mục tiêu chung của môn Tiếng việt thì mục tiêu của phân môn Luyện từ
và câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng việt hết sức cần thiết để giúp học sinh
mở rộng và phát triển vốn từ làm cho vốn từ ngôn ngữ của các em ngày càng phong
phú, việc giúp học sinh nắm ý nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ để bồi dưỡng cho
các em thói quen dùng từ chính xác, nói – viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng
việt có văn hóa trong học tập và giao tiếp.
Thông qua mục tiêu chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của nhân
tố ngôn ngữ trong việc sử dụng Tiếng việt. Bên cạnh đó, phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 3 còn góp phần quan trọng giúp học sinh mở rộng và phát triển từ. Từ đó, học
sinh sẽ có một vốn từ nhất định để hình thành thói quen dùng từ, nói và viết thành
câu; có ý thức sử dụng Tiếng việt văn hóa trong học tập, giao tiếp và thích học
Tiếng việt. Do đó người giáo viên dạy lớp 3 (hay dạy bậc Tiểu học) cần phải hội tụ
đủ các yếu tố như: Có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này; nắm
vững mục tiêu chung cũng như mục tiêu của từng bài dạy; có những hiểu biết cơ
bản về nội dung bài học, về ý đồ của sách giáo khoa và về cấu trúc của từng bài
theo các thông tin thể hiện ở sách giáo khoa; có năng lực giảng dạy nhất định, biết
xử lý linh hoạt và sáng tạo trong quá trình dạy - học. Đây chính là cơ sở vững chắc
để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất, các em biết vận dụng thành
công vốn từ trong học tập và giao tiếp. [4]
II.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM:
Năm học 2016 - 2017 tôi được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy lớp
3A với tổng số học sinh là 30 em. Trong đó: Nam: 13 em; Nữ: 17 em
Theo kết quả khảo sát đầu năm học, chất lượng học sinh của lớp 3A như sau:
Sĩ số
lớp
30
Tìm từ
Được
Chưa được
SL
TL
SL
TL
17
56.7%
13
43.3%
Sử dụng từ
Được
Chưa được
SL
TL
SL
TL
16
53.3%
14
46.7%
Qua quá trình giảng dạy lớp 3, trong các tiết mở rộng vốn từ cũng như tiết
kiểm tra, tôi thấy học sinh còn nhiều hạn chế như:
4
- Vốn từ của học sinh đang còn ít, theo mỗi chủ đề đưa ra học sinh chỉ tìm
được 1,2 từ nhiều nhất là 3,5 từ. Cá biệt có em không tìm được từ nào theo chủ
điểm yêu cầu.
- Nhiều học sinh tìm từ bị lạc chủ đề.
Ví dụ: Em hãy tìm các từ ngữ chỉ trẻ em. Có học sinh đã tìm các từ như: bạn
bè, sinh viên, đoàn kết….
Ví dụ: Em hãy tìm các từ ngữ chỉ người trong cộng đồng. Có học sinh đã tìm
các từ như: bệnh viện, bưu điện, nhi đồng….
Ví dụ: Em hãy tìm các sự vật thường thấy ở nông thôn. Có học sinh đã tìm
các từ như: tốt bụng, hiền lành, thật thà,…
- Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn nên dẫn đến việc viết câu, đoạn văn của
học sinh chưa sinh động, chưa hay….
Ví dụ: Hôm qua mẹ cho em về quê chơi, em thấy làng quê có rất nhiều cây
cối rất đẹp, nhưng em thích nhất là những chú trâu đang gặm cỏ. Chị ra đồng hái
rau.
- Nhiều học sinh chưa tích cực trong giờ học mở rộng vốn từ.
Từ thực trạng trên tôi thấy nếu không có biện pháp mở rộng vốn từ cho học
sinh thì chất lượng dạy học tiếng việt sẽ không cao. Vốn từ của học sinh đang còn
nghèo nàn, nhiều em tìm từ chưa đúng yêu cầu và có em không tìm được từ. Nhưng
hạn chế trên một phần là do giáo viên chưa chú ý đúng mức đến dạy học mở rộng
vốn từ cho học sinh. Trong quá trình dạy học, giáo viên ít tạo điều kiện cho học
sinh được hoạt động nhiều với từ nên khả năng tìm từ ở học sinh và sử dụng khi
cần thiết chưa cao. Có bài tập cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo
viên lại tổ chức học sinh làm việc chung cả lớp, có bài tập đề bài yêu cầu cần tổ
chức cho đối tượng học sinh khá giỏi. Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù
hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa
phân loại đối tượng học sinh để áp dụng phương pháp dạy học cho phù hợp với
từng đối tượng học sinh trong lớp nhằm góp phần nâng chất lượng dạy và học.
II.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Giải pháp 1: Phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo
môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ:
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học dưới dự hướng dẫn
của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi, thảo luận, chất
vấn và chia sẻ lẫn nhau.
5
Quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy rất ít giáo viên sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong quá trình dạy học làm giàu vốn từ, đặc biệt là trong nhiệm vụ mở
rộng vốn từ cho học sinh. Trong bài dạy, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp
cá nhân làm việc độc lập, phương pháp vấn đáp để dạy các bài tập mở rộng vốn từ.
Số lượng từ ngữ học sinh nắm được trong giờ học không cao và không bền vững.
Khi huy động vốn từ theo chủ đề, mỗi học sinh chỉ huy động được khoảng 1,2 từ,
nhiều nhất là 3,5 từ. Thậm chí có học sinh không huy động được một từ ngữ nào.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên ít vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực vào trong giờ học, không tạo được điều kiện để
học sinh có thể hoạt động nhiều hơn với từ, lặp đi lặp lại các thao tác với từ để có
thể nhớ từ một cách bền vững. Hơn nữa, khả năng giao tiếp của học sinh hiện nay
còn yếu, học sinh diễn đạt chưa rõ ràng, mạch lạc vì trong quá trình dạy học, học
sinh không được thao tác nhiều với từ. Vì thế, trong quá trình dạy học tôi đã sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp
cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
+ Cách thực hiện:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong bài tập đạt hiệu quả,
giáo viên phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị bài trước khi lên lớp..
- Giáo viên chuẩn bị kỹ bài dạy, nghiên cứu kỹ nhiệm vụ của bài dạy. Xác
định bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
- Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi
thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập xây dựng nghĩa
của từ đối với những học sinh chưa hiểu nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức
của lớp mình, giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu cầu của
bài tập (đối với học sinh yếu, kém, trung bình) tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều
được hoạt động hết khả năng của mình.
- Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh ghi
kết quả theo thảo luận nhóm…
Bước 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học.
- Giáo viên chia các nhóm học sinh.
Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh thảo
luận theo những cách khác nhau như: Chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia nhóm
theo hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ nắm vốn
từ của học sinh…Mỗi học sinh được chia nhóm đều có ưu, nhược điểm nhất định,
6
khi lựa chọn giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình thức để tránh
nhàm chán học sinh.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm vụ thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập (hoặc phiếu
giao việc) cho cả nhóm.
Ví dụ 1: Khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài 1, mở rộng vốn từ: Thiếu nhi
(TV3- Tập 1- trang 16), ta có thể sử dụng phiếu học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, tìm các từ:
a. Chỉ trẻ em:
………………………………………………………………………………………..
b. Chỉ tính nết của trẻ em:
………………………………………………………………………………………..
c. Chỉ tình cảm hoặc sự chăm sóc của người lớn đối với trẻ em:
………………………………………………………………………………………..
Ví dụ2: Đối với bài tập 1, mở rộng vốn từ: Gia đình, Tuần 4 (TV3-Tập 1 –
Trang 33) Gv có thể sử dụng phiếu thảo luận sau:
PHIẾU THẢO LUẬN
Thảo luận nhóm 4, tìm các từ chỉ gộp những người thân trong gia đình:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Ví dụ3: Khi dạy bài 1, Tuần 15 (TV3-Tập 1- trang 126), mở rộng vốn từ: các
dân tộc, GV sử dụng phiếu thảo luận:
PHIẾU THẢO LUẬN
Thảo luận nhóm 4, nói cho bạn nghe và nghe bạn nói tên một số dân tộc
thiểu số ở nước ta mà em biết. Sau đó ghi lại vào chỗ chấm dưới đây:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Ví dụ4: Ở bài tập 1,2, mở rộng vốn từ: Thành thị- Nông thôn, tuần 16 (TV3Tập 1- trang 135), ta có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo phiếu học tập
sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, tìm các từ:
a. Tìm từ thường thấy ở nông thôn:………………………………………….
b. Tìm từ thường thấy ở thành thị:…………………………………………...
c. Chỉ các công việc thường thấy ở nông thôn:………………………………
7
d. Chỉ các công việc thường thấy ở thành thị………………………………...
- Học sinh thảo luận nhóm:
Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo viên
quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết, đảm bảo mọi nhóm đều thảo
luận sôi nổi, hiệu quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả:
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các
nhóm khác nhận xét, bổ sung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng của lớp.
- Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần ghi nhớ sau khi thảo luận nhóm
và tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, nhắc nhở những nhóm, những cá
nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kỹ năng
hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh còn được học
từ bạn và tất cả học sinh đều được tham gia hoạt động giao tiếp. Tôi đã vận dụng
những ưu điểm của phương pháp dạy học này như một biện pháp làm giàu vốn từ
nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho
học sinh luyện tập sử dụng từ.
Giải pháp 2: Phương pháp trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ.
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ yếu
là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua trò
chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người
cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc Tiểu học, sử dụng trò chơi trong quá trình học tập làm cho việc tiếp
thu trí thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự khô khan, có thêm sự sinh
động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
Trong giờ mở rộng vốn từ, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để làm giàu
vốn từ cho mình. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết học thì
hiệu quả giờ học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng trò chơi học
tập là phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi không khí trong lớp học,
tạo sự thi đua sôi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ vũ nhiệt tình của các bạn
trong lớp. Nhờ có trò chơi học tập, học sinh hứng thú hơn với việc học từ ngữ trong
các bài tập mở rộng vốn từ, làm giảm bớt sự khô khan của bài học, học sinh tiếp
thu từ và nghĩa của từ nhanh, phân loại, quản lý vốn từ đúng, sử dụng từ chính xác,
linh hoạt, hợp lý. [4]
Trong quá trình giảng dạy tôi thường sử dụng trò chơi như sau:
8
a. Sử dụng phương pháp trò chơi trong học tập đối với các bài tập phân
loại, quản lý vốn từ và bài tập sử dụng từ:
Đối với nhiệm vụ phân loại, quản lý vốn từ, tôi thấy đa số các bài tập đều
cho trước một số lượng từ nhất định, nhiệm vụ của học sinh là dựa vào một tiêu chí
nào đó để xếp từ vào các nhóm.
Ví dụ 1: Dưới đây là một số từ có tiếng cộng hoặc tiếng đồng và nghĩa của
chúng. Em có thể xếp những từ nào vào mỗi ô trống trong bảng phân loại sau?
- Cộng đồng: Những người cùng sống trong một tập thể hoặc một khu vực,
gắn bó với nhau.
- Cộng tác: Cùng làm chung một việc.
- Đồng bào: người cùng một nòi giống.
- Đồng tâm: Cùng một lòng.
- Đồng hương: Người cùng quê.
Những người trong cộng đồng
……………………………………….
………………………………………
Thái độ, hoạt động trong cộng đồng
………………………………………...
………………………………………...
(Tiếng việt 3, tập 1, trang 65)
Ví dụ 2: Xếp những từ ngữ sau vào hai nhóm: cây đa, gắn bó, dòng sông,
con đò, nhớ thương, yêu quý, mái đình, thương yêu, ngọn núi, phố phường, tự hào.
(Tiếng việt 3, tập 1, trang 89)
Nhiệm vụ của bào tập này làm nổi bật đặc điểm chung của các từ ngữ trong
hệ thống, từ đó làm cơ sở, làm điểm tựa cho hoạt động ghi nhớ, sắp xếp từ thành hệ
thống trong trí nhớ của học sinh. Vì vậy đối với loại bài tập này, tôi thường sử dụng
trò chơi học tập để khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Tên trò chơi: THI TIẾP SỨC.
- Giúp học sinh phân loại, quản lý vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh.
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử
nhanh.
+ Chuẩn bị:
- Bảng phụ hoặc kẻ bảng chính của lớp, trong bảng đó ghi đề bài và các tiêu
chí phân loại từ.
Ví dụ: Xếp các từ vào hai nhóm thích hợp.
Nhóm 1:
Từ chỉ sự vật ở quê hương
Từ chỉ tình cảm đối với quê hương
9
Nhóm 2:
Từ chỉ sự vật ở quê hương
Từ chỉ tình cảm đối với quê hương
- Các giấy ghi sẵn các từ cần xếp loại.
Ví dụ: cây đa, gắn bó, dòng sông, con đò, nhớ thương, yêu quý, mái đình,
thương yêu, ngọn núi, phố phường, tự hào.
- Nam châm hoặc băng dính.
+ Cách tiến hành:
- Trò chơi chia làm hai đội Nam – Nữ, mỗi đội 3,4 học sinh.
- Khi giáo viên có hiệu lệnh “Bắt đầu” lần lượt mỗi em của hai đội chạy lên
dán từ vào đúng nhóm theo tiêu chí phân loại. Khi dán xong, học sinh chạy xuống
chạm tay vào học sinh thứ hai thì học sinh thứ hai mới được chạy lên dán từ tiếp
theo vào bảng. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi hai đội dán xong các từ, trò chơi
kết thúc. Đội nào dán đúng và nhanh đội đó sẽ giành chiến thắng.
Ưu điểm của trò chơi đối với loại bài tập phân loại quản lý vốn từ là kết quả
làm việc của học sinh sẽ tạo ra biểu tượng cụ thể (trên bảng lớp) cho học sinh so
sánh và ghi nhớ.
Ví dụ:
Từ chỉ sự vật ở quê hương
Từ chỉ tình cảm đối với quê hương
Cây đa
gắn bó
Dòng sông
nhớ thương
Con đò
yêu quý
Mái đình
thương yêu
Ngọn núi
bùi ngùi
Phố phường
tự hào
Các từ theo một dấu hiệu được xếp thành một cột trên bảng để học sinh ghi
nhớ từ thuận lợi trong trí nhớ của mình. Khi sử dụng, học sinh có thể liên tưởng
nhanh đến từ trong trò chơi đã được chơi.
Khi học sinh chơi xong, giáo viên có thể kết hợp với các bài tập để học sinh
tìm hiểu nghĩa của từ, phân biệt sắc thái nghĩa của các từ cùng hệ thống để khi học
sinh sử dụng từ chính xác và tinh tế hơn.
10
Trò chơi học tập để học sinh tìm ra tri thức mới đa dạng. Giáo viên có thể sử
dụng thêm các trò chơi khác để phù hợp và thay đổi không khí lớp học làm cho học
sinh hứng thú hơn với việc làm giàu vốn từ của mình.
b. Sử dụng trò chơi học tập để củng cố kiến thức đã học.
Khi thực hiện xong các nhiệm vụ của bài học, vào cuối tiết học, giáo viên sẽ
củng cố lại nội dung đã học cho học sinh. Hiện nay, ở trường tiểu học ít chú ý đến
khâu này trong bài dạy, điều này cũng ảnh hưởng đến chất lượng vốn từ của học
sinh.
Khi dạy mở rộng vốn từ cho học sinh, muốn từ tồn tại sâu sắc, bền vững
trong trí nhớ của học sinh, giáo viên phải tìm cách để học sinh được thao tác nhiều
với từ, tạo điều kiện cho học sinh nghe, nói, đọc, viết từ. Để củng cố bài học cho
học sinh, tôi sử dụng trò chơi “Ai đúng, ai nhanh”.
+ Mục đích: Giúp học sinh củng cố lại những từ vừa học trong bài mở rộng
vốn từ.
+ Cách tiến hành:
- Tổ chức trò chơi vào cuối tiết học.
- Một số học sinh đứng tại vị trí của mình, lần lượt nêu các từ đã học trong
bài. Giáo viên và các học sinh khác sẽ là trọng tài, khi học sinh nêu đúng một từ, cả
lớp đồng thanh nói “đúng” và học sinh được nêu tiếp từ khác. Nếu học sinh nói
chưa đúng thì cả lớp nói “sai” và học sinh đó không được chơi nữa, nhường quyền
chơi lại cho các bạn khác trong lớp. Học sinh nào nêu đúng và nhiều từ sẽ thắng
cuộc…
Sau trò chơi, giáo viên và học sinh sẽ tuyên dương những học sinh nêu đúng
và nhiều từ.
Ưu điểm là loại trò chơi này là tạo điều kiện cho học sinh nói từ. Nói cách
khác, giúp học sinh hoạt động với nhiều từ hơn để ghi nhớ từ hiệu quả hơn.
Những trò chơi này theo dạng rất đơn giản, giáo viên không phải chuẩn bị,
để tổ chức và không gây ồn ào nhưng lại có tác động tích cực đến việc ghi nhớ từ
ngữ của học sinh. Nếu giáo viên tổ chức tốt hai trò chơi thì ngoài tác dụng củng cố
tốt kiến thức của bài học, Trò chơi còn có tác dụng trở lại với bài học mới để ghi
nhớ kiến thức của bài học. Học sinh phải cố gắng để khi chơi tìm được nhiều từ
nhất. Từ đó, hiệu quả của giờ học được nâng cao, số lượng từ và chất lượng từ sau
mỗi bài học sẽ được chuyển biến rõ rệt.
c. Sử dụng phương pháp trò chơi ô chữ để củng cố và mở rộng thêm vốn từ.
11
Trò chơi học tập phần lớn được xem là một thủ thuật, biện pháp củng cố kiến
thức mà học sinh vừa học. Đồng thời giúp học sinh tìm hiểu những ô chữ liên quan
đến chủ điểm vừa học qua phần gợi ý giúp học sinh mở rộng thêm được vốn từ cho
mình.
Ví dụ 1:
CHỦ ĐIỂM MĂNG NON
Ô chữ: MĂNG NON
Dựa vào hàng dọc trong ô chữ hãy tìm các từ hàng ngang, mỗi hàng ngang là
là một từ chỉ đức tính tốt của trẻ em.
Gợi ý: Các từ ở hàng ngang số 1,4,6 được ghi trong “5 điều Bác Hồ dạy”.
Nếu học sinh gặp khó khăn khi giải ô chữ, giáo viên có thể gợi ý bằng chữ cái.
1
M
2
Ă
3
N
4
G
5
N
6
O
7
N
Đáp án: Các từ hàng ngang lần lượt là: khiêm tốn, chăm chỉ, siêng năng,
dũng cảm, ngoan ngoãn, đoàn kết, cần cù.
Ví dụ 2:
CHỦ ĐIỂM LỄ HỘI [2]
Ô chữ: HỘI VUI
Dựa vào các gợi ý và các chữ cái đã có ở hàng dọc, em hãy tìm tên một số
hội thường được tổ chức trong những lễ hội hoặc những ngày hội lớn.
1. Hội sự có trổ tài những chiếc diều đủ loại.
2. Hội có sự tham gia của các đô vật.
3. Hội được tổ chức trên sông.
4. Hội được tổ chức ở Tây Nguyên.
5. Hội có sự góp công của các chú ngựa.
6. Hội là dịp để các liền anh, liền chị đua tài.
1
H
12
2
3
I
4
V
5
6
Ộ
U
I
Đáp án: Các hội được nhắc đến trong ô chữ lần lượt là: thả diều, hội vật, bơi
trải, đua voi, đua ngựa, hội lim.
Ưu điểm là loại trò chơi này là tạo điều kiện cho học sinh nói từ. Nói cách
khác, giúp học sinh hoạt động với nhiều từ hơn để ghi nhớ từ hiệu quả hơn nhằm
phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh.
Trò chơi rất hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, giáo viên không nên lạm
dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi gây nhàm chán đối với học
sinh. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ về điều kiện vật chất và cách thức
thể lệ chơi. Trong lúc chơi, giáo viên cần hướng dẫn, động viên hoàn thành tốt bài
tập tạo sự hưng phấn, thích thú trong tiết học. Tổ chức trò chơi trong giờ mở rộng
vốn từ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: thời gian ngắn, nội dung kiến thức thay
đổi theo từng bài học…Vì vậy, tổ chức trò chơi phải linh hoạt, khéo léo, không làm
ảnh hưởng đến thời gian và đảm bảo chất lượng dạy học.
Giải pháp 3: Vận dụng hợp lý các hình thức thi đua, khen thưởng nhằm
khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong giờ học.
Thi đua gắn với khen thưởng là một động lực không thể thiếu được trong quá
trình học của học sinh. Hình thức thi đua khen thưởng rất phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh tiểu học. Các em cố gắng phấn đấu vì động cơ rất đơn
giản: Cố gắng để được nhận xét là bài làm tốt, cố gắng để được cô giáo khen, cố
gắng để làm vui lòng ông bà, cha mẹ…Trong giờ mở rộng vốn từ, nhờ không khí
thi đua, học sinh sôi nổi hơn, hăng say hơn, khen thưởng giờ mở rộng vốn từ là sự
công nhận kết quả mà học sinh đạt được (học sinh tìm ra từ mới, phát hiện ra nghĩa
mới câu, từ, đặt được câu hỏi, đoạn văn hay…). Nếu được khen đúng lúc, học sinh
sẽ cảm thấy tự tin và phấn đấu hơn. Hiện nay, giáo viên ít sử dụng khen thưởng nên
giờ học trầm, không sôi nổi và chất lượng dạy học vốn từ cũng bị hạn chế do lý do
này.
- Trong quá trình dạy mở rộng vốn từ, tôi đã vận dụng phương pháp thi đua
khen thưởng như sau:
13
+ Trước khi vào bài học hay trước khi tổ chức một trò chơi học tập, giáo viên
nêu tiêu chí thi đua rõ ràng, cụ thể để tạo tâm thế thi đua cho học sinh.
Ví dụ:
* Thi đua xem bạn nào tìm được nhiều từ mới sẽ được cộng nhiều lời khen
vào sổ liên lạc.
* Thi đua xem nhóm nào thảo luận sôi nổi, hoàn thành bài tập đúng và nhanh
sẽ được công nhiều bông hoa (bài làm tốt) cho cả nhóm.
* Thi đua giữa các tổ về mọi mặt: nề nếp, ý thức, hiệu quả thảo luận….
- Hình thức khen thưởng đưa ra phải mang tính cụ thể, chủ yếu về mặt tinh
thần để khuyến khích học: ghi nhiều lời khen, hay một tràng vỗ tay…
- Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần kịp thời khen những cá nhân tiêu biểu
xuất sắc và những cá nhân có tiến bộ vượt bậc trong tiết học. Từ đó học sinh cả lớp
có thể noi gương để phấn đấu, phấn đấu để được cô giáo khen và phấn đấu để
không bị kém bạn bè.
- Tuy nhiên, trong một tiết học, không phải mọi học sinh đều có tinh thần thi
đua để học tốt, vẫn có một số học sinh không chú ý vào bài học. Vì vậy, bên cạnh
việc sử dụng biện pháp khen thưởng, giáo viên vẫn phải sử dụng biện pháp nhắc
nhở đối với học sinh không chú ý xây dựng bài. Việc nhắc nhở phải nghiêm khắc
và công minh để các em nhận ra khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa để cùng tiến
bộ với các bạn.
Trong giờ mở rộng vốn từ nói riêng và tất cả các giờ học khác nói chung giáo
viên phải luôn tạo được không khí thi đua sôi nổi, hào hứng trong giờ học. Khi học
sinh đạt thành tích, giáo viên cần khen thưởng kịp thời để khuyến khích động viên
các em. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, giáo viên không được lạm dụng quá
nhiều gây nhàm chán đối với học sinh.
Giải pháp 4: Hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho
học sinh.
- Theo quan điểm của giáo dục học, là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội
tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp
của cơ sở giáo dục. Tự học có thể bằng cách đọc tài liệu, sách giáo khoa, nghe đài,
đọc báo, xem truyền hình, thăm bảo tàng, triển lãm… [5]
- Tự học gắn liền với tự ý thức và tự giáo dục. Ở học sinh Tiểu học, tự ý thức
và tự giáo dục của các em đang hình thành và phát triển. Do vậy, tự học của học
sinh tiểu học khác với tự học của học sinh các cấp trên về yêu cầu, mức độ, phạm
vi… Tự học của học sinh tiểu học chỉ giới hạn ở việc trẻ tự giác hoàn thành các
nhiệm vụ học tập được giao (làm các bài tập được giao, chuẩn bị để học bài
14
mới…). Dù trực tiếp hay gián tiếp, hoạt động tự học của học sinh tiểu học đều có
sự hướng dẫn của giáo viên. Tự học của học sinh tiểu học không những diễn ra ở
nhà mà còn diễn ra ngay trong lớp học với hình thức dạy học cá nhân trên lớp. Ở
hình thức dạy học này, học sinh thực hiện theo nội dung, cách thức và tiến độ khác
nhau tùy thuộc vào năng lực cá nhân, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. [5]
- Trên cơ sở đó, tự học làm giàu vốn từ có thể hiểu là quá trình học sinh tự
mình lĩnh hội vốn từ, tự mình tìm hiểu nghĩa từ, phân loại quản lý vốn từ và vận
dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp.
- Đối với học sinh lớp 3, tự làm giàu vốn từ có thể bao gồm các công việc
sau: Học sinh tự giác hoàn thành các bài tập trong giờ mở rộng vốn từ, hoàn thành
các nhiệm vụ được giáo viên giao về nhà, có thắc mắc có ham muốn tìm hiểu
những từ mình chưa rõ nghĩa, chưa biết sử dụng, thường xuyên đọc và tra từ điển
để tăng thêm vốn từ và hiểu nghĩa từ….
- Để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh tôi đã thực hiện sau:
* Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ: Giáo viên giao
nhiệm vụ cho học sinh. Khi giao nhiệm vụ, giáo viên phải đảm bảo tất cả các học
sinh đều nhớ và hiểu rõ nhiệm vụ được giao, bao gồm: ôn lại các từ và nghĩa vừa
học của bài trước, làm các bài tập trong sách giáo khoa, chuẩn bị quan sát, tìm từ để
học bài mới,….Giao thêm cho học sinh khá giỏi các nhiệm vụ học tập khó hơn, đòi
hỏi các em phải có sự cố gắng nhiều hơn.
* Hướng dẫn học sinh cách đọc bài, làm bài và sử dụng thời gian tự học.
Khi học bài: Trước khi học bài, học sinh phải nhớ lại bài giáo viên đã giảng
trên lớp (bài học chủ đề gì? Những từ đã học là từ gì? Nghĩa của từ đó là gì? Sử
dụng từ đó như thế nào?...). Tập trung suy nghĩ để hiểu bài, nhớ lâu từ và nghĩa của
từ trong bài. Tập vận dụng những từ vừa học dưới hình thức: Tìm thêm ví dụ, liên
hệ đối chiếu với các từ trong nhóm và với các từ khác, đặt câu có từ đó, đưa từ vào
trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể trong cuộc sống của mình.
Ví dụ:
Khi học chủ điểm “Thành thị - Nông thôn”, sau khi mở rộng vốn từ theo chủ
điểm, học sinh cần vận dụng các từ đã học vào đặt câu nói về thành thị nơi mình
đang sống. Đồng thời tìm thêm nhiều từ mới nói về sự vật, công việc ở thành thị
cũng như nông thôn mà trên lớp giáo viên chưa đặt ra. Sau đó tập đặt câu hỏi với
các từ đó.
Khi làm bài: Đọc kỹ đề bài, làm bài ra giấy nháp, sửa chữa cho chính xác rồi
mới viết bài vào vở. Nếu gặp phải những từ chưa hiểu rõ nghĩa học sinh phải tự tra
từ điển hoặc hỏi người lớn để hiểu nghĩa.
15
Trong khi học bài, làm bài, học sinh phải tập thói quen cẩn thận, chắc chắn,
thực hiện đến nơi đến chốn các nhiệm vụ được giao mà bố trí thời gian tự học hợp
lý. Trong buổi tự học, cần giành thời gian để ôn bài vừa học, làm các bài tập, chuẩn
bị cho bài ngày hôm sau.
* Tập cho học sinh thói quen dựa vào sức mình là chính.
Trong bất kỳ hình thức hoạt động nào, dù hoạt động độc lập hay thảo luận
nhóm, học sinh cũng đều phải có ý thức dựa vào bản thân mình là chính. Học sinh
phải tích cực suy nghĩ để tìm từ theo chủ đề, tìm ra dấu hiệu chung của các từ để
thực hiện nhiệm vụ phân loại và quản lý vốn từ…. Giáo viên chấn chỉnh ngay
những học sinh có thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào các bạn khác trong lớp, không tích
cực học tập, suy nghĩ, thụ động đón nhận tri thức có sẵn.
* Đa dạng hóa các hình thức làm giàu vốn từ.
Hoạt động tự học làm giàu vốn từ của học sinh được tiến hành dưới nhiều
hình thức khác nhau như tự học cá nhân, tự học theo nhóm, tự học trên lớp, tự học
ở nhà…. Đối với đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 3, khả năng ý thức của các em
đã dần dần được hình thành cho nên trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng tất cả
các hình thức tự học nêu trên. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn cho từng cặp học sinh tự
học theo hình thức nhóm đôi. Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến” thi đua giúp đỡ nhau
học tập trên lớp và ở nhà. Nhờ hình thức này, học sinh trao đổi với nhau về các vấn
đề liên quan đến từ và vốn từ. Qua quá trình thực hiện tôi thấy hình thức này đã
mang lại hiệu quả tích cực.
* Tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh.
Khi giao bất kỳ nhiệm vụ gì cho học sinh, giáo đều phải kiểm tra, đánh giá
xem xét học sinh có thực hiện không? Kết quả thực hiện như thế nào? Nếu giao
nhiệm vụ tự học, giáo viên không kiểm tra, đánh giá học sinh dễ dàng bỏ qua
nhiệm vụ được giao.
Có thể kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tự học của học sinh thông
qua các hình thức kiểm tra bài cũ, kiểm tra vở bài tập hoặc nêu ngay câu hỏi để học
sinh trả lời ngay đối với học sinh đang học trên lớp.
Ngoài ra, để hoạt động tự học của học sinh đạt hiệu quả cao phải có sự phối
hợp của phụ huynh học sinh trong việc nhắc nhở học sinh làm bài tập, chuẩn bị các
phương tiện cần thiết cho việc làm giàu vốn từ như từ điển Tiếng việt, bố trí thời
gian tự học cho hợp lý.
Tóm lại, tăng cường tự học, tự làm giàu vốn từ là một trong những con
đường để nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ học tập nói chung và làm giàu
16
vốn từ nói riêng cho từng học sinh. Đồng thời cũng hình thành và phát triển bước
đầu cho học sinh năng lực tự học.
Như vậy, trong quá trình dạy học mở rộng vốn từ tôi đã áp dụng bốn biện
pháp để làm giàu vốn từ cho học sinh. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Để tìm được các từ theo chủ điểm, phát huy khả năng giao tiếp và vốn
sống của học sinh, tôi dùng biện pháp thảo luận nhóm. Để học sinh hứng thú hơn
trong việc học, tôi dùng hình thức thi đua, khen thưởng. Để thay đổi hình thức dạy
học, tôi dùng trò chơi trong giờ học. Đồng thời, không phải khi nào giáo viên cũng
tổ chức thảo luận nhóm hoặc trò chơi học tập, sẽ có thời gian giáo viên phải độc lập
làm bài tập cá nhân nên giáo viên luôn phải nhắc nhở học sinh ý thức tự học và
hướng dẫn học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC, BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
- Nhờ áp dụng nhiều biện pháp nên vốn từ của học sinh lớp 3A ngày càng
phong phú và bền vững, học sinh có thể huy động nhanh từ theo chủ đề khi giáo
viên yêu cầu hoặc khi làm bài kiểm tra.
- Học sinh thích làm bài tập hơn, hào hứng với trò chơi học tập, thảo luận
nhóm sôi nổi, tự mình khám phá ra từ mới, nắm nghĩa từ, sử dụng từ. Vận dụng các
biện pháp làm giàu vốn từ đã đề xuất làm cho lớp học sôi nổi hơn nhiều.
Kết quả thi cuối học kỳ II của lớp 3A (sử dụng biện pháp làm giàu vốn từ
cho học sinh) đạt được như sau:
Sĩ số
lớp
30
Tìm từ
Được
Chưa được
SL
TL
SL
TL
26
86.6%
4
13.4%
Sử dụng từ
Được
Chưa được
SL
TL
SL
TL
25
73.3%
5
16.7%
[
Thông qua kết quả của bảng thống kê, ta thấy chất lượng học sinh có sự tiến
bộ rõ rệt. Điều đó chứng tỏ tính đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp làm giàu
vốn từ cho học sinh mà tôi đã và đang áp dụng.
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Luyện từ và câu lớp 3 đặc biệt là với các
dạng bài “Làm giàu vốn từ” với người giáo viên phải có trách nhiệm cao trong
công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp, tác
động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân mình.
Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng
đắn, người giáo viên cần lưu ý một số việc sau:
17
- Nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy
Luyện từ và câu có trong chương trình để từ đó xâu chuỗi được các kiến thức cần
cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy.
- Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài.
- Trong từng tiết học cần vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học khác
nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu và làm bài tập được
ngay tại lớp.
- Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
Sau khi áp dụng các biện pháp làm giàu vốn từ và đạt được một số kết quả
như trên, tôi thấy việc làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 3 sẽ giúp các em có kỹ
năng sử dụng từ để giao tiếp. Ngoài ra các em lựa chọn trong vốn từ của mình
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm để viết những câu văn, đoạn văn sinh động.
Với giáo viên, họ đã có trong tay những giải pháp khi dạy dạng bài này và
không còn lúng túng khi giảng dạy cho học sinh. Cũng thông qua sáng kiến này mà
tổ chuyên môn ở trường chúng tôi đã có những buổi họp chuyên môn hữu ích, họ
không chỉ sôi nổi thảo luận khi dạy về phân môn Luyện từ và câu nói chung và
dạng bài mở rộng vốn từ nói riêng ở lớp 3 này mà họ còn mạnh dạn đề ra các biện
pháp dạy học phù hợp với các phân môn khác.
Tìm hiểu những biện pháp phù hợp với từng nội dung bài học là yêu cầu
không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với sáng kiến này tôi mong góp
một phần nhỏ bé vào trong kho tàng kinh nghiệm giảng dạy phân môn Luyện từ và
câu trong môn Tiếng việt lớp 3.
2. Kiến nghị:
Giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để nâng cao
hiệu quả dạy học làm giàu vốn từ cho học sinh như: thảo luận nhóm, trò chơi học
tập và biện pháp thi đua khen thưởng.
- Giáo viên phải chú ý tự trau dồi vốn từ cho mình. Đọc tài liệu để có những
hiểu biết sâu sắc về các nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh ở tiểu học.
- Giáo viên phải chú ý hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho
học sinh.
18
- Sử dụng nhiều biện pháp làm giàu vốn từ sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy học vốn từ nói riêng và dạy học Tiếng việt nói chung.
Tuy nhiên, sáng kiến này do tôi viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp.
ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT
Hà Trung , ngày 2 tháng 3 năm 2017
CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG
Tôi cam đoan đây là SKKN tự bản thân tôi viết,
………………………………………… không hề sao chép nội dung của người khác
…………………………………………
Người viết
…………………………………………
…………………………………………
Trần Thị Liên
Tài liệu tham khảo
1.Tiếng Việt cơ bản & Nâng cao lớp 3 tác giả Trần Đức Niềm-Th.S Lê Thị Nguyên
2.Em học giỏi- Luyện từ và câu lớp 3 tác giả ThS. Lê Thị Quyên, Trần Đức Niềm
3.Kiến thức tiếng việt và bài văn mẫu lớp 3- TS Lê Anh Xuân
4.Tiếng Việt nâng cao lớp 3- ( Nhiều tác giả)
19
5.Tập san giáo dục tiểu học số 6, số 7 năm 2016.
20