Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số biện pháp dạy luyện từ và câu cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.55 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU
CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện: Hà Thùy Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Thịnh
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
PHẦN

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3



NỘI DUNG

Mở đầu
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Các giải pháp thực hiện
Kết quả đạt được
Kết luận, kiến nghị

TRANG

1
1
2
2
2
2
2
3
3
8
8



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là môn học có vị trí, vai trò rất quan trọng trong chương trình
Tiểu học. Môn Tiếng Việt hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử
dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong môi trường
hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện
các thao tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của
Việt Nam và nước ngoài. Ngoài ra môn Tiếng Việt còn bồi dưỡng tình yêu tiếng
Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp
phần hình thành nhân cách con người Việt Nam cho học sinh.
Môn Tiếng việt đặt mục tiêu rèn luyện kĩ năng lên hàng đầu, mục tiêu rèn
luyện tư duy cũng được quan tâm. Kiến thức được dạy là những kiến thức ở
mức độ sơ giản. Việc rèn luyện kĩ năng và trang bị kiến thức để nhằm đạt tới
mục tiêu có tính tổng quát của môn học đó là hình thành phát triển tư tưởng, tình
cảm, nhân cách cho học sinh.
Môn Tiếng Việt bao gồm nhiều phân môn (Tập đọc, Luyện từ và câu,
Chính tả, Tập viết, Kể chuyện, Tập làm văn), mỗi phân môn chịu trách nhiện rèn
luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định. Phân môn Luyện từ và câu cung
cấp kiến thức sơ giản về tiếng Việt, rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói,
viết), kĩ năng đọc cho học sinh.
Phân môn Luyện từ và câu là sự tích hợp hai phân môn ngữ pháp và từ
ngữ. Kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp được dạy qua các bài thực hành luyện tập
(Không có bài học riêng). Cách sắp xếp trình bày các bài tập rất hợp lí, có hệ
thống và quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ sở kiến thức mà sách giáo khoa cung
cấp học sinh đã được làm quen từ các bài tập đọc, chính tả, một số từ có trong
các bài tập viết. Chương trình luyện từ và câu nhấn mạnh đến tính tích hợp, tính
thực hành giao tiếp, chú trọng dạy từ và câu thông qua các tình huống giao tiếp.
Các kiến thức về từ và câu được đưa vào chương trình một cách tinh giản và
chọn lọc, tạo cơ sở cho việc thực hành. Đặc trưng của Luyện từ và câu lớp 2 là

kiến thức được truyền thụ cho học sinh đều thông qua hệ thống bài tập. Có thể
nói mỗi bài dạy Luyện từ và câu là một hệ thống mở nhằm phát huy tối đa khả
năng sáng tạo, nghệ thuật sư phạm của mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nhiều giáo
viên còn cảm thấy lúng túng, cách dạy còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc
vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa sinh động. Trong các giờ học
Luyện từ và câu, ít và dường như không thấy học sinh chủ động học tập, tìm tòi,
tranh luận; câu trả lời của các em không mang tính sáng tạo và kết quả học tập
còn thấp.
Thực tế cho thấy, học sinh tiểu học nhất là vào giai đoạn đầu cấp học, vốn
từ rất nghèo, kĩ năng sử dụng từ còn hạn chế, chưa nắm chắc cấu trúc câu… Do
đó, khi dùng từ để nói, viết thành câu, các em sử dụng còn tùy tiện, dựa theo
cảm tính mà không biết dùng từ đúng với ngữ cảnh. Các em hay bắt chước
người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ
1


nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ cảnh nào. Vì
vậy các câu, bài cứ na ná như nhau. Học sinh dùng câu chưa đúng ngữ điệu,
không có sự biểu cảm mà đơn thuần chỉ là câu liệt kê, thông báo đơn giản. Học
sinh dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý cần diễn đạt. Giáo viên còn
gặp không ít khó khăn lúng túng, nhiều giáo viên chỉ dạy theo kiểu lặp lại dạng
bài gây nhàm chán cho học sinh. Vì vậy để học sinh lớp 2 mở rộng và làm giàu
vốn từ, giúp các em học và sử dụng tiếng mẹ đẻ như một công cụ và phương
pháp giao tiếp, đồng thời phát triển ngôn ngữ, phát triển tư duy tôi đã vận dụng
một số phương pháp dạy Luyện từ và câu. Làm thế nào để dạy Luyện từ và câu
đạt kết quả cao? Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Một vài biện pháp dạy luyện
từ và câu cho học sinh lớp 2”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu nội dung chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 2 và
thực tiễn dạy học, từ đó thấy được những vướng mắc của giáo viên và học sinh,

đồng thời tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ
và câu cho học sinh lớp 2.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Biện pháp dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2- Trường Tiểu học
Xuân Thịnh, Triệu Sơn, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu vấn đề này, tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Quan sát.
- Thảo luận nhóm.
- Thực nghiệm.
- Điều tra thực tế, thu thập thông tin.
- Thống kê, xử lí số liệu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Phân môn Luyện từ và câu giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng
Việt của lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường học sinh đã được
làm quen với lí thuyết của Luyện từ và câu. Sau đó, kiến thức được mở rộng
thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống
của các em cũng như trong lao động học tập, giao tiếp.
Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn
vị trung tâm của ngôn ngữ, chính vì vậy việc dạy Luyện từ và câu ở giai đoạn
đầu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập và phát triển toàn
diện.
Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác
trong tất cả các cấp học sau, cũng như lao động và giao tiếp. Đây là phân môn
giúp học sinh nói đúng, từ đó sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo làm công
cụ tư duy để học tập và giao tiếp.

2



2.2. Thực trạng.
- Dạy Luyện từ và câu là khó so với các phân môn khác. Có nhiều từ, câu
chưa phân định rõ ràng (đang còn nhiều tranh cãi) nên xác định và chốt lại cho
học sinh là khó, trong khi giảng dạy giáo viên còn bí từ và giải nghĩa cho học
sinh còn lúng túng.
- Giờ Luyện từ và câu thường trầm, không sôi nổi và khô, học sinh ít chú
ý vào bài, giáo viên phải chuẩn vị nhiều đồ dùng như tranh ảnh, phấn màu, bảng
phụ…
- Phương pháp mà giáo viên thường sử dụng trong tiết đó là : giảng giải,
hỏi đáp, làm mẫu, luyện tập… cùng với phương pháp trực quan nên ít gây được
hứng thú học tập cho học sinh.
*Qua khảo sát học sinh Trường Tiểu học Xuân Thịnh tôi thấy như sau:
Lớp

Số
HS

Chưa hoàn
Chưa hoàn
thành BT Mở thành BT Tích
rộng vốn từ
cực hóa vốn từ
SL
TL
SL
TL

Chưa hoàn
thành BT Đặt

câu theo mẫu
SL
TL

Chưa hoàn thành
BT Sử dụng dấu
câu
SL
TL

2B

25
8
32
9
36
7
28
9
36
Cụ thể:
- Dạng bài tập về từ : Học sinh dùng từ sai do nắm chắc nghĩa của từ;
không kết hợp được từ do vốn từ nghèo, khả năng huy động và lựa chọn từ hạn
chế; học sinh học theo kiểu truyền khẩu, bắt chước nên không nắm chắc, hiểu kĩ
dẫn đến dùng từ không phù hợp…
- Dạng bài tập về câu và sử dụng dấu câu: Học sinh chưa nắm vững cấu
trúc câu, dùng từ để nói viết thành câu chưa đúng ngữ cảnh. Các em hay bắt
chước người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào
đúng, từ nào sai, câu này nên viết ra sao…Sử dụng dấu câu tùy tiện. Khi nói

chưa diễn đạt lưu loát…
Từ thực trạng trên, để nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu tôi
mạnh dạn đề xuất một số biện pháp giúp học sinh học tốt Luyện từ và câu.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Giải pháp 1. Cách rèn luyện về từ.
a. Bài tập mở rộng vốn từ.
* Các bài tập mở rộng vốn từ theo ý nghĩa khái quát:
Đây là dạng bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ theo ý nghĩa khái quát
của từ. Học sinh mở rộng, phát triển vốn từ theo hệ thống các từ chỉ sự vật, hoạt
đông, trạng thái, đặc điểm, tính chất.
Đối với học sinh lớp 2, các em bước đầu làm quen với các khái niệm “sự
vật”, “hoạt động”, “trạng thái”, “đặc điểm”, nên khi dạy dạng bài tập này tôi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu qua hệ thống tranh ảnh, hoạt động… từ đó tự mình
giải thích cho học sinh các khái niệm “sự vật” là : người, đồ vật, loài vật, cây
cối…; “hoạt động, trạng thái” là cử chỉ, động tác, tư thế, tình trạng của người,
vật…; “đặc điểm” là hình dáng, tính tình, màu sắc của người, vật…

3


Thông thường, giáo viên chỉ cung cấp từ cho học sinh theo nội dung bài
tập trong sách giáo khoa và sử dụng phương pháp Hỏi- Đáp. Có nghĩa giáo viên
nêu câu hỏi, yêu cầu học sinh quan sát, thảo luận, nêu từ (theo hình thức cá nhân
hoặc nhóm). Tôi nhận thấy học sinh chỉ được cung cấp một số lượng từ nhất
định mà không có khả năng phát triển và vận dụng. Để học sinh ghi nhớ làm
phong phú vốn từ tôi thường cho học sinh quan sát thực tế xung quanh. Chẳng
hạn: học về từ chỉ “sự vật”, tôi khuyến khích cho các em quan sát sự vật xung
quanh tìm từ ngữ để gọi tên sự vật đó rồi ghi vào bảng nhóm (cỡ lớn); nếu cần
thiết có thể minh họa bằng hình vẽ hoặc giải thích cụ thể đối với những từ chỉ sự
vật hiếm, lạ. Những bảng từ được các em treo lên bốn bức tường của lớp. Lúc

rảnh rỗi hoặc giờ ra chơi, học sinh sẽ cùng nhau đọc và tìm ra những từ sai hoặc
không có nghĩa để sửa lại cho đúng. Cứ như vậy, hằng ngày những dòng chữ
hiển hiện trước mắt “thấm” dần vào các em và như thế các em có thêm rất nhiều
từ mới (có thể là những từ rất gần gũi, giản dị như: con dao, cái kéo, viên phấn,
con mèo, gió, mưa…). Rồi cũng chính thông qua việc này các em ngầm hiểu
đây chính là những từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng. Và sau này khi được yêu cầu
xác định những từ chỉ sự vật trong văn cảnh cụ thể, các em có thể xác định khá
chính xác và nhanh.
* Dạy bài mở rộng vốn từ theo chủ điểm:
Đây là dạng bài tập chỉ nêu định hướng cho các em dựa vào những văn
bản đã học, quan sát tranh, hoặc huy động vốn từ sẵn có của bản thân, bạn bè để
đưa từ ấy vào hệ thống.
Khi dạy các dạng bài tập này tôi thường tổ chức cho học sinh hoạt động
theo nhóm với nhiệm vụ là luân phiên ghi vào bản nhóm các từ theo chủ điểm
của nội dung bài, sau đó dùng từ tìm được để đặt câu. Khi các nhóm đã thực
hiện xong nhiệm vụ, tôi tổ chức cho từng nhóm trình bày trước lớp để cả lớp
nhận xét và từ đó giáo viên xây dựng bảng tổng hợp kết quả của bài tập.
* Dạy mở rộng vốn từ qua trò chơi ô chữ:
Mở rộng vốn từ qua trò chơi ô chữ là một trò chơi học tập có tính trực
quan nên dễ thu hút học sinh, dạng bài tập này chiếm số lượng rất ít chủ yếu là ở
các tiết ôn tập.
Các từ ngữ cần tìm và cần điền vào ô chữ thường cùng nằm trong một
chủ điểm, một trường nghĩa, do đó, tác dụng giúp học sinh mở rộng, phát triển
vốn từ theo hệ thống của dạng bài tập này rất cao. Về cấu tạo, bài tập giải ô chữ
thường có hai phần: phần ô chữ và phần gợi ý. Giáo viên phối hợp hai phần với
nhau giúp học sinh dễ dàng tìm ra từ ngữ thích hợp, qua đó mở rộng được vốn từ
và nắm được nghĩa của từ.
b. Dạy bài tích cực hóa vốn từ.
Sử dụng từ là lựa chọn và kết hợp từ với nhau để tạo thành câu, thành
đoạn. Mục đích của bài tập là tích cực hóa vốn từ của học sinh, nghĩa là chuyển

những từ học sinh tích lũy được huy động vào hoạt động giao tiếp, tư duy. Bài
tập không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm rõ khả năng kết hợp từ.

4


Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền từ vào chỗ trống, bài tập tạo
từ.
* Với bài tập điền từ vào chỗ trống:
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc các câu văn có chỗ trống để học
sinh sơ bộ nắm được nội dung của từng câu, làm cơ sở cho việc lựa chọn từ cần
điền. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt thử điền từng từ cho sẵn vào
từng chỗ trống trong câu, từ nào có sự tương hợp về nghĩa, phù hợp về quan hệ
ngữ pháp với những từ trong câu thì lựa chọn từ đó.
*Bài tập tạo từ:
Với những bài tập dạng này, giáo viên hướng dẫn học sinh tạo các từ theo
từng tiếng dưới dạng sơ đồ cây.
Ví dụ: Bài tập 1(TV2, Tuần 12, trang 99):
Ghép các tiếng sau thành những từ có hai tiếng: yêu, thương, quý, mến,
kính. Giáo viên hướng dẫn học sinh ghép tiếng yêu với các tiếng ta có các từ yêu
thương, yêu quý, yêu mến,… tương tự như vậy học sinh sẽ tạo các từ tiếp theo.
Giải pháp 2. Cách rèn luyện về câu.
a. Dạy các kiểu câu Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào?
Các kiểu câu Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? Là các câu đơn bình thường
được phân loại dựa vào vị ngữ:
-Câu luận có vị ngữ chứa từ là (hoặc không phải là, không phải ở hình
thức phủ định) Ví dụ: Mẹ em là giáo viên ( Mẹ em không phải là giáo viên).
-Câu kể thường có vị ngữ là động từ (cụm động từ) chỉ hoạt động trả lời
câu hỏi Làm gì?Ví dụ: Mẹ em đang hái rau.
-Câu tả thường có vị ngữ là động từ (cụm động từ) chỉ trạng thái, tính từ

(cụm tính từ) trả lời cho câu hỏi Thế nào? Ví dụ: Chị em rất đẹp.
Để dạy học sinh thành thạo các kiểu câu này ngay từ khi dạy học sinh về
từ tôi đã hướng dẫn để học sinh nắm vững nghĩa của từ, sau đó dùng từ đặt câu.
Khi các em hiểu rõ nghĩa của từ thì dễ dàng xác định được cấu trúc câu cũng
như đặc điểm của câu có liên quan đến loại từ được sử dụng.
Ví dụ: Bộ phận trả lời câu hỏi Là gì? trong kiểu câu Ai là gì? thường là
các từ chỉ sự vật (gọi tên); bộ phận trả lời cho câu hỏi Làm gì? trong kiểu câu Ai
làm gì? thường là những từ chỉ hoạt động; bộ phận trả lời câu hỏi Thế nào?
trong kiểu câu Ai thế nào? thường là các từ ngữ chỉ trạng thái, tính chất.
Với dạng bài tập này tôi thường cho học sinh tiến hành đặt câu theo
nhóm. Trong khoảng thời gian nhất định, học sinh lần lượt thực hành đặt câu và
ghi các mẫu câu đã đặt vào bảng nhóm. Giáo viên yêu cầu các em đánh dấu
những câu mình đặt (Ví dụ học sinh 1 trong nhóm ghi các câu của mình đặt là
1). Việc làm này giúp giáo viên quan sát và đánh giá được mức tiến bộ của từng
đối tượng học sinh, nắm được điểm mạnh, điểm yếu của từng em để có kế hoạch
bồi dưỡng hoặc phụ đạo. Khi các nhóm đã thực hiện xong nhiệm vụ tôi tổ chức
cho từng nhóm trình bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách dùng từ, đặt
câu, về chính tả, chữ viết. Việc được tham gia vào quá trình chữa bài cho bạn
cũng góp phần giúp học sinh tự chữa lỗi cho mình về dùng từ, đặt câu và lỗi
5


chính tả. Với sự hỗ trợ của giáo viên, qua các tiết luyện từ và câu, học sinh đã
biết đặt câu ngày càng đúng, phù hợp với văn cảnh. Cũng từ những hoạt động
trên học sinh nắm được cấu trúc câu, đặt câu theo mẫu nhanh hơn, nội dung diễn
đạt đa dạng, phong phú và bước đầu có hình ảnh.
Ngoài ra, để phát huy được khả năng tư duy của mọi đối tượng học sinh,
khi dạy học sinh tìm từ đặt câu tôi thường đưa ra một chủ đề và yêu cầu học sinh
tìm từ quanh chủ đề đó.
Ví dụ : Nhà em nuôi một con chó/ gà/… hãy tìm từ chỉ một vài đặc điểm

của con vật ấy. Sau khi học sinh tìm được từ ngữ (Ví dụ : sủa gâu gâu, lông
mượt…) giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu để diễn tả cảm nghĩ của mình. Các
câu đều được ghi vào bảng nhóm rồi chỉ người trình bày. Khi thực hiện hoạt
động này tôi nhận thấy các em đã bước đầu bộc lộ tính cách riêng trong việc
dùng từ, đặt câu. Trên cơ sở biết đặt câu thành thạo, học sinh dễ dàng viết một
đoạn văn ngắn theo chủ đề cho trước. Trong thời gian của một tiết học thay vì
học sinh có thể tìm được 1, 2 câu thì nay đã có hàng chục từ ngữ, câu văn.. do
học hỏi được ở bạn bè. Các em còn được tạo điều kiện để sửa câu sai, chọn câu
hay, phù hợp ngữ cảnh.
b. Dạy kiểu bài Đặt và trả lời câu hỏi Khi nào? Ở đâu? Như thế nào?
Vì sao? Để làm gì?
Mục đích của kiểu bài này là dạy học sinh cách dùng trạng ngữ của câu.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững nghĩa của các bộ phận câu.
Chẳng hạn:
-Bộ phận câu bổ sung ý nghĩa chỉ thời gian thì đặt câu hỏi Khi nào?
-Bộ phận câu bổ sung ý nghĩa chỉ nơi chốn thì đặt câu hỏi Ở đâu?
-Bộ phận câu bổ sung ý nghĩa chỉ cách thức thì đặt câu hỏi Như thế nào?
-Bộ phận câu bổ sung ý nghĩa chỉ nguyên nhân thì đặt câu hỏi Vì sao?
-Bộ phận câu bổ sung ý nghĩa chỉ mục đích thì đặt câu hỏi Để làm gì?
Giải pháp 3. Bài tập về dấu chấm, dấu phẩy.
a. Dạy dấu phẩy:
Dấu phẩy được dùng để đánh dấu ranh giới giữa các bộ phận của câu. Khi
hướng dẫn học sinh tập dùng dấu phẩy tôi dùng biện pháp sử dụng các câu hỏi
tìm bộ phận của kiểu câu đã học để giúp học sinh xác định vị trí cần đặt dấu
phẩy.
*Dùng câu hỏi Ai? (Cái gì? Con gì?)
Giáo viên có thể đặt câu hỏi này với số nhiều (Những ai? Những cái gì?
Những con gì?) để gợi ý học sinh tìm vị trí đặt dấu phẩy ngăn cách với các từ
ngữ cùng giữ chức vụ trong câu.
Ví dụ 1: Bài tập 4 (TV2, Tuần 12, Trang 100) Có thể đặt dấu phẩy vào

những chỗ nào trong mỗi câu sau:
a. Chăn màn quần áo được xếp gọn gàng.
b. Giường tủ bàn ghế được kê ngay ngắn.
c. Giầy dép mũ nón được để đúng chỗ.

6


Hỏi: a. Những cái gì được xếp gọn gàng? (chăn màn/ quần áo được xếp
gọn gàng).
Học sinh xác định được: Dấu phẩy đặt sau chăn màn để ngăn cách với
quần áo.
(Tương tự với câu b, c)
Ví dụ 2: Bài tập 3 (TV2, Tuần 8, Trang 67) Có thể đặt dấu phẩy vào
những chỗ nào trong mỗi câu sau:
c.Chúng em kính trọng, biết ơn thầy giáo cô giáo.
Hỏi: Chúng em kính trọng, biết ơn những ai? (thầy giáo/ cô giáo).
Học sinh xác định được: Dấu phẩy đặt sau thầy giáo để ngăn cách với cô
giáo.
Giáo viên giúp học sinh ghi nhớ: Trong câu nếu có hai hay nhiều từ ngữ
đứng cạnh nhau và cùng trả lời cho câu hỏi Ai? (Cái gì? Con gì?) thì ta dùng
dấu phẩy để ngăn cách (tách) chúng ra cho rõ ràng.
*Dùng câu hỏi Là gì? Làm gì? Thế nào?
Sau khi dùng câu hỏi, giáo viên cần gợi ý thêm để giúp học sinh tìm được
vị trí cần đặt dấu phẩy trong câu.
Ví dụ: Bài tập 3 (TV2, Tuần 8, Trang 67) Có thể đặt dấu phẩy vào những
chỗ nào trong mỗi câu sau:
a. Lớp em học tập tốt lao động tốt.
Hỏi: Lớp em thế nào? (học tập tốt/ lao động tốt). Giáo viên có thể gợi ý
thêm: Vậy cần đạt dấu phẩy ở vị trí nào để tách các từ ngữ học tập tốt lao động

tốt cho rõ ý?
Học sinh xác định được: Dấu phẩy đặt sau học tập tốt để ngăn cách với
lao động tốt.
*Dùng câu hỏi Khi nào? Lúc nào? Ở đâu?
Đây là câu hỏi giúp học sinh xác định những từ ngữ chỉ thời gian, địa
điểm, nơi chốn (Bộ phận phụ thường đứng ở đầu câu). Từ đó học sinh dùng dấu
phẩy để ngăn cách chúng với bộ phận chính của câu.
Ví dụ: Bài tập 3 (TV2, Tuần 24, Trang 55) Điền dấu chấm hay dấu phẩy
vào ô trống:
- Câu 1: Từ sáng sớm … Khánh và Giang đã náo nức chờ đợi mẹ cho đi
thăm vườn thú.
Hỏi: Khánh và Giang đã náo nức chờ đợi mẹ cho đi thăm vườn thú từ khi
nào?
Học sinh xác định được: Dấu phẩy đặt sau Từ sáng sớm để ngăn cách
với bộ phận còn lại của câu.
- Câu 2: Trong vườn thú… trẻ em chạy nhảy tung tăng.
Hỏi: Trẻ em chạy nhảy tung tăng ở đâu?
Học sinh xác định được: Dấu phẩy đặt sau Trong vườn thú để ngăn cách
với bộ phận còn lại của câu.

7


b. Dạy dấu chấm:
Dấu chấm dùng để kết thúc câu trần thuật. Để học sinh điền đúng dấu
chấm tôi thường hướng dẫn học sinh dựa vào các kiểu câu đã học như Ai là gì?
Ai làm gì? Ai thế nào? để lựa chọn đúng dấu câu.
2.4. Kết quả đạt được.
Thực tế cho thấy trong phân môn Luyện từ và câu thì kĩ năng dùng từ để
đặt câu là rất cơ bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập Luyện

từ và câu đúng học sinh phải nắm chắc lí thuyết và các quy tắc, định nghĩa, kĩ
năng làm bài tập.
Khi vận dụng các biện pháp trên thì kết quả học phân môn Luyện từ và
câu ở lớp tôi là:
Lớp

Số
HS

Chưa hoàn
Chưa hoàn
thành BT Mở thành BT Tích
rộng vốn từ
cực hóa vốn từ
SL
TL
SL
TL

Chưa hoàn
thành BT Đặt
câu theo mẫu
SL
TL

Chưa hoàn thành
BT Sử dụng dấu
câu
SL
TL


2B

25

1

0

1

4

1

4

0

4

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận.
Phân môn Luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng cho việc phát triển
văn hóa của đất nước, bởi vì một đất nước phát triển thì trước tiên con người
phải phát triển. Vì vậy việc rèn luyện từ và câu cho học sinh là thiết thực mang
đầy đủ ý nghĩa.
Thực tế cho thấy trong phân môn Luyện từ và câu thì kĩ năng dùng từ đặt
câu là cơ bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập luyện từ và
câu đúng yêu cầu học sinh phải nắm vững lí thuyết, biết vận dụng lí thuyết vào

thực tế trong quá trình giao tiếp.
Qua thực tế giảng dạy tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần soạn các tiết Luyện từ và câu cẩn thận, có chất lượng.
- Nắm vững mục đích bài tập.
- Thấy được mối quan hệ giữa Luyện từ và câu và các phân môn khác của
môn Tiếng Việt.
- Thường xuyên đọc các tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau dồi
kiến thức phân môn Luyện từ và câu với các đồng nghiệp.
- Tổ chức học tập bằng nhiều hình thức: học cá nhân, học nhóm, hái hoa
dân chủ đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học
sinh.
- Sử dụng đồ dùng trực quan, làm tranh minh họa để tạo hứng thú học tập
cho học sinh, giúp học sinh ghi nhớ nhanh nội dung bài học.
- Dùng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tìm được những từ có
nghĩa để đặt câu.
- Cần quán triệt phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, coi học
sinh làm chủ thể của hoạt động nhận thức, biến các em thành người chủ động
8


trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức. Các em hoàn toàn tự mình tham gia
mọi hoạt động nhận thức và giao tiếp.
Những biện pháp được đề xuất trong đề tài này đã được tổng kết trên kinh
nghiệm của bản thân và đã áp dụng thành công góp phần nâng cao chất lượng
dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 tại Trường Tiểu học Xuân Thịnh. Do
năng lực có hạn nên những kinh nghiệm mà tôi đưa ra chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo
và bạn bè đồng nghiệp.
Kiến nghị.
- Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở lớp bồi dưỡng chuyên môn

cho giáo viên ở phân môn Luyện từ và câu.
- Đối với trường: Tổ chức thao giảng dự giờ về môn Tiếng Việt nói chung
và phân môn Luyện từ và câu nói riêng; cung cấp tài liệu để giáo viên tham
khảo.
- Đối với đồng nghiệp: Cần chú trọng rèn luyện các kĩ năng (nghe, đọc,
nói, nói, viết) cho học sinh. Các kĩ năng này cần đưa vào phân môn Luyện từ và
câu một cách thường xuyên hơn. Nhất là hai kĩ năng nói và viết. Cần chú ý sửa
nói ngọng cho học sinh, sửa lỗi chính tả cho học sinh và luyện cho các em viết
các câu văn hay và nội dung đảm bảo về mặt hình thức.
Xuân Thịnh, ngày 15 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm do mình viết, không cóp py
của người khác.
Người viết SKKN

Hà Thùy Hương

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 Tập 1, 2.
2. Các tạp trí giáo dục Tiểu học
3. Các tài liệu khác.


PHỤ LỤC




×