Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh giữ vở sạch viết chữ đẹp ở lớp 1e trường tiểu học thị trấn thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.87 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH GIỮ VỞ SẠCH – VIẾT CHỮ ĐẸP Ở
LỚP 1E TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Lương Thanh Huyền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm..............................................................2
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN..........................................................................2
2.2. Thực trạng của vấn đề..............................................................................3
2.3. Biện pháp giữ vở sạch – viết chữ đẹp cho HS lớp 1 CNGD ...................4
2.3.1. Biện pháp giúp HS viết chữ đẹp............................................................5


2.3.2. Biện pháp giúp HS giữ vở sạch...........................................................13
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm......................................................14
3. Kết luận và kiến nghị..............................................................................14
3.1. Kết luận..................................................................................................14
3.2. Kiến nghị .............................................................................................. 15


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh
(HS) các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao
tiếp trong các môi trường hoạt động lứa tuổi, để hình thành kỹ năng giao tiếp.
Trong đó chữ viết là một công cụ để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương
tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học vào đời sống…
Do vậy, ở trường Tiểu học, việc dạy HS biết chữ và từng bước làm chủ được
công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng
hàng đầu của môn Tiếng Việt.
Kỹ năng viết đối với HS tiểu học, đặc biệt là HS lớp 1 lần đầu tiên làm
quen với việc ghép chữ, viết chữ. Các em phải nắm được các nét cơ bản để tạo
ra chữ cái, biết ghép âm, vần, dấu thanh để thành tiếng, từ… phải viết đúng chữ
cái kiểu chữ viết thường cỡ vừa và nhỏ, tô đúng chữ cái viết hoa cỡ lớn và vừa,
viết đúng chữ số cỡ to và vừa (từ 0 đến 9). Ngoài ra các em cũng phải hiểu biết
về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, cấu tạo chữ cái, khoảng cách,
nét nối liền, các dấu thanh, phải viết liền mạch, viết thẳng hàng, viết đúng mẫu
và có tư thế viết đúng (tư thế ngồi, cách cầm bút và cách đặt vở đúng)… Đó
toàn là những kiến thức mới mẻ mà dần dần các em phải chiếm lĩnh được. Như
vậy đối với HS lớp 1 thì chữ viết được xem là một phần kiến thức cực kì quan
trọng mà các em phải đạt được.
Để viết đúng đã khó nói gì đến viết đẹp, mà yêu cầu ngày nay vừa phải
viết đúng vừa phải viết đẹp. Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm.

Nhiều thế hệ thầy cô giáo đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ,
nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết.
Tuy vậy, thực tế hiện nay, chữ viết của các em HS tiểu học chưa được đẹp,
chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết giữa các chữ cái
chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, HS sử dụng nhiều loại bút để viết bài nên
còn hạn chế trong việc “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp”. Đây là một mảng quan
trọng có ảnh hưởng đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm, đặc
biệt đối với HS lớp 1. Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết
nhanh, viết đẹp thì phong trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp” mới có chất lượng.
Với tình hình hiện nay, đa số các em HS nói chung, đặc biệt là các em HS lớp 1
nói riêng hầu như các em chưa có ý thức trong việc rèn chữ, giữ vở. Trong
những năm dạy lớp 1 tôi thường kể cho các em nghe câu chuyện “Văn hay chữ
tốt”, nói về danh nhân Cao Bá Quát nổi tiếng là văn hay chữ đẹp để giáo dục
các em vì sao phải rèn chữ đẹp. Vì bài văn, bài toán dù hay, dù đúng đến đâu
mà chữ viết nguệch ngoạc, xấu không đọc được thì bài văn, bài toán đó không
còn giá trị vì có ai đọc được nó.
Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh
Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp ở lớp 1E trường Tiểu học Thị Trấn Thường
Xuân” .
1


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Tiếng Việt và việc rèn chữ giữ vở
cho học sinh lớp 1, để các em viết đúng cỡ chữ, độ cao chữ, khoảng cách giữa
các chữ, các con chữ... từ đó dẫn đến viết sạch, viết đẹp, trình bày bài được tốt
hơn, các em có khả năng nhận thức và nhớ được tư thế ngồi viết, quy tắc viết
chính tả. Đó chính là mục đích của việc rèn chữ, giữ vở cho học sinh lớp 1 nói
chung, HS lớp 1E trường Tiểu học Thị Trấn Thường Xuân nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu về nội dung dạy tập viết của chương trình Tiếng việt Giáo dục Công nghệ lớp 1.
Các phương pháp dạy tập viết.
Thực trạng dạy và học tập viết của học sinh lớp 1E trường Tiểu học Thị
Trấn Thường Xuân, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu.
- Phương pháp quan sát thông qua dự giờ.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm kiểm tra, đối chứng.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Bộ vở “Em tập viết - CNGD lớp 1” gồm 3 tập do nhà xuất bản GD phát
hành dưới sự chỉ đạo khoa học của giáo sư Hồ Ngọc Đại, giúp cho học sinh
không ngừng nâng cao về chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn
học khác nhằm phát huy vai trò của phân môn tập viết: “Vở em tập viết CNGD lớp 1” chương trình CNGD có nội dung bài học được sắp xếp theo đúng
trình tự trong chương trình và sách Tiếng Việt lớp 1- CNGD.
Chương trình Tập viết lớp 1- CNGD gồm có 3 tập:
* Em tập viết - CNGD lớp 1, tập 1 (Từ tuần 1 đến tuần 8): HS viết chữ cỡ
vừa (mỗi đơn vị cao 2 li) theo nội dung từng bài học âm trong sách Tiếng ViệtCNGD lớp 1, tập 1, cụ thể;
HS tập viết chữ cái ngay trong giờ học âm và chữ ghi âm, theo nội dung
bài học tương ứng trong sách Tiếng Việt 1-CNGD.
VD: Bài: Âm d (Tuần 3-tiết 3,4): HS được tô 2 dòng chữ d (cỡ vừa) 1
dòng tiếng dạ, 1 dòng từ da cá theo nội dung bài học.
* Em tập viết - CNGD lớp 1, tập 2 (Từ tuần 10 đến tuần 16): HS viết chữ
ghi vần, tiếng, từ cỡ vừa và nhỏ ngay trong giờ học vần, theo nội dung bài học
tương ứng trong sách Tiếng Việt 1 -CNGD.
VD: Bài vần oe (Tuần 10-tiết 5,6): HS tập viết vần oe, từ đỏ hoe theo nội
dung bài học.
*Em tập viết - CNGD lớp 1, tập 3 (Từ tuần 27 đến tuần 35): HS được tô
chữ viết hoa theo cỡ vừa, viết chữ hoa, viết từ, câu theo cỡ chữ nhỏ.
2



Vở “Em tập viết - CNGD lớp 1” hiện nay chất lượng tốt, giấy dày, có kẻ li
(đường kẻ ngang và dọc) như vở ô li, có dấu chấm để HS biết được điểm đặt bút.
Từ đó các em dễ căn vào đường kẻ ngang và kẻ dọc để viết chữ đúng và chính xác
hơn, dễ viết hơn. Giúp các em viết đúng về khoảng cách giữa các chữ, câu, từ.
Vở em tập viết có phần luyện viết ở nhà giúp HS được luyện viết nhiều
hơn nhằm củng cố thêm kỹ năng viết, đọc cho HS. Ngoài ra, trong các tiết tự
học, tiết ôn luyện GV cho HS luyện thêm vào vở ô li nhằm giúp HS viết tốt
hơn, ở nhà HS có thể luyện viết thêm trong vở ô li.
Như vậy ta thấy vở tập viết, vở ô li và chương trình rất phù hợp thuận lợi
cho GV và HS trong quá trình học tập viết.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thuận lợi:
- Đa số các em đều qua mẫu giáo.
- Sĩ số lớp không quá đông (24 em), nên thuận lợi trong việc theo dõi, hướng
dẫn, giúp đỡ cũng như kiểm tra tới từng học sinh trong quá trình học tập.
- Cơ sở vật chất tốt, bàn ghế đúng kích cỡ, đủ ánh sáng, không gian thoáng
mát, chữ mẫu đầy đủ.
- Ban giám hiệu quan tâm sâu sát, tạo cơ sở vật chất tốt cho lớp học.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của các em, các em có đầy đủ
đồ dung học tập.
- Hiện nay trường tôi đã triển khai học chương trình Tiếng Việt lớp 1
Công nghệ giáo dục (CNDG) được 4 năm. Với chương trình CNDG học sinh
nắm chắc hơn về hệ thống cấu trúc ngữ âm, về luật chính tả đặc biệt là cách đặt
dấu thanh, điều này giúp HS viết đúng hơn.
2.2.2. Khó khăn:
- Đa số các em ngồi chưa đúng tư thế, khi viết còn tì ngực vào bàn, đầu
còn cúi sát vở.
- Các em cầm bút còn chưa đúng, cầm sát ngòi bút, cầm bút chặt quá nên

khi viết chữ sẽ nguệch ngoạc chưa đẹp.
- Khi các em viết cánh tay và cổ tay các em còn cứng, chưa biết cách thả
lỏng để làm mềm nét viết nên nét viết các em còn thô, cứng chưa liền mạch hay
bị gãy, đứt.
- Nhiều em chưa có ý thức rèn chữ giữ vở, còn vẽ viết bậy vào vở, thậm
chí làm rách vở, mất vở.
- Một số phụ huynh chưa nắm được cấu tạo chữ viết theo chương trình
mới và chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình.
2.2.3. Thực trạng viết chữ của HS trong lớp
Như chúng ta đã biết các em khi học ở trường Mầm non thì hoạt động chủ
yếu là vui chơi, chưa chú trọng nhiều đến việc dạy chữ. Riêng ở lớp mẫu giáo
lớn 5 tuổi các em mới bắt đầu làm quen với chữ cái, nhận biết cấu tạo chữ và đọc
bảng chữ cái mà không được tô, viết chữ, chủ yếu phụ huynh cho con viết ở nhà
chữ viết tự do không đúng mẫu. Vì vậy các em chỉ mới tập làm quen với cách
3


cầm bút, tô chữ, tư thế ngồi, cách đặt vở, học sinh biết viết thành hình chữ cái
nhưng đang viết tự do, các nét không mềm và kết thúc nét viết chưa chính xác.
Xuất phát từ đó mà đầu năm tôi đã khảo sát cách viết chữ ở lớp tôi (lớp 1E
- Trường Tiểu học Thị Trấn Thường Xuân) và nắm được một số đặc điểm sau:
Đa số HS biết viết thành hình chữ cái nhưng đang viết tự do, các nét không
mềm và kết thúc nét viết chưa chính xác; 15 em cầm bút chưa đúng cách, 16
em ngồi chưa đúng tư thế, 13 em đặt vở chưa đúng từ đó gây ảnh hưởng đến
chữ viết và thể lực của các em. Vì vậy tôi đã khảo sát bài viết (tuần 4 - tiết 5,6)
để phân loại cụ thế số HS hay mắc ở những lỗi cơ bản nào, từ đó có hướng khắc
phục cho từng em trong quá trình rèn chữ viết.
Bảng phân loại đối tượng học sinh hay mắc ở những lỗi cơ bản:
Số HS dự
điều tra


Lỗi viết không
đúng li

Lỗi viết thiếu
nét, chưa đều

Lỗi viết nét
nối liền

Lỗi viết dấu
thanh

24 em

18 em

17 em

17 em

15 em

Từ thực tế trên, tôi thấy cần thiết phải tìm ra cách rèn chữ viết cho HS
ngay từ đầu năm học.
2.2.4. Thực trạng giữ vở của học sinh
- Do các em mới bước vào lớp 1, bắt đầu làm quen với cách sử dụng và
bảo quản sách vở nên các em chưa biết phải giữ như thế nào cho sạch, đẹp.
- Học sinh lấy, cất vở chưa cẩn thận, chưa đúng cách nên làm sách vở quăn
mép, rách, nhàu nát.

- Trong khi viết bài, làm bài một số em còn cẩu thả, tùy tiện trong khi viết,
các em dùng tẩy, tẩy xóa nhiều, làm cho sách vở bẩn, rách.
2.3. Một số biện pháp “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” cho HS lớp 1 Công nghệ
giáo dục.
Đối với học sinh lớp 1, ngày đầu tiên đi học các em bắt đầu tiếp cận với
cách học, với kiến thức của Tiểu học quả thật khó khăn, các em còn bỡ ngỡ,
chưa biết đọc, chưa biết viết và chưa ý thức được mình sẽ làm gì trong các tiết
học. Để làm quen với chữ viết đối với các em thì thật khó bởi đôi tay còn vụng
về, non nớt, lóng ngóng. Là giáo viên lớp 1 tôi luôn trăn trở suy nghĩ một câu
hỏi: “Ở lớp 1 có nên dạy các em cách viết đẹp hay không ?”. Sau nhiều năm
đúc rút qua việc giảng dạy môn Tiếng Việt tôi nhận thấy rằng, đối với học sinh
lớp 1 nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng và đẹp ngay là một điều rất
khó có thể thực hiện được. Do vậy, đối với giáo viên cần có sự dạy dỗ công
phu, nhiệt tình, tập trung xây dựng biện pháp phù hợp với lứa tuổi các em.
Dạy học sinh biết được những kỹ năng và thao tác viết chữ từ đơn giản
đến phức tạp, bao gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên kết chữ
cái tạo chữ ghi tiếng, đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ
trên vở kẻ ô ly để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng, đều nét, liền
mạch, viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ và cao hơn là viết nhanh, viết đúng,
viết đẹp. Hơn nữa tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở, cách trình bày bài
4


viết cũng là một kỹ năng đặc thù của tập viết mà giáo viên cần thường xuyên
quan tâm.
Ngoài ra chúng ta cần có sự kết hợp với gia đình, có sự kèm cặp sát sao
của phụ huynh học sinh để rèn chữ, giữ vở cho học sinh có hiệu quả.
2.3.1. Biện pháp giúp HS viết chữ đẹp
* Dùng tên gọi các nét cơ bản để hướng dẫn HS lớp 1 viết chữ
Trong quá trình hình thành biểu tượng về chữ viết và hướng dẫn HS viết

chữ, tôi thường sử dụng tên gọi các nét cơ bản để mô tả hình dạng, cấu tạo của
từng con chữ.
Ở học kì I chủ yếu là viết chữ thường, sang học kì II mới tập làm quen
với chữ hoa nên tôi tập trung vào cách hướng dẫn học sinh viết chữ thường
và quy trình viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng mẫu
chữ. Để tạo sự ổn định cho việc học tập viết của học sinh tôi đã sử dụng tên
gọi 5 loại nét cơ bản (theo tài liệu hướng dẫn chỉ đạo chuyên môn từ 1989)
cụ thể:
Loại nét cơ bản
1. Nét thẳng

2. Nét cong

3. Nét móc

4. Nét khuyết

Dạng - kiểu
-Thẳng đứng
-Thẳng ngang
-Thẳng xiên
- Cong kín
- Cong phải
- Cong trái
- Móc xuôi (móc trái)
- Móc ngược (móc phải)
- Móc hai đầu
- Khuyết trên

Nét minh họa


- Khuyết dưới
- Khuyết kép
5. Nét xoắn, thắt

- Nét xoắn
- Nét thắt

Nét cơ bản là nét bộ phận, dùng để tạo thành nét viết hay hình chữ cái. Nét
cơ bản có thể đồng thời là nét viết hoặc kết hợp hai, ba nét cơ bản để tạo thành
một nét viết.
VD: Nét cong trái là nét viết của chữ c. Nét viết chữ cái h được tạo bởi hai
nét là nét khuyết trên và nét móc hai đầu.
5


Nét viết là một đường viết liền mạch, không phải dừng lại để chuyển hướng
ngòi bút hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ bản tạo thành.
Ngay từ tuần đầu của năm học (ở tuần 0) tôi đã cho học sinh đọc thuộc tên
gọi và viết được đúng các nét cơ bản này.
Ngoài ra tôi còn hướng dẫn học sinh thêm một số nét phụ của chữ cái như:
Nét gẫy (trên đầu các chữ cái â, ô, ê); nét cong dưới nhỏ (trên đầu chữ ă) hay
còn gọi là dấu á; nét râu (nét ở các chữ ơ, ư); nét chấm (ở chữ i) còn gọi là dấu
chấm. Và một vài nét xoắn, thắt… Dựa vào các nét cơ bản và các nét ghi dấu
phụ này tôi đã hướng dẫn HS hình thành chữ cái một cách nhanh nhất.
VD: Chữ l gồm 2 nét cơ bản là nét khuyết trên và nét móc ngược tạo
thành; chữ đ gồm 3 nét cơ bản là 1 nét cong khép kín,1 nét móc ngược và 1 nét
ngang.
* Mô tả chữ viết để hướng dẫn HS lớp 1 viết chữ.
Theo quy định của chương trình Tiếng Việt lớp 1- CNGD, cùng với việc

dạy HS đọc các chữ in thường, GV phải dạy cho học sinh tập viết các chữ cái
viết thường cỡ vừa, viết các vần, tiếng, từ ứng dụng theo cỡ vừa và cỡ nhỏ (HK
II). Do vậy để giúp HS dễ hình dung biểu tượng chữ viết và thực hiện quy trình
viết chữ trên bảng con hay trong vở tập viết, tôi thường mô tả đặc điểm, cấu
tạo, cách viết từng chữ cái cỡ vừa theo dòng kẻ li (trùng với cách thể hiện mẫu
chữ viết theo ô tọa độ ở bảng mẫu chữ viết trong trường Tiểu học), không cần
dùng đến thuật ngữ đơn vị chữ.
Muốn mô tả được chữ viết trên đường kẻ li trước hết phải hướng dẫn và
chỉ ra cho HS nhớ và xác định được li, đường kẻ. Tọa độ chữ được xác định
trên đường kẻ ngang của vở Tập viết. Mỗi dòng viết trong vở gồm có 4 dòng kẻ
ngang (1 dòng đầu đậm và 3 dòng còn lại được in nhạt hơn), ta kí hiệu đường
kẻ trên là số 1 các đường kẻ khác là 2,3,4 kể từ dưới lên trên.
Li: Là khoảng cách giữa hai dòng kẻ (0,25 cm). Trong vở ô li cứ 2 dòng kẻ
tạo thành 1 li, đó cũng là một đơn vị chữ ghi nguyên âm khi viết chữ nhỏ.
Ví dụ:

Cách xác định tọa độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường
kẻ ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện để
dạy chữ viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi các
thao tác mà hành trình ngòi bút đi qua tọa độ các chữ.
Từ đó ta có thể mô tả chữ viết như sau
6


VD: Khi dạy chữ cái d, tôi mô tả theo dòng kẻ li như sau:
+ Đặc điểm: Cao 4 li (5 đường kẻ ngang); Viết 2 nét
+ Cấu tạo: Nét 1(N 1): cong kín, nét 2 (N 2): móc ngược
+ Cách viết:
- N 1 đặt bút dưới đường kẻ 3 (ĐK 3) một chút, viết nét cong kín (từ phải
sang trái)

- N 2: Từ điểm dừng bút của N 1, lia bút lên ĐK 5 viết nét móc ngược
(phải) sát nét cong kín, đến ĐK 2 thì dừng lại.
* Hướng dẫn HS lớp 1 viết ứng dụng
Viết chữ ghi vần, tiếng:
Trong quá trình dạy HS tập viết ứng dụng các chữ ghi vần, ghi tiếng chứa
các âm và thanh đã học, tôi còn phải hướng dẫn các em về kỹ thuật nối chữ
(nối nét), viết liền mạch và đặt dấu thanh để vừa đảm bảo yêu cầu liên kết các
chữ cái, tạo vẽ đẹp của chữ viết là nâng cao dần tốc độ viết chữ, phục vụ cho kỹ
năng viết chính tả hoặc ghi chép thông thường.
Hướng dẫn cách viết chữ:
Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường, tạo nên sự
liên kết của một tổ hợp chữ cái ghi vần, tiếng. Dựa vào các nét cơ bản của chữ
cái viết thường ta xác định bốn trường hợp nối như sau:
Trường hợp 1: Nét móc của chữ cái trước nối với nét móc (hoặc nét hất)
đầu tiên của chữ cái sau:
Trường hợp 2: Nét cong cuối của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét
hất đầu tiên của chữ cái sau.
Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét
cong của chữ cái sau.
Đối với trường hợp này trước hết tôi yêu cầu HS phải xác định được điểm
dừng bút của chữ cái trước để lia bút tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch, tạo
thành một khối hai chữ cái. Điều chỉnh cho phần nét móc của chữ cái trước hơi
dãn rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải.
Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau.
Đây là trường hợp nối chữ khó nhất, vừa đòi hỏi kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển
hướng bút để tạo nét nối, vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lý. Nên
phải tập cho HS nhiều lần để tạo thói quen và kỹ thuật viết thành thạo hơn.
Hướng dẫn cách nối liền mạch
- Viết liền mạch là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét
đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau, để đảm bảo tốc độ viết nhanh ta

thường viết liền mạch.Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái
trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ của chữ cái và
dấu thanh) theo trình tự: Dấu phụ trước (từ trái sang phải), dấu thanh sau.
Hướng dẫn cách đặt dấu thanh
7


Hiện nay chương trình Tiếng Việt1 - CNGD vấn đề đặt dấu thanh được
hướng dẫn cụ thể trong từng bài học, thống nhất như trong SGK của chương
trình tiểu học do nhà xuất bản giáo dục ấn hành, cụ thể.
Dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) được đánh ở âm chính. VD: "Bạn"
âm chính là âm a
Nếu âm chính là âm đôi thì dấu thanh được đánh ở yếu tố cuối của nguyên
âm đôi đó: VD: "Cuội" âm đôi là uô.
Ngoài ra cách đặt đấu thanh trong các chữ viết Tiếng Việt cũng cần đảm
bảo sự hài hòa, cân đối và mang tính thẩm mĩ. Do đó các dấu: huyền, hỏi, ngã,
sắc, nặng thường được dặt vào vị trí khoảng giữa (trên, dưới) đối với các chữ
cái a, ă, o, e, i (y) u, ư. VD: "Núi"
Riêng đối với các chữ cái â, ê, ô (có dấu mũ) thì các dấu huyền, sắc được
đặt về phía bên phải của dấu mũ.

VD: "Cố"

Khi hướng dẫn HS viết dấu thanh GV sử dụng thuật ngữ âm chính tạo cho
HS thói quen đặt dấu thanh đúng vị trí và đặc biệt rèn cho HS viết dấu không
quá to, quá nhỏ hay cao quá, thấp quá như vậy mới tạo được sự cân đối thẩm
mĩ và chính xác trong chữ viết.
* Viết ứng dụng từ ngữ, câu:
Khi dạy viết từ ngữ ứng dụng ngoài việc hướng dẫn HS thực hiện các yêu
cầu về viết chữ và ghi tiếng như đã nêu trên, tôi còn phải quan tâm, nhắc nhở

HS lưu ý để khoảng cách giữa các chữ sao cho đều đặn, hợp lý. Khoảng cách
giữa các chữ ghi tiếng thường được ước lượng chiều rộng một chữ cái o viết
thường. Giữa các từ ngữ ứng dụng HS viết theo điểm đặt bút (dấu chấm) đặt
hướng dẫn trong vở "Em tập viết". Khi viết ở vở ô li để HS viết đúng được
khoảng cách đẹp tôi hướng dẫn cho HS ước lượng 1 đến 1,5 li (tương ứng với 1
con chữ o) trong vở ô li, tránh tình trạng HS viết dày hoặc thưa quá.
Khi dạy HS tập viết câu ứng dụng, hay bài chính tả tôi luôn nhắc HS chú ý
cách đặt dấu câu (dấu phẩy, dấu chấm,dấu chấm hỏi, dấu than…) giống như
trong bài mẫu và tập trình bày bài văn, thơ sao cho đều đặn và đẹp.
* Hướng dẫn học sinh viết chính tả - CNGD lớp 1:
Ở chương trình Tiếng Việt 1 hiện hành HS viết chính tả ở mức độ tập chép
(nhìn chữ có sẵn chép lại). Nhưng trong chương trình Tiếng Việt-CNGD lớp 1
ngay từ bài học đầu tiên HS đã được nghe - viết. Theo GS Hồ Ngọc Đại "Viết
chính tả là cách làm việc trí óc, không như tập chép nhìn chữ có sẵn rồi vẽ lại ".
Cũng như chương trình Tiếng Việt hiện hành, chương trình Tiếng Việt- CNGD
lớp 1 trong quá trình viết cũng yêu cầu HS làm theo hai bước: B1.Viết bảng
con, B2. Viết vào vở (ở việc 1 và việc 2).
Để đảm bảo cho việc rèn chữ trong tất cả tiết tập viết nào tôi cũng cho HS
nhắc lại tư thế ngồi viết. Trong quá trình viết (HKI) tôi tuân thủ đúng quy trình
viết chính tả mà GS Hồ Ngọc Đại đưa ra, cụ thể:
GV đọc HS làm 4 thao tác trật tự: 1. Nhắc lại tiếng, 2. Phân tích tiếng, 3.
Viết (theo luật chính tả),4 đọc lại.
8


Ngoài ra GV cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình viết, hướng dẫn HS
luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao theo 4 mức độ.
1. Viết được (viết ra chữ); 2. Viết đúng (đúng kiểu, đúng cỡ chữ); 3. Viết
đẹp; 4. Viết nhanh
Để nâng cao dần mức độ viết cho HS, trong quá trình viết chính tả ở học

kì I tôi đọc cho HS nghe rồi phân tích từng tiếng và viết. Sang đầu học kì II tôi
cho HS nhắc lại tiếng rồi viết, đến giữa học kì II HS nghe - viết. Việc chú ý đến
từng giai đoạn viết của HS giúp HS có kỹ năng nghe - viết tốt hơn. Việc luyện
kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp và cũng như ở nhà.
Để giúp HS có kỹ năng viết tốt với chương trình Tiếng Việt- CNGD lớp 1
GV không chỉ kiên trì, chịu khó, viết đúng chuẩn, cận thận trong từng con chữ
tuân thủ đúng các bước nêu trên mà GV cần phát âm thật rõ, chuẩn để HS nghe
- viết cho đúng.
* Một số hình thức luyện tập viết chữ học sinh lớp 1
Tập viết chữ (chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và
các bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của HS. Hình thức này dùng để kiểm
tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp.
Từ đó, GV phát hiện những chỗ sai của HS để uốn nắn (Sai về kích cỡ, hình
dáng, thứ tự các nét viết).
Tập viết chữ vào bảng con của HS
Học sinh luyện tập viết bằng phấn (hoặc bút bảng) vào bảng con trước khi
viết vào vở. HS có thể viết chữ cái, vần, chữ khó vào bảng. Khi sự dụng bảng,
GV phải hướng dẫn HS cả cách lau bảng, cách sử dụng và bảo quản phấn,…
Luyện viết trong vở:
Muốn cho HS sự dụng có hiệu quả vở tập viết, GV cần hướng dẫn tỉ mỉ
nội dung và yêu cầu kỹ năng viết của từng bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng
cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét…) giúp các em viết đủ
viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
Sự nghiêm khắc của GV về chất lượng ở tất cả các môn học là cần thiết,
có như thế việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên.
Việc làm này yêu cầu người GV ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần
có sự kiên trì, cận thận và lòng yêu nghề - mến trẻ.
* Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch, đẹp
Chất lượng về viết chữ của HS không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ

quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ sư phạm của GV,...) mà
còn có sự tác động của những yếu tố khách quan (điều kiện, phương tiện phục
vụ cho việc dạy và học tập viết). Do vậy muốn rèn cho HS nếp viết rõ ràng
sạch, đẹp GV cần quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở các em thường xuyên về các
mặt chủ yếu dưới đây:
Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập:
9


Dưới sự hướng dẫn của GV học sinh được thực hành luyện viết thông qua
hai hình thức: Viết trên bảng (bảng cá nhân - bảng con, bảng lớp) bằng phấn và
viết trong vở tập viết (tài liệu học tập chính thức do Bộ GD&ĐT quy định đối
với lớp 1) bằng bút chì, bút mực. Do vậy để thực hành luyện viết đạt kết quả
tốt HS cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập
thiết yếu như sau:
Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau:
Bảng con màu đen bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều
đặn (thể hiện được 4 dòng) tạo điều kiện thuận lợi cho HS viết phấn. Phấn trắng
có chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Bút dạ viết trên bảng phóoc trắng
có dòng kẻ, cầm vừa tay,đầu viết nhỏ, ra mực đều mới viết được dễ dàng. Khăn
lau sạch sẽ,có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xóa bảng vừa đảm bảo vệ sinh vừa
không ảnh hưởng đến chữ viết.
Thông qua việc thực hành luyện viết của HS trên bảng con, GV nhanh
chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp thời
xử lý, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra.
Để sử dụng đồ dùng học tập nói trên trong giờ tập viết đạt hiểu quả tốt,
GV cần hướng dẫn HS thực hiện một số điều sau:
- Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng quy định:
+ Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết.
+ Phấn viết có độ dài vừa phải.

+ Khăn lau sạch.
- Sử dụng bảng con hợp lý và đảm bảo vệ sinh:
+ Ngồi viết đúng tư thế.
+ Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách.
+ Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, đặt
bảng ngay ngắn để GV kiểm tra nhận xét.
+ Đọc lại chữ đã viết trước khi xóa bảng.
Vở tập viết, bút chì, bút mực:
- Vở tập viết cần được giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc giấy bẩn.
- Bút chì dùng ở HK I - lớp 1 cần được bọc cho cẩn thận, đầu chì không
nhọn quá hay dài quá để dễ viết rõ nét chữ. Nên khuyến khích phụ huynh mua
loại bút có độ 2 b (loại này mềm, dễ viết).
Riêng về bút mực, trước đây đòi hỏi HS sử dụng loại bút có quản, ngòi bút
nhọn đầu viết được nét thanh nét đậm. Từ khi loại bút bi (bút chữ A) được sử
dụng phổ biến thay thế cho bút mực, việc học tập viết chữ của HS có phần tiện
lợi (viết nhanh, đỡ dây mực) song chất lượng chữ viết có phần giảm sút. Vì vậy,
GV cần quy định cả lớp dùng một loại bút (bút chữ A ngòi bi) và dùng một màu
mực.
* Thực hiện đúng quy định khi viết chữ:
Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt
cách vở 25 - 30 cm; cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết
10


không bị xê dịch ; hai chân để song song thỏa mái (tham khảo hình ảnh minh
họa).

Cách cầm bút: Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và
ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá). Khi
viết dùng 3 ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút

nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại,
thoải mái.
Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở
ngay ngắn trước mặt, khi viết gần hết trang giấy hướng dẫn học sinh đẩy vở lên
giữa bàn để cánh tay luôn được tì lên bàn thoải mái thì khi viết chữ mới giữ
được đều nét và tay không bị mỏi. Nếu tập viết chữ nghiêng cần để vở hơi
nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng
15 độ. Như vậy dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn
thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở).
Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở Tập viết.
Viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi
tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li, khi viết sai chữ không
được tẩy xóa mà cần để cách một khoảng ngắn rồi viết lại.
Rèn chữ trong phần viết chính tả: GV hướng dẫn cho HS cách trình bày như sau:
Dòng viết thứ ngày tháng năm thì lùi vào một ô kể từ lề vở ; tên phân môn lùi
vào bốn ô ; đầu bài lùi vào hai, ba ô hoặc bốn ô tùy theo số chữ của tiêu đề,
xuống dòng lùi vào một ô, hết bài phải kẻ ngang vở.
11


Hướng dẫn học sinh cách bỏ chữ viết sai: Gạch nhỏ dưới chữ viết sai rồi
viết lại chữ đúng bên cạnh, không được tẩy xóa, không được tô đen, không
dùng bút xóa.
* Chấm và chữa bài.
Việc chấm bài của học sinh trong vở Em tập viết và chính tả thường phải
căn cứ vào mục đích, yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo chương trình quy
định. Qua việc chấm bài, GV cần giúp cho HS tự nhận thức được ưu điểm
(thành công) để phát huy, thấy rõ những thiếu sót (hạn chế) để khắc phục, sửa
chữa, kịp thời động viên những cố gắng, nỗ lực của từng học sinh khi viết chữ.
Phải nắm được cụ thể em nào hay mắc lỗi nào để nhắc nhở, uốn nắn kịp thời.

Khi chấm gặp phải chỗ sai của học sinh GV gạch chân chữ đó rồi viết mẫu chữ
đúng bên cạnh hoặc bên dưới bài viết cho HS đối chiếu, so sánh, tự rút ra chỗ
chưa được để khắc phục. GV cần ghi lời nhận xét ngắn gọn thể hiện sự biểu
dương hay góp ý, yêu cầu về chữ viết đối với HS.
Ngoài việc viết mẫu phải cận thận, thì trong quá trình chấm bài GV cũng
cần chấm chính xác và cận thận từng con chữ, từng lời nhận xét. Thế mới có
thể làm gương cho học sinh và tạo cho HS nết viết và trình bày cận thận.
* Chú ý luyện chữ cho học sinh trong tất cả các môn học:
Không chỉ chú ý luyện chữ trong môn Tiếng Việt, mà còn cần rèn cho HS
nếp viết, trình bày cận thận và đẹp trong tất cả các môn học. Điều này tạo cho
HS thói quen rèn chữ, luôn có ý thức rèn chữ - giữ vở thường xuyên.
Ngoài việc rèn chữ cho học sinh ở vở tập viết, tôi còn dành một tuần một tiết
luyện viết vào vở ô li trong các tiết luyện Tiếng Việt để luyện chữ cho học sinh.
Luôn tạo cho các em phong trào thi đua vở sạch chữ đẹp trong lớp.
Thêm vào đó, GV cần liên hệ với phụ huynh để cùng hợp tác nhắc nhở
cho các bài viết ở nhà của các em vì rèn chữ không phải một ngày, một buổi mà
phải luyện trong suốt quá trình học tập của tất cả các phân môn, cả ở trường lẫn
ở nhà. Khuyến khích phụ huynh mua bảng mẫu chữ (viết thường và viết hoa)
treo vào góc học tập của con, và cùng tìm hiểu về độ cao từng chữ cái và cách
viết chúng để có thể phối hợp với GV giúp các em viết đúng và đẹp hơn.
Tôi còn có cách xếp học sinh viết chữ chưa đẹp ngồi gần học sinh viết chữ
đẹp để em đó học hỏi và cố gắng cho bằng bạn. Cách làm này tôi thể nghiệm và
thấy có hiệu quả rất cao. Nhưng giáo viên cũng không quên nhiệm vụ kiểm tra
và hướng dẫn thường xuyên, kịp thời cho những em còn viết chưa đẹp này.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên và chú ý sửa sai cho từng nhóm học
sinh theo lỗi sai cơ bản, tôi thấy các em tiến bộ hẳn, số lỗi sai giảm đi rất nhiều.
Sau đây tôi xin nêu một số em đặc biệt và có sự tiến bộ vượt trội qua một thời
gian áp dụng các biện pháp trên và sự dày công khổ luyện của cô và trò.
- Em: Trịnh Khánh Hạ, Đỗ Bảo Ngọc đầu năm các em thường mắc lỗi về
cách viết nối liền nhưng nay hai em đã viết rất tốt.

- Em: Lê Thu Hà, Trần Ngọc Khánh Ly, Trần Mai Phương, ba em này thì
rất chậm về nhận biết đường kẻ và li nên khi viết các em thường viết không đủ
li, đúng mẫu sau một thời gian dài hướng dẫn, có nhiều lúc tôi phải phóng to vở
12


ô li để chỉ cho các em thấy đâu là li, đâu là đường kẻ và dần dần các em cũng
nhận ra được. Rồi tôi cho các em luyện viết ở bảng con nhiều nên hiện nay các
em viết không chỉ đúng mà còn tương đối đẹp. Đặc biệt khi áp dụng dạy Tiếng
Việt- CNGD lớp 1 không còn HS nào mắc lỗi về cách đặt dấu thanh.
Sau đây là bảng số liệu HS còn viết sai các lỗi cơ bản (khảo sát đầu
tháng 3/2018)
Số HS dự
điều tra

Lỗi viết
không đúng li

Lỗi viết thiếu
nét, chưa đều

Lỗi viết nét
nối liền

Lỗi về dấu
thanh

24 em

1 em


1 em

1 em

0 em

Như vậy so với đầu năm thì các em đã tiến bộ rõ nét. Có nhiều em viết chữ
đẹp. Lớp tôi được tuyên dương là lớp có HS viết đều chữ, sạch và đẹp.
2.3.2. Biện pháp giúp HS giữ vở sạch
Ngay từ đầu năm học GV phổ biến cho phụ huynh nên mua loại vở bốn ô
li, giấy dày, viết không thấm, hàng kẻ rõ ràng, bọc vở và nhãn dán đầy đủ.
Đối với HS, giáo viên giới thiệu cho các em xem một vài quyển vở mẫu
của các anh chị học năm trước có ý thức tốt trong việc giữ vở sạch viết chữ đẹp,
từ đó giáo dục các em thế nào là một quyển vở sạch, chữ đẹp.
* Biện pháp:
Để có một quyển vở sạch - đẹp ta phải:
Ngay từ đầu năm giáo viên thống nhất bọc vở cho học sinh bằng loại tờ ni
lông làm lớp áo bên ngoài rất tốt giữ vở được sạch đẹp.
Khi bọc vở cho học sinh ta phải bao thêm trang một vào sẽ tránh được tình
trạng sụt bìa.
Vở được mua một loại vở (để thống nhất một loại vở giống nhau) có hàng
kẻ rõ ràng, các ô li đều nhau, giấy không thấm và lem mực, vở có cắt góc để
tránh tình trạng quăn mét vở.
Để vở được sạch không bị quăn góc, không bị viết lem do mồ hôi tay và
hạn chế được tình trạng chữ bút chì in từ trang này qua trang kia, mỗi em cần
sử dụng tờ giấy kê (loại giấy bìa) bọc cả quyển vở bên ngoài lẫn bên trong lại,
khi viết trang nào lật trang đó lên và một tờ giấy kê rời có kích thước chiều
rộng khoảng 15 cm chiều dài, dài hơn chiều ngang quyển vở. Khi viết ta đặt tờ
giấy kê nằm ngang giữ cho mồ hôi tay không bị lem ra vở và vở không bị quăn

góc.
GV phải chịu khó thu và giữ trong tủ các loại vở, sách cần thiết, phát ra
thu vào và đặt cận thận trong tủ lớp.
Để tránh tình trạng đổ mực ra vở giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng bút
bi cải tiến (bút chữ A ngòi bi) và sử dụng thống nhất cả lớp một màu mực.
Mặt khác do học sinh còn nhỏ, ý thức giữ vở chưa thường xuyên nên GV
cần phối hợp với phụ huynh thực hiện: Luôn nhắc nhở con mình cách để vở,
sách, đồ dùng vào cặp sao cho hợp lý không bị quăn, nhàu sách vở. Đồng thời
cũng thường xuyên kiểm tra sách vở của các con để chỉnh sửa, ghim, bọc kịp
13


thời nếu sách vở của con cái bị hỏng. Tạo cho con ý thức cận thận, giữ vở
thường xuyên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi áp dụng các biện pháp trên ở lớp, tôi thấy bộ vở của các em giữ được
sạch - đẹp hơn nhiều. Tuy vậy, tôi vẫn phải thường xuyên động viên và nhắc
nhở các em luôn có ý thức giữ bộ vở thật đẹp, phải cận thận nâng niu khi lật
từng trang vở, phải chú ý nhẹ nhàng khi sắp xếp chúng.
Kết quả đạt được:
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên theo chương trình CNGD tại
lớp 1E - Trường Tiểu học Thị Trấn đã đạt được kết quả vở sạch - chữ đẹp như
sau:
Xếp loại
Giai đoạn

A

B


C

Đầu năm

3 em

13 em

8 em

Giữa học kì I

10 em

9 em

5 em

Cuối học kì I

17 em

5 em

2 em

Tháng 3/2018

18 em


5 em

1 em

3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận:
Qua một thời gian áp dụng tôi thấy học sinh lớp có chuyển biến rõ rệt về
chữ viết. Các em biết viết nắn nót, cẩn thận và trở thành thói quen. Các em luôn
tự giác trong học tập, sách vở luôn giữ sạch đẹp. Phong trào "Vở sạch - Chữ
đẹp" của lớp luôn được ban thi đua đánh giá cao. Vở viết của học sinh đảm bảo
chất lượng, chữ viết đúng mẫu, tốc độ viết đúng quy định. Bản thân giáo viên
khi dạy cũng thấy hứng thú, say sưa nâng cao chất lượng giờ dạy tốt hơn. Từ
thực tế áp dụng tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm bài học như sau:
- Công việc rèn chữ đâu phải một sớm, một chiều mà phải làm trong cả
một quá trình liên tục ngày này qua ngày khác. Việc rèn chữ chỉ cần lơ đi một
ngày, một tuần cũng sẽ khiến cho học sinh viết chữ giảm sút đi vì trẻ lớp 1
thường hiếu động, nhanh quên, thiếu kiên trì.
- Điều cần thiết của người giáo viên là phải kiên trì, tận tâm chăm chút
từng nét chữ, dáng ngồi của học sinh. Nhìn thấy những dòng chữ nắn nót, đẹp
rạng ngời trên những trang giấy trắng tinh của học sinh tôi tin rằng đó là tất cả
niềm hạnh phúc của người giáo viên sau bao trăn trở kèm cặp học sinh thân yêu
của mình.Chữ viết đẹp là hành trang theo suốt quãng đời học tập của học sinh,
ngay từ lớp 1 các em cần phải được rèn luyện thật tốt để làm nền móng vững
chắc cho các em trong những năm học tiếp theo.

14


- Phong trào "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" phải được dấy lên trong cả lớp,
toàn trường và phải được sự quan tâm của ban lãnh đạo và phụ huynh học sinh

để cùng nhau thực hiện.
3.2. Kiến nghị:
- Nhà trường nên tuyên dương, trưng bày các cuốn vở sạch, chữ viết đẹp,
trước học sinh toàn trường.
- Cung cấp đầy đủ và nhiều kiểu mẫu chữ khác nhau cho giáo viên ở tất cả
các khối lớp để giáo viên tham khảo và hướng dẫn học sinh được nhiều cách
viết chữ đẹp, phong phú hơn.
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh lớp 1E giữ vở sạch - viết chữ
đẹp. Để sáng kiến kinh nghiệm này của tôi thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao
hơn trong phong trào "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" tôi rất mong sự đóng góp ý
kiến nhiệt tình của các cấp lãnh đạo và các anh chị đồng nghiệp để tôi có thêm
vốn kinh nghiệm nhằm dạy tốt hơn, đặc biệt trong phong trào luyện chữ và giữ
vở cho HS lớp 1.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thị Trấn, ngày 9 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện
Lương Thanh Huyền

15


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lương Thanh Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thị Trấn

TT

1.
2.

3.

4.

5.

Tên đề tài SKKN

Biện pháp bồi dưỡng học sinh
lớp 5 làm văn miêu tả đồ vật.
Một số biện pháp giúp học
sinh tiểu học người dân tộc
miền núi phát âm tiếng Việt
dễ dàng hơn.
Lồng ghép kĩ năng sống trong
tiết hoạt động ngoài giờ lên
lớp ở lớp 4C trường Tiểu học
Thị trấn Thường Xuân.
Một số biện pháp rèn chữ viết
để nâng cao chất lượng vở

sạch – chữ đẹp lớp 2C.
Một số biện pháp hướng dẫn
học sinh chơi mà học trong
môn Tự nhiên và Xã hội ở
lớp 1C trường Tiểu học Thị
trấn Thường Xuân.

Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá xếp
loại

Huyện

C

2004

Huyện

C

2006

Huyện


B

2012

Huyện

B

2014

Huyện

B

2016

(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

16



×