Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.25 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết Tiểu học là cấp học đầu tiên, là nơi các em bước vào
ngưỡng cửa tri thức. Giai đoạn này các em được cung cấp hai luồng tri thức
thông qua hai môn học chính đó là: Tiếng Việt và Toán. Mỗi môn học có nhiệm
vụ riêng có hướng giáo dục tri thức riêng, nhưng vẫn tác động qua lại lẫn nhau
và cùng với các môn học khác tạo nên một nền tảng vững vàng cho các cấp bậc
sau. Trong đó môn Tiếng Việt cùng có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn kĩ
năng cơ bản đó là: “Nghe, nói, đọc, viết”, mà trong môn học này lại có các phân
môn cấu thành là: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể
chuyện… Trong đó phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp
của các phân môn. Qua tiết Tập làm văn học sinh có khả năng xây dựng một văn
bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan
trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy chiếm lĩnh tri thức,
trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác
trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ngôn bản và dưới dạng viết
văn bản), giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng
dẫn học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó
phụ thuộc rất lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn
Tập làm văn nói riêng.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người thầy phải biết vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho
phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để giờ
học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải
có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình
huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến
thức bài. Qua thực tế chỉ đạo công tác giảng dạy trong nhà trường; qua dự giờ
thăm lớp của anh chị em giáo viên đặc biệt là khi dự giờ tiết tập làm văn lớp 3
trong trường tiểu học (kể cả dự giờ giáo viên giỏi) tôi thấy có nhiều chỗ băn
khoăn, trăn trở. Giáo viên chưa biết cách khai thác dẫn dắt học sinh tìm tòi kiến
thức nhất là với hai dạng bài: “Nghe - Kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về


một chủ đề”, lại càng băn khoăn hơn. Xuất phát từ vấn đề đó nên tôi mạnh dạn
viết kinh nghiệm: "Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập
làm văn lớp 3"
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua thực tế dạy học, tôi thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó so
với các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm
văn với mục tiêu cụ thể là: “Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình
bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: Miêu tả, kể chuyện,
viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, giới thiệu về mình về gia đình mình và
những người xung quanh”. Trong quá trình tham gia các hoạt động học tập này
1


học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải
nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó giờ dạy thường
không đạt kết quả cao.
Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu
chuyện và kể hay nói, viết về một chủ đè có hiệu quả trong phân môn Tập làm
văn ở lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để biết kể lại câu chuyện đã nghe
hay làm bài văn kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học
sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục đích nghiên cứu trong đề
tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
- Tìm hiểu các bài tập về nghe, kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề có
trong chương trình tập làm văn lớp 3.
- Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của hoc sinh về phân môn Tập
làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
- Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm
văn ở lớp 3 với dạng bài: Nghe - kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ đề.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn lớp 3.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
1 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
2 - Phương pháp phân tích, tổng hợp.
3 - Phương pháp điều tra, khảo sát.
4 - Phương pháp luyện tập, thực hành.
5 - Phương pháp thống kê.
6 - Phương pháp trao đổi, tranh luận.
Trong các phương pháp trên, khi nghiên cứu tôi vận dụng hài hoà các phương
pháp để tìm ra các giải pháp của mình đạt kết quả tối ưu nhất.

2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận:
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ
năng tổng hợp từ nhiều phân môn khác như: Tập đọc, Tâp viết, Chính tả, Luyện
từ và câu… Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng:
Nghe, nói, đọc, viết, học sinh phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về
cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn
bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử
dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân
môn có tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn
học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều
2


đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ
nét hơn. Ngoài phương pháp của giáo viên, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn

ngữ về đời sống thực tế. Vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là
nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách
dùng từ, đặt câu cho học sinh. Điều này đòi hỏi phân môn Tập làm văn này phải
có nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập có ý thức nắm được cách viết
và cách nói sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau.
+ Góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy hình thành nhân cách cho
học sinh.
Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn phải khích lệ học sinh tích cực, sáng
tạo, chủ động học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành văn bản.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Thuận lợi
* Giáo viên:
Trong việc thực hiện đổi mới Chương trình sách giáo khoa bậc Tiểu học,
do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn
luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản nói – viết ở nhiều thể loại khác
nhau. Vì vậy, giáo viên luôn không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp dạy học
phù hợp mục tiêu dạy và học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những bài
văn nói – viết một cách độc lập, sáng tạo.
Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học.
Với mỗi loại bài tập, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và
tổ chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên
cạnh đó, giáo viên luôn động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng
tượng, óc sáng tạo. Từ đó kích thích được sự tìm tòi ham học hỏi ở học sinh,
hình thành thói quen học tập tốt phân môn Tập làm văn.
Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú, sáng
tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh nói tốt sẽ
trình bày bài viết tốt.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng: xem đài, đọc sách báo, tài
liệu… giáo viên thường xuyên được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp.

* Học sinh:
Năm học 2017 - 2018 trường Tiểu học Thọ Hải, Thọ Xuân, Thanh Hóa có
409 học sinh, đa số các em được phô huynh quan t©m.
Mặt khác, ở lứa tuổi học sinh lớp ba, các em rất ham tìm tòi học hỏi.
Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm
văn nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù
hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em.
Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng tạo lập văn bản, kể chuyện,
miêu tả từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn
lớp ba.
b. Khó khăn:
3


Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng
Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất định.
Trong việc rèn kĩ năng nói – viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên
cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên
hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao. Một số bài trong chương
trình đề ra chưa gần gũi với học sinh như: Lễ hội, tin thể thao… Dụng cụ trực
quan thiếu, giáo viên chỉ nói suông nên học sinh không hiểu, không nắm bắt
được thông tin vì vậy bài làm không đạt hiệu quả cao.
Chất lượng phân môn Tập làm văn đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết
viết đoạn văn có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết trả lời theo câu hỏi gợi
ý. Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để từng
bước giảng dạy đạt kết quả.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm, năm học 2017 - 2018 ở môn TLV ở
khối lớp 3 trường Tiểu học Thọ Hải cho thấy:
TỐT


Tổng Số
HS

Môn

98

TLV

HOÀN THÀNH

Số HS

Tỉ lệ

Số HS

Tỉ lệ

0

0

86

84,2%

CHƯA HOÀN
THÀNH

Số HS
Tỉ lệ
12

15,8%

Từ thực trạng trên cho thấy việc học và nắm kiến thức của học sinh về
phân môn tập làm văn chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía người dạy và
người học. Do vậy, để học sinh tích cực chủ động tham gia và lĩnh hội kiến thức
một cách có hiệu quả trong giờ học. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh
nghiệm mà bản thân tôi rút ra được từ thực tế giảng dạy để đồng nghiệp tham
khảo, vận dụng vào quá trình giảng dạy của mình nhằm nâng cao chất lượng
hiệu quả giờ dạy.
2.3 CÁC GIẢI PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3.
Biện pháp 1: Luôn coi trọng việc “tích hợp – lồng ghép” khi dạy
phân môn Tập làm văn lớp 3.
Trong quá trình dạy học Tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp
giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả,
luyện từ và câu, tập viết,… để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân
môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo
khoa: Các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, các đơn vị học xoay
quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Quê hương dạy trong hai tuần (Tuần 10, Tuần 11), thông
qua các bài tập đọc, Luyện từ và câu, Tập viết,… Trong quá trình rèn đọc, khai
thác nội dung các bài đọc, viết chính tả,… Cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ

4


đề Quê hương, cho học sinh làm quen với những câu văn có hình ảnh về chủ đề

Quê hương.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc - Kể chuyện: Giọng quê hương (tuần 10), giáo
viên khai thác nội dung bài Tập đọc theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Thuyên và Đồng cùng ăn trong quán với những ai? ( Cùng ăn với ba
người thanh niên.)
+ Chuyện gì xảy ra làm Thuyên và Đồng ngạc nhiên? ( Lúc Thuyên đang
lúng túng vì quên tiền thì một trong ba thanh niên đến gần xin được trả giúp tiền
ăn .)
+ Vì sao anh thanh niên cảm ơn Thuyên và Đồng? (Vì Thuyên và Đồng có
giọng nói gợi cho anh thanh niên nhớ đến người mẹ thân thương quê ở miền
Trung.)
+ Những chi tiết nào nói lên tình cảm tha thiết của các nhân vật đối với
quê hương? ( Người trẻ tuổi: lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau
thương; Thuyên và Đồng: im lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.)
+ Qua câu chuyện, em nghĩ gì về giọng quê hương? ( Giọng quê hương
gợi cho con người nhớ đến nơi chôn rau, cắt rốn với những kỉ niệm thân thương
của cuộc đời.)
Thực tế khi dạy Tập đọc hướng dẫn học sinh khai thác nội dung thông qua
hệ thống câu hỏi các em thường trả lời một cách máy mọc có thể đọc lại câu văn
có trong bài hoặc trả lời tắt.
Qua việc hướng dẫn học sinh trả lời hệ thống câu hỏi trên, tôi giúp trả lời
câu hỏi đủ ý, thành câu. Thường xuyên sửa câu trả lời của học sinh để từ đó các
em có được thói quen cũng như kĩ năng nói viết diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, thói
quen lựa chọn ý, thói quen nói viết đủ câu. Cũng thông qua đó học sinh bày tỏ
được thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra
trong bài học. Đồng thời, giáo viên thường xuyên hỏi ý kiến nhận xét của học
sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với
tình huống và tạo cho học sinh cách ứng xử hay. Từ đó để rèn cho học sinh kĩ
năng nói viết câu hoàn chỉnh, biết lựa chọn từ ngữ trong quá trình nói, viết góp
phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

Qua câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết
yêu quý, gắn bó với quê hương, giúp các em khi viết đoạn văn: Kể về quê hương
em hoặc nơi em đang ở, đoạn văn thể hiện được cảm nhận về vẻ đẹp của quê
hương em cũng như tình cảm của em đối với quê hương.
Như vậy qua tiết học Tập đọc - kể chuyện này, học sinh mở rộng vốn từ,
rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó,
bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình
thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học
sinh kiến thức tình yêu quê hương, đất nước cũng từ đó các em có được hướng
phấn đấu trong học tập để góp phần xây dương quê hương Việt Nam ngày càng
giàu đẹp hơn.

5


Phân môn Luyên từ và câu tuần 11 cũng cung cấp cho học sinh vốn từ về
chủ đề quê hương qua hệ thống các bài tập.Cụ thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ đã cho vào 2 nhóm: (1) Chỉ sự vật ở quê hương,
(2) Chỉ tình cảm đối với quê hương.
Trước tiên giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa các từ trên sau đó tổ chức
cho học sinh sắp xếp từ vào các nhóm từ:
Nhóm 1: Chỉ sự vật ở quê hương.
Nhóm 2: Chỉ tình cảm đối với quê hương.
Từ việc hiểu nghĩa ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài
tập 2 và lựa chọn từ ngữ thay thế cho từ quê hương. Giáo viên cũng nên giải
thích cho học sinh hiểu từ đất nước, giang sơn có nghĩa rộng hơn Tây Nguyên vì
Tây Nguyên chỉ là một vùng đất của Việt Nam.
Ở phân môn chính tả tuần 10 các em cũng được luyện viết các bài trong
chủ đề Quê hương. Ví dụ: Nghe - viết bài: Quê hương ruột thịt. Ngoài việc học
sinh viết đúng, viết đẹp giáo viên còn giúp học sinh hiểu được tình cảm của chị

Sứ với quê hương mình . Đó là nơi chị sinh ra và lớn lên, nơi có bài hát ru của
mẹ chị và chị lại hát ru con bài hát ngày xưa.
Khi dạy học sinh viết đoạn văn trên ngoài việc rèn chữ viết, cách trình bày
văn bản thì tôi còn chú trọng rèn các kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh
như: viết đúng các hiện tượng chính tả, cách sử dụng dấu câu, quy tắc viết câu,
viết đoạn. Ngoài ra tôi còn giúp học sinh thấy được tác dụng của việc vận dụng
cái hay, cái đẹp trong ngôn từ . Từ đó từng bước hướng dẫn vận dụng vào đoạn
văn, bài văn của các em.
Tương tự, ở phân môn tập viết tuần 11 các em được làm quen với các
thành ngữ, tục ngữ về chủ đề quê hương như luyện viết câu ứng dụng: “ Ai về
đến huyện Đông Anh/ Ghé xem phong cảnh Loa Thành thục Vương”. Ở đây
ngoài việc hướng dẫn giúp đỡ học sinh có kĩ thuật, kĩ năng viết đúng, viết đẹp
thì còn phải giúp học sinh hiểu được nội dung cũng như ý nghĩa của câu ứng
dụng, đó là: bộc lộ niềm tự hào về di tích lịch sử Loa Thành được xây dưng cách
đây hàng nghìn năm. Để từ đó giáo dục các em có được kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng ứng xử đúng mực, có được thái độ tình cảm đối với quê hương, đất nước.
Các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay quanh
chủ đề quê hương, học sinh biết “Kể về quê hương em hoặc nơi em đang ở”
(TLV lớp 3 tuần 11), và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiên vể đẹp của quê
hương em cũng như bộc lộ được tình cảm của bản thân với quê hương.
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, chính tả, tập đọc,
…đều nhằm mục đích giúp học sinh có kĩ năng hình thành văn bản, ngôn bản.
Do đó, tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm
văn lớp 3.
Biện pháp 2: Chú trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kĩ năng diễn
đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng
ngày với thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi người xung quanh.
6



Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho
học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như
phương pháp dạy truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt
động học tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm
bảo đạt được hiệu quả cao.
Ví dụ: Khi dạy bài tập nghe và kể lại câu chuyện “Kéo cây lúa lên” (Tập
làm văn tuần 16).
Bước 1: GV kể chuyện lần thứ nhất cho học sinh nghe. Học sinh quan sát
tranh, dựa vào gợi ý sách giáo khoa… Giáo viên dẫn dắt học sinh nắm được nội
dung câu chuyện. Chẳng hạn:
+ Truyện này có những nhân vật nào? (Chàng ngốc và vợ).
+ Khi thấy lúa nhà mình xấu chàng ngốc đã làm gì? (Kéo cây lúa lên cho
lúa cao hơn ruộng nhà bên cạnh).
+ Về nhà, anh khoe gì với vợ? (Anh ta khoe kéo lúa cao hơn ruộng nhà
bên cạnh).
+ Chị vợ ra đồng thấy kết quả thế nào? (Cả ruộng lúa nhà mình héo rũ).
+ Vì sao lúa nhà chàng ngốc bị héo? (Cây lúa bị kéo lên, đứt rễ, nên héo
rũ).
Bước 2: GV kể lần 2. HS chú ý lắng nghe.
Từ đó học sinh kể được nội dung câu chuyện như sau:
Có một chàng ngốc ra thăm đồng. Thấy lúa nhà mình xấu hơn nhà bên
cạnh, anh ta bèn lấy tay kéo lúa nhà mình lên cho cao hơn cây lúa nhà người. Về
đến nhà, anh ta khoe:
- Lúa của nhà ta xấu quá. Nhưng hôm nay tôi đã kéo nó lên cao hơn lúa ở
ruộng của nhà bên rồi.
Chị vợ ra đến đồng thì thấy bao nhiêu lúa nhà mình đã héo rũ.
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, tôi tiến hành tổ chức cho học
sinh giao tiếp với nhau qua các hình thức như: kể cho nhau nghe theo cặp đôi

hoặc đóng vai kể lại nội dung câu chuyện trước lớp.
Ngoài ra tôi còn giúp học sinh thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước
của câu chuyện: Chàng ngốc kéo lúa lên làm lúa chết hết, lại tưởng mình đã làm
cho lúa nhà mình mọc nhanh hơn. Giúp học sinh hiểu được ý nghĩa bài học của
của câu chuyện: Mọi thái độ, việc làm phải phù hợp với hoàn cảnh nếu không
đúng sẽ bị hỏng việc và còn bị chê cười.
Khi kể lại nội dung câu chuyện tôi hướng dẫn học sinh về giọng kể, cử
chỉ, điệu bộ gây cười ở ngưòi nghe, nét mặt phù hợp, nâng tính kịch tính câu
chuyện lên cao hơn.
Chẳng hạn: Lời người dẫn chuyện: dí dỏm. Lời chàng ngốc: giọng khoe,
vui vẻ, hồn nhiên. Câu kết tả cảnh buồn mà khôi hài. Ở phần này tôi ưu tiên cho
học sinh khá giỏi trong lớp tập kể từng tình huống. Sau đó cả lớp cùng giáo viên
nhận xét sửa sai. Cuối cùng học sinh kết nối kể hoàn chỉnh câu chuyện.

7


Cùng với việc rèn luyện kĩ năng nghe, nói học sinh rèn kĩ năng viết: Nắm
kĩ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục
văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần
là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm
xúc, đánh giá, thái độ yêu – ghét, trân trọng hoặc phê phán các em. Thông qua
bài viết của các em về một vấn đề nào đó. Bổ trợ cho việc rèn kĩ năng nghe – nói
trong tiết tập làm văn, phần kể chuyện của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng
rèn kĩ năng giao tiếp.
Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện bài Đất quý đất yêu tuần 11: Nhiệm vụ của
học sinh là: Quan sát tranh, sắp xếp tranh theo trình tự nội dung câu chuyện Đất
quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện đúng nội dung, ngắn gọn,
từ ngữ xúc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ điệu bộ để câu chuyện
thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của

người Ê-ti-ô-pi-a: Họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất. Thông qua kể
lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt,
phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
Nói tóm lại: Học sinh rèn kĩ năng quan sát, nói-viết, rút ra những nét điển
hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của
mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý
thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú
trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan diểm giao tiếp, khơi dậy ở các
em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể
hiện, bày tỏ cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói bài viết sẽ chính là
tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn, yêu cái hay cái đẹp, thêm
yêu Tiếng Việt góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Biện pháp 3: Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách
dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm văn nói - viết.
Đối với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 3, vốn từ của các em
còn hạn chế, nên trong khi dạy học Tập làm văn gặp nhiều khó khăn trong việc
nói-viết, thông thường các em hoặc khi trả lời đọc lại câu văn có sẵn, nói thế nào
các em viết lại như vậy dẫn đến việc kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình
gặp không ít khó khăn. Do vậy, tôi tổ chức tốt hoạt động quan sát từng đường
nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được nét
đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để làm tốt hoạt động này, trước hết tôi cho học sinh sử dụng gợi ý trong
sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể,để nhớ được các ý chính của nội dung
câu chuyện. Tôi luôn chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ của
mình. Hướng cho các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh diễn đạt sao
cho dễ hiểu, sinh động. Với cách làm đó các em sẽ dễ dàng hình dung, tưởng
tượng, nắm bắt được sự việc, nhất là tình cảm của các em muốn thể hiện qua bài
nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân
vật, xem bối cảnh của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình


8


cảm, thái độ, sự đánh giá của các em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử
dụng ngôn từ.
Ví dụ: Khi dạy Tiết Tập làm văn tuần 12: Yêu cầu của đề bài học sinh viết
đoạn văn quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta.
Để học sinh viết được đoạn văn miêu tả cảnh đẹp ở nước ta, tôi nhận thấy
việc quan sát tranh (ảnh) là điều rất quan trọng, vì thế tôi định hướng cho học
sinh quan sát tranh trong SGK. Tôi hướng dẫn học sinh nắm nội dung của tranh
(ảnh) đường nét, màu sắc,…thông qua hệ thống câu hỏi:
+ Tranh (ảnh) vẽ( chụp) cảnh gì? Cảnh đó ở nơi nào? (Tấm ảnh chụp cảnh
một bãi biển tuyệt đẹp. Đó là cảnh biển ở Phan Thiết.)
+ Màu sắc của tranh (ảnh) như thế nào? Ở câu hỏi này giáo viên hướng
dẫn học sinh quan sát màu sắc nổi bật của bức tranh: màu xanh của biển, cây
cối, núi non và bầu trời. Màu trắng tinh của cồn cát,… HS luyện nói trước lớp
sắp xếp những hình ảnh quan sát được sắp lại thành câu văn gợi tả vẻ đẹp của
cảnh biển Phan Thiết.
+ Cảnh trong tranh (ảnh) có gì đẹp? (núi và biển kề bên nhau). Hướng dẫn
học sinh lựa chọn hình ảnh diễn tả cảnh thân thiết của cả hai hình ảnh.
+ Cảnh trong tranh gợi cho em có suy nghĩ gì? (… làm cho em ngạc nhiên
và tự hào về đất nước mình có cảnh đẹp tuyệt vời.)
Từ đó, các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn,
giúp cho người nghe - đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được
vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến. Thêm vào đó, đối với bài
tập 1, giáo viên hướng dẫn học sinh kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ như:
Điệu bộ, nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính
thuyết phục đối với người nghe. Đồng thồi tôi hướng dẫn học sinh trong văn viết
việc sử dụng các dấu câu cùng làm tăng thêm tính hấp dẫn và thuyết phục.
Chính vì vậy, trong mỗi tiết tập làm văn tôi luôn khuyến khích các em, cũng như

rèn luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này.
Biện pháp 4: Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết
dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phương pháp dạy học.
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các
hoạt động học tập một cách chủ động và tích cực. Để đạt được điều đó, giáo
viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: Học sinh thảo luận nhóm, đàm
thoại với nhau hoặc với chính các thầy cô, hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại)
về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: Đóng vai các hoạt
cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức,… Qua đó học
sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “Học mà chơi, chơi mà học”. Không khí
học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả
năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát,
rành mạch, dễ hiểu.
Ví dụ: Khi dạy tiết Tập làm văn tuần 15: Nghe và kể lại câu chuyện Giấu
cày. Tôi tổ chức phối hợp các hình thức như: đóng vai ( người vợ, bác nông dân,
người dẫn chuyện) để kể lại câu chuyện (Giấu cày). Tạo cho các em không khí
9


học tập thoải mái, tích cực. Qua cách làm này tôi thấy học sinh học tập tích cực
hơn. Giờ dạy nhẹ nhàng và học sinh nắm được nội dung câu chuyện mà không
bị gò bó, ép buộc.
So sánh với phương pháp dạy tập làm văn lớp 3 truyền thống: Mỗi tiết tập
làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một
thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo
viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu
hỏi gợi ý… khiến cho học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo
khuôn mẫu không khuyến khích được học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận
xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em. Trong chương trình sách giáo khoa
lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở,

với nhiều dạng bài: Nghe - nói, nói - viết, nghe - nói - viết…
Vì vậy, tôi thiết nghĩ để dạy học Tập làm văn đạt hiệu quả thì người giáo
viên cần nắm vững mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy. Chủ động, linh hoạt
trong cách tổ chức hoạt động dạy - học, phân bổ thời gian hợp lý, vừa tránh
được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được
tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Tiết tập làm văn (Tuần 16) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lai câu chuyện “Kéo cây lúa lên” Yêu cầu học sinh nghe
và kể lại câu chuyện. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:
- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuỵên. Giáo viên cần thể hiện giọng kể,
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt nhằm gây sự chú ý của học sinh đồng thời khích lệ ở
học sinh tính tích cực, ham học hỏi,…
- Thảo luận theo nhóm, học sinh dựa vào gợi ý sách giáo khoa, tranh và
việc nghe giáo viên để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp. Kết hợp hình thức tổ chức cho học
sinh sắm vai kể lại câu chuyện.
- Học sinh nhận xét, bổ sung.
Với cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên tôi đã huy động được
tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học
tập giữa từng học sinh với nhau cũng như giữa các nhóm học sinh trong lớp.
Bài 2: Nói về “Thành thị hoặc nông thôn”. Yêu cầu học sinh làm việc cá
nhân với vở bài tập. Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học sau:
- Học sinh làm văn nói : theo nhóm đôi, nói trước lớp.
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn. Ở hình thức này tôi hướng dẫn học
sinh nhận xét về cách viết câu của bạn, cách dùng từ của bạn có gì hay hoặc chỗ
nào chưa đạt. Cho học sinh nêu ý kiến cũng như cách sửa của mình. Qua đó
cũng rèn cho học sinh kĩ năng làm việc cá nhân: lắng nghe ý kiến của bạn.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung.
Tóm lại : Giáo viên nên sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy tập
làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới, tạo được hứng thú cho học sinh, học sinh

tham gia các hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ : Tiết Tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập.
10


Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết.
- Trước hết tôi cho học sinh kể tên gọi một số người lao động trí óc.
Ví dụ: giáo viên, giáo sư, bác sĩ, nhà bác học,…
- Tiếp đó hướng cho các em lựa chọn đối tượng kể là ai? Có thể đó là
những người trong gia đình hoặc qua bài học, hoặc qua sách báo mà em biết.
Học sinh xác định được đó là đối tượng mà các em có ấn tượng sâu sắc về người
đó, thấy thích thú khi kể về người đó.
- Trao đổi nhóm (nhóm đôi) kể cho nhau nghe về người lao động trí óc.
- Giáo viên cho hoc sinh làm việc cá nhân (kể trước lớp).
- Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung.
Bài 2: Viết những điều mà em vừa kể vào đoạn văn.
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn có cách
diễn đạt rõ ràng, có cảm xúc, câu viết phải đúng ngữ pháp.
• Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa
luyện viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình
thứcdạy học trong dạy Tập làm văn là nhiệm vụ cần thiết.
Dạy Tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra
một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy
nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải
vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi;
phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận, phương án trả lời tốt
nhất. Nói ngắn gọn lại: Học sinh tìm câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông
tin và phân tích dữ kiện.
Ví dụ: Dạy Tiết 3 - Tuần 27, có bài tập như sau:
Em hãy đóng vai chi đội trưởng báo cáo với cô (thầy) tổng phụ trách kết

quả tháng thi đua “ Xây dựng Đội vững mạnh”
Đây là bài tập rèn kĩ năng nói. Tôi hướng dẫn để học sinh nắm được:
+ Người nhận báo cáo là cô (thầy) tổng phụ trách.
+ Người báo cáo là chi đội trưởng.
+ Nội dung báo cáo là kết quả tháng thi đua “Xây dựng Đội vững mạnh”
Trong báo cáo phải nêu đầy đủ các thông tin về học tập, lao động và các công
tác khác.
Tiếp đó giúp học sinh nhớ lại thu thập các dữ kiện để có bản báo cáo hoàn
chỉnh. Đồng thời tạo cho học sinh cơ hội được trình bày trước lớp để các em có
được kĩ năng giao tiếp tự nhiên và tự tin.
• Như vậy, thông qua một số tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng
tạo của học sinh. GV chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh học tập.
Biện pháp 5: Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Thông qua việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp giúp học sinh có
những hiểu biết kiến thức về các lĩnh vực khoa học và đời sống thực tiễn. Điều
đó giúp cho các em hiểu biết sâu sắc hơn về những nội dung đã được giáo dục,
giúp các em chủ động lĩnh hội, chiếm lĩnh và vận dụng các nội dung giáo dục
vào trong thực tiễn một cách dễ dàng mà không bị gò bó, ép buộc phải nhớ, phải
11


viết được,… Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều
hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Để có được
điều đó, giáo viên trực tiếp giảng dạy cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với giáo
viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt,
tổ chức các hoạt động: Thi múa hát tập thể, tập diễn các tiểu phẩm, thi kể
chuyện - văn nghệ, nghe kể về gương anh hùng chống ngoại xâm,… Hoặc thông
qua các buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỉ niệm
đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (Tập làm văn tuần 6)… Hay thông qua
các buổi sinh hoạt Đội, buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, giúp các

em viết tốt hơn đơn xin vào Đội.
Ví dụ: Tổ chức cho các em tham gia hội thi tim hiểu về Đội. Từ thực tế
đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh, giúp các em viết
tốt hơn đơn xin vào đội (tiết Tập làm văn tuần 2).
Chẳng hạn: Khi tổ chức cho các em tham gia buổi sinh hoạt Đội, tôi
hướng dẫn các em ghi chép lại những hiểu biết về Đội. Sau buổi đó tôi cho các
em thi nói những điều em biết về Đội. Với cách làm này tôi thấy học sinh tích
cực,chủ động hơn trong việc tìm hiểu. Điều đó góp phần thành công cho tiết dạy
Tập làm văn lớp 3 - Tuần 1. Hoặc qua buổi liên hoan văn nghệ chào mừng ngày
nhà giáo Việt Nam 20 - 11 nhà trường tổ chức, tôi hướng dẫn học sinh tập trung
theo dõi, ghi chép các tiết mục tiêu biểu, xuất sắc và đồng thời giúp các em ghi
lại cảm nghĩ của các em sau khi xem buổi liên hoan văn nghệ đó. Cũng từ đó tôi
giúp các em có cơ sở để viết được đoạn văn kể về một buổi biểu diễn nghệ
thuật( Tiết Tập làm văn Tuần 23).
2.4 HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC.
- Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở trường, qua dự
giờ thăm lớp tôi thấy giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn
nhiều, qua thực hành giao tiếp cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh
rất tích cực, hiệu quả.
- Học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, vốn từ của học sinh phong
phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh.
- Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh
nghe giáo viên kể chuyện trên lớp sau đó nhiều em đã kể lại trọn vẹn câu chuyện
trước lớp. Qua kiểm tra định kỳ cuối học kì II năm học 2017- 2018 chất lượng
các bài văn của học sinh nâng lên rõ nét và kết quả đạt như sau:
TỐT

Tổng Số
HS


Môn

98

TLV

HOÀN THÀNH

Số HS

Tỉ lệ

Số HS

58

56,8%

39

Tỉ lệ
41,6%

CHƯA HOÀN
THÀNH
Số HS
Tỉ lệ
1

1,6%


12


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua quá trình áp dụng thực hiện giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 3,
Tôi nhận thấy: học sinh thích thú hơn, mạnh dạn, tự tin hơn, vốn từ của học sinh
phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh, học sinh biết sử dụng dấu câu, … Đặc
biệt trong lớp có những học sinh khi viết bài đã biết vận dụng các biện pháp so
sánh, nhân hóa trong bài làm của các em. Các giờ học Tập làm văn nhẹ nhàng,
sôi nổi hơn.
Muốn đạt kết quả trong giảng dạy thì giáo viên phải: Chú trọng phương
pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kĩ năng nghe - nói - đọc - viết cho
học sinh. Vì vậy, tôi đã:
- Chỉ đạo cho giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh,
cách dùng từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. Động viên khuyến khích
học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi.
- Chỉ đạo cho giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
- Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ thể hoạt động,
tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp
với bài học.
Tóm lại: Dạy học Tập làm văn là phải hướng cho học sinh cách tự học
sáng tạo tri thức, phần lớn là cho học sinh tìm tòi, thực hành, luyện tập là chủ
yếu. Không nên dạy học một cách khuôn khổ như cách dạy và học truyền thống,
giáo viên phải tạo điều kiện tối đa cho học sinh phát huy khả năng của mình mà
không đi lệch hướng. Theo chương trình mới thì chúng ta phải lấy học sinh làm
trung tâm cho hoạt động dạy và học. Người giáo viên phải phối hợp nhiều hình
thức khác nhau như: hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động nhóm, cá nhân,

đóng vai… Để thực hiện tốt phương pháp dạy học cho học sinh thì còn nhiều
điều cần phải nghiên cứu nhằm đáp ứng cho sự chuyển biến của xã hội những gì
xã hội cần đặc biệt là học sinh lứa tuổi này.
Trên đây là những kinh nghiệm được tôi áp dụng tại trường và đã có kết
quả tiến bộ khả quan. Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng không tránh khỏi thiếu
sót tôi mạnh dạn chia sẻ. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý, bổ sung của
các cấp quản lí giáo dục và giáo viên đồng nghiệp để bản thân có được những
kinh nghiệm bổ ích và có thể áp dụng giảng dạy cho các năm học tới.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Nhà trường:
- Tổ chức các chuyên đề Tập làm văn theo từng chủ đề cho giáo viên học
hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại
sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.

13


- Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
3.2.2. Đối với giáo viên:
- Giáo viên có ý thức tự học tự rèn; tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn
bản có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó. Tìm hiểu và vận dụng
nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
- Giáo viên dành thời gian bồi dưỡng và phụ đạo cho học sinh môn
Tiếng Việt.
- Động viên, khuyến khích học sinh tự học, tự tìm tòi, tận tâm sửa chữa
sai sót cho học sinh, hướng dẫn học sinh ghi chép vào sổ tay, vở nháp.
3.2.3. Đối với học sinh:
Học sinh có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi, tập ghi chép

sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được.
Học sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ
năng trong giao tiếp ứng xử.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thọ Xuân, ngày 24 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT

Phó Hiệu trưởng

Lê Thị Mai

Đặng Thị Tâm

14


MỤC LỤC
Nội dung

STT

Trang

1


1. Mở đầu

1

2

Lý do chọn đề tài

1

3

Mục đích nghiên cứu

1-2

4

Đối tượng nghiên cứu

2

5

Phương pháp nghiên cứu

2

6


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2-3

7

2.1 Cơ sở lí luận

2-3

8

2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp
dụng SKKN

3-4

2.3 Các giải pháp dạy TLV lớp 3

4 - 12

2.4 Hiệu quả của SKKN đối với
hoạt động giáo dục

12

9
10

11


3. Kết luận, kiến nghị.

13 - 14

12

Kết luận

13 -14

Kiến nghị

13 -14

13

15



×