Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong bài tập làm văn viết của học sinh lớp 4 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.1 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU ……………………………………………………………….......................……………….……….................2
1.1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………………….……….….. ................2
1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................................................3
2. NỘI DUNG.........................................................................................................................................................................4
2.1. Cơ sở lí luận ...............................................................................................................................................................4
2.2. Thực trạng ...................................................................................................................................................................5
* Khái quát về đơn vị.......................................................................................................................................................5
* Thực trạng dùng từ đặt câu của học sinh lớp 4- 5......................................................................5
* Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra...............................6
* Kết quả của thực trạng vấn đề nghiên cứu.........................................................................................6
2.3. Giải pháp, biện pháp........................................................................................................................................6
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp...................................................................................................6
2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.............................................6
2.3.3. Các giải pháp cụ thể..........................................................................................................................................7
2.4. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp...................................................................16
2.5. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp......................................................................16
2.6. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm........................................................................................16
3. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...........................................................................................19
3.1. Kết luận ..........................................................................................................................................................................19
3.2. Kiến nghị

......................................................................................................................................................................

20

1



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đổi mới phương pháp và nội dung dạy học của bậc tiểu
học với mục tiêu giáo dục toàn diện, các em học sinh được học 9 môn học trong
đó môn Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng. Nhất là đối với lớp 1, là lớp
đầu cấp, người ta thường nói “cấp 1 là nền, lớp 1 là móng” móng có chắc thì nền
mới vững. Ở lứa tuổi này các em bắt đầu làm quen với các kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết. Và kĩ năng viết mỗi khi được hình thành ở các em, nó sẽ theo các em
suốt cả cuộc đời không những thế mà để các em phát triển tư duy, cảm nhận cái
hay, cái đẹp trong mỗi bài học. Hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu mà mình vừa
viết, các em có thể nắm được kho tàng tri thức của loài người.
Để rèn kĩ năng viết cho học sinh, người giáo viên phải dạy tốt các phân
môn như Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết và Tập làm văn. Để viết đẹp và
viết đúng, người giáo viên phải chú trọng rèn kĩ năng cho học sinh khi dạy Tập
viết và Chính tả. Còn muốn dạy cho học sinh viết đúng và hay thì chúng ta phải
đặc biệt chú ý dạy tốt hai phân môn là Luyện từ và câu và Tập làm văn. Trong
hai phân môn này thì Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong dạy học
Tiếng Việt. Nó thực hiện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng
mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt để giao tiếp, tư duy và học tập. Ngoài
ra, việc dạy học Tập làm văn còn có tác dụng rất lớn trong việc hình thành và
phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, năng lực tư duy và khả năng nhận xét,
đánh giá, bộc lộ cảm xúc của học sinh. Hơn nữa, Tập làm văn còn góp phần nuôi
dưỡng và phát triển mối quan tâm của các em với sự vật, hiện tượng, con người
xung quanh mình. Không những thế, nó còn góp phần khơi gợi ở các em lòng
yêu cái đẹp và khả năng phát triển ngôn ngữ.
Trong thực tế dạy học, có rất nhiều bài văn hay của học sinh thể hiện khả
năng tái hiện đời sống, tư duy linh hoạt, sáng tạo và trí tưởng tượng
phong phú của các em. Tuy nhiên, những lỗi mà các em mắc phải khi làm một
bài Tập làm văn cũng không ít, trong đó các lỗi mà học sinh thường gặp nhiều
nhất chính là lỗi dùng từ, đặt câu. Về phần cá nhân, chúng tôi nhận thấy rằng, để

dạy và học phân môn Tập làm văn được tốt thì việc nghiên cứu các lỗi về dùng
từ, đặt câu trong bài Tập làm văn của học sinh là công việc rất cần thiết. Nó giúp
cho giáo viên cũng như các bậc phụ huynh có thể phát hiện ra những hạn chế
của học sinh khi làm bài Tập làm văn, từ đó có phương pháp dạy học Tập làm
văn cho các em phù hợp và hiệu quả hơn.
Ở Tiểu học, ngay từ lớp 2 học sinh đã được làm quen với môn Tập làm
văn qua các bài tập nhỏ về trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, phải đến lớp 4, lớp 5 các
em mới chính thức được học môn Tập làm văn thông qua việc phát triển các câu
trả lời thành đoạn, thành bài văn. Thêm vào đó, giai đoạn này các em đã bắt đầu
tiếp thu khái niệm về một bài Tập làm văn viết, đồng thời được học tương đối có
hệ thống về kỹ năng xây dựng một bài Tập làm văn viết hoàn chỉnh. Có thể nói,
đây chính là giai đoạn nền tảng để các em có thể học tốt môn Tập làm văn viết ở
các cấp học tiếp theo.
2


Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tập làm văn lớp 4-5, tôi
thườn xuyên quan tâm đến chất lượng các bài văn viết của các em, đặc biệt
là cách dùng từ, viết câu. Tôi luôn băn khoăn làm thế nào để khắc phục và hạn
chế được các lỗi dùng từ, đặt câu cho các em. Chính vì những lí do trên, tôi đã
quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp sửa lỗi dùng từ, đặt câu
trong bài Tập làm văn viết của học sinh lớp 4 - 5”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng các bài Tập làm văn viết của học sinh lớp
4-5 Tôi đã thống kê, khảo sát, phân tích, từ đó tìm ra các lỗi dùng từ, đặt câu mà
học sinh thường mắc phải, nguyên nhân và cách chữa các lỗi đó. Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng và dạy học
Tiếng Việt nói chung ở Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các lỗi dùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn viết của học sinh lớp 4 -5

trường Tiểu học Định Tân. Nguyên nhân và cách chữa các lỗi sai đó.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp khảo sát, điều tra.

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Để đáp ứng được mục tiêu đào tạo của nhà trường Xã hội chủ nghĩa nói
chung và các trường tiểu học nói riêng, là đào tạo những con người phát triển
toàn diện. Bậc Tiểu học là bậc quan trọng nhất, nó là nền móng đầu tiên cho sự
phát triển toàn diện ấy. Do vậy nền móng tri thức và nhóm nhân cách con người
được vững chắc hay không chính là nhờ sự kiên cố của nền móng đó. Về mặt
tâm lí ở cấp Tiểu học này, trẻ bắt đầu tiếp xúc với việc học tập, hoạt động của
các em được chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tâm hồn
trong trắng của các em bắt đầu tiếp xúc với công việc mới mẻ và có thể nói cấp
Tiểu học sẽ viết những nét đầu tiên trên nền nhân cách trẻ.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ một trong những vị trí
quan trọng nhất, với nhiệm vụ là trang bị cho học sinh những tri thức về hệ
thống Tiếng Việt chuẩn mực, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sử dụng
thành thạo Tiếng Việt trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Để học sinh có được
điều đó trước hết phải giúp học sinh nâng cao mở rộng những hiểu biết về nghĩa
của từ, đặc điểm kết hợp của từ, cách sử dụng từ,... và nâng cao ý thức của học
sinh về việc dùng từ, rèn cho các em thói quen phải cân nhắc, suy xét cẩn thận
khi dùng từ, thói quen đọc lại, điều chỉnh, sửa chữa nếu cần thiết, từ đó biết cách
sắp xếp các từ ngữ thành câu văn hoàn chỉnh. Điều đó giúp các em đạt hiệu quả

cao trong quá trình tư duy và giao tiếp.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong dạy học Tiếng Việt.
Chính vì vậy, làm thế nào để giúp học sinh viết bài Tập làm văn đạt hiệu quả cao
là một trong những vấn đề được rất nhiều tác giả quan tâm. Trong cuốn
“Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”, Nxb Trường ĐHSP Hà
Nội 1, Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh,
Nguyễn Trí, năm 1995 và cuốn “Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học
(theo chương trình mới)”, Nxb Giáo dục, Nguyễn Trí, năm 2007 đã đề cập đến
việc hình thành, rèn luyện kĩ năng viết cho học sinh tiểu học thông qua cách
luyện viết các văn bản trong môn Tập làm văn, nhưng vẫn chưa đề cập cụ thể
đến các lỗi dùng từ, đặt câu và cách khắc phục.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) và Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn
“Tiếng việt thực hành” (năm 1996) - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã
đưa ra một số lỗi câu sai, lấy ví dụ và chữa lại cho phù hợp với văn bản và
phong cách giao tiếp. Tác giả cũng đề cập đến một số lỗi sai về dùng từ, cách
chữa. Tuy nhiên đây chỉ là những lỗi cơ bản chưa cụ thể và vấn đề này được tác
giả xem xét trong diện rộng, chưa thật phù hợp đối với cấp tiểu học.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Trí trong cuốn “Dạy Tập làm văn ở trường tiểu
học”, Nxb Giáo dục, năm 2000 cũng đề cập đến các vấn đề về lỗi sai mà học
sinh tiểu học thường gặp (bao gồm lỗi dùng từ, đặt câu) trong bài Tập làm văn
viết. Nhưng các vấn đề này chỉ được tác giả xem xét và đưa ra phương pháp dạy
học một cách khái quát mà không đưa ra được biện pháp chữa lỗi cụ thể.
Tác giả Lê Phương Nga trong cuốn “Dạy học ngữ pháp ở tiểu học”, Nxb
4


Giáo dục, (năm 1998) đã nêu ra các lỗi câu mà học sinh tiểu học thường mắc
phải và đưa ra cách chữa. Có thể nói tác giả đã viết rất chi tiết, đầy đủ về lỗi câu
của học sinh tiểu học. Tuy nhiên, tác giả không đề cập đến lỗi dùng từ ở học sinh
tiểu học.

Trong cuốn “Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục” (năm 2002) - Nhà xuất bản
Khoa học xã hội do tác giả Cao Xuân Hạo (chủ biên) cũng đã viết rất rõ về các
lỗi câu và cách khắc phục. Tuy nhiên, ở đây tác giả chỉ khảo sát các lỗi câu trên
các phương tiện truyền thông ở thành phố Hồ Chí Minh và cũng không
đề cập đến lỗi dùng từ.
Để kế thừa và phát triển các thành tựu nghiên cứu trên, tôi đã tiến hành
“Một số biện pháp sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn viết của
học sinh lớp 4 - 5” để có cài nhìn cụ thể hơn về vấn đề này.
2.2. Thực trạng
* Khái quát vài nét về đơn vị
Trường Tiểu học nơi tôi công tác là một trường có cơ sở vật chất tương
đối đầy đủ với các phòng chức năng và thư viện có đủ các loại sách để cán bộ,
giáo viên và học sinh tham khảo. Bên cạnh đó có đội ngũ giáo viên đủ về số
lượng và chất lượng đồng đều. Điều đó có nhiều thuận lợi cho quá trình dạy
học.Tuy nhiên học sinh ở đây đa số là con gia đình làm nông nghiệp, nhiều em
bố mẹ đi làm ăn xa ở nhà với ông bà nên sự quan tâm đến việc học của các em
chưa được quan tâm dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao. Bên cạnh đó
việc học hai buổi trên ngày khiến giáo viên không có nhiều thời gian để tìm tòi,
nghiên cứu các lỗi về dùng từ của học sinh để hệ thống lại, từ đó tìm ra giải
pháp phù hợp, mà phần lớn là sửa lỗi cho học sinh theo kiểu sai đâu sửa đó nên
hiệu quả chưa cao.
* Thực trạng dùng từ, đặt câu của học sinh lớp 4, 5.
Trong thực tế dạy học tôi thấy học sinh lớp 4, lớp 5 khi viết văn hiện
tượng dùng từ sai còn khá phổ biến. Ví dụ khi viết một đoạn văn tả một cây
bóng mát em Lê Thu Hồng lớp 5B viết: “Thân cây không to, không bé mà thon
thả ”... Nhiều em dùng từ chưa đúng phong cách . Em Hoàng Ngọc Cường lớp
5C viết “ Đặc biệt, vào buổi hoàng hôn thì con đường lộng lẫy và tuyệt đẹp biết
bao.” Nhiều học sinh đặt câu thiếu thành phần, không phù hợp với nhân vật, sử
dụng dấu câu sai chỗ dẫn đến việc người đọc khó nắm bắt được nội dung các em
cần truyền đạt. VD: “Ở giữa bụng có thêu hình một cô bé.” (Tả một đồ vật mà

em yêu thích - Mai Quỳnh Anh - lớp 4B)... Qua các tiết dạy và qua các bài kiểm
tra tôi nhận thấy HS dùng từ sai là do có nhiều nguyên nhân song chủ yếu là do
những nguyên nhân như: Không nắm chắc nghĩa của từ, nguyên tắc kết hợp từ,
phong cách ngôn ngữ văn bản ; do vốn từ nghèo, khả năng huy động và lựa chọn
từ hạn chế; học từ theo kiểu truyền khẩu, bắt chước... nên không nắm chắc, hiểu
kĩ, dẫn đến dùng từ không phù hợp,…Dùng từ sai làm cho câu văn tối nghĩa,
nhạt nhẽo, sai ý, khiến cho người đọc người nghe hiểu lầm, hiểu không hết ý
trình bày.
Nhiều học sinh còn lười quan sát, phụ thuộc nhiều vào văn mẫu, lười tư
5


duy. Trong quá trình học tập, học sinh còn mắc sai lầm khi áp dụng bài văn tả
con vật để tả người và ngược lại. VD: Nhà em có nuôi một ông nội, ông nội suốt
ngày chẳng làm gì cả chỉ trùm chăn ngủ, đến bữa ăn ông ló đầu ra hỏi: Cơm
chín chưa bây?... (Nguyễn Đức Toàn - lớp 5B)
Hoặc: Em sẽ học tập thật tốt để không phụ lòng ba mẹ yêu thương con
chó. (Mai Thị Hồng - lớp 4C)
* Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc chữa lỗi dùng từ, đặt
câu cho các em. Việc sửa lỗi dùng từ đặt câu chưa được thực hiện một cách bài
bản.
Trong các tiết học học sinh chưa được rèn luyện kĩ về cách dùng từ, đặt câu.
Ở nhà, một số cha mẹ học sinh ít quan tâm đến việc học tập của con em
mình nên các em không tự giác học bài. Có em rất chăm chỉ học bài nhưng kết
quả học tập thì chưa cao.
Vì vốn sống, vốn thực tế của nhiều học sinh còn hạn chế nên khi lựa chọn
một từ ngữ phù hợp để đặt câu là khó khăn.
* Kết quả của thực trạng vấn đề nghiên cứu
Để nắm vững chất lượng học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát đầu năm môn

Tập làm văn trong năm học 2017 -2018 của lớp 5A
Qua kiểm tra thu được kết quả như sau:

Thời điểm
Lớp
kiểm tra
5A
21/9/2017


Số
29

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL


TL

SL

TL

2

7%

11

38%

7

24%

9

31%

Xuất phát từ kết quả của học sinh tôi đã có những biện pháp để nâng cao
chất lượng dạy học môn Tập làm văn bằng cách khi chấm bài làm văn viết của
học sinh, tôi thống kê lại các kiểu dùng từ, đặt câu sai rồi chọn những kiểu sai
tiêu biểu để hướng dẫn HS chữa lỗi.
2.3. Giải pháp, biện pháp thực hiện
2.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận, nghiên cứu phương pháp dạy học Tập

làm văn và thực trạng các lỗi dùng từ, đặt câu trong bài tập làm văn viết của học
sinh, chúng tôi xin đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng
bài tập làm văn viết của học sinh tiểu học.
2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Đầu tiên, trong các tiết Tập làm văn, học sinh phải chuẩn bị kĩ lưỡng, phải
được giáo viên chỉnh sửa, uốn nắn ngay từ lúc còn làm văn miệng, để khi làm
bài văn viết học sinh không bị mắc lỗi về dùng từ, đặt câu.
6


Đối với nguyên nhân về khả năng nhận thức của học sinh có thể được khắc
phục được nếu các em luyện tập nhiều lần và có sự kiên trì hướng dẫn của giáo
viên. Sự phối hợp đồng bộ giữa các môn học là điều kiện quan trọng và nhất
thiết phải thực hiện để nâng cao chất lượng toàn diện của học sinh. Có thể nói,
quan điểm tích hợp trong việc lồng ghép các môn học đã đem lại hiệu quả cao.
Tư liệu cho phân môn Tập làm văn chính là từ phân môn Tập đọc. Để rèn luyện
kĩ năng dùng từ, đặt câu của phân môn Luyện từ và câu thì Tập làm văn là nơi
thể hiện rõ nhất sản phẩm. Vì vậy phải chú ý phân bố hợp lí giữa các phân môn
Tiếng Việt.
Việc chữa các lỗi trong bài văn của học sinh cần được tổ chức một cách
cẩn thận, tỉ mỉ. Khi hướng dẫn học sinh sửa lỗi, giáo viên cần:
- Đưa ra các lỗi sai điển hình
- Chỉ ra chỗ sai
- Xác định nguyên nhân dẫn đến chỗ sai
- Đối chiếu lỗi sai và lỗi đã được sửa để rút ra những lưu ý cần thiết.
Trong bài làm của học sinh, giáo viên dùng bút để gạch chân những chỗ
sai và sửa sang bên cạnh. Khi chữa, cần tôn trọng ý định của người viết, tuyệt
nhiên không biến đổi các câu sai thành câu hoàn toàn khác.
2. 3.3. Các giải pháp, biện pháp cụ thể.
* Nguyên nhân và các biện pháp sửa lỗi dùng từ

Dạng 1: Lỗi lặp từ
Nguyên nhân của loại lỗi này là do vốn từ của học sinh còn chưa phong
phú, học sinh chưa biết cách sử dụng các từ ngữ khác để thay thế cho phù hợp,
tránh sự lặp lại nhàm chán.
Để sửa những lỗi câu tương tự câu trên, ta có thể bỏ bớt một từ dùng lặp
hoặc thay thế nó bằng đại từ hay từ đồng nghĩa.
Ví dụ: Tôi rất yêu con đường cát trắng, tôi rất yêu ngôi nhà mái đỏ, tôi
rất yêu luỹ tre xanh ngắt của làng tôi.
(Tả cảnh quê hương - Lê Thu Phương - Lớp 5A)
* Gợi ý:
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
Từ trùng lặp trong câu a là từ tôi, rất, yêu Đây là lỗi lặp từ hoàn toàn (sử
dụng ba lần) do người viết nghèo về vốn từ nên diễn đạt kém, gây nên sự lủng
củng trong câu văn.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng:
Bỏ từ tôi, rất thứ hai, thứ ba.
Câu văn được sửa lại là: Tôi rất yêu con đường cát trắng, yêu ngôi nhà
mái đỏ, yêu luỹ tre xanh ngắt của làng tôi.
- Củng cố thêm:
GV lưu ý học sinh khi nói đặc biệt là khi viết phải hết sức tránh lặp từ một
cách vô thức, khiến cho lời nói câu văn trở nên nặng nề, dài dòng và lủng củng.
Ví dụ 2: Cánh đồng lúa quê em rộng mênh mông, bát ngát rập rờn sóng lúa.
* Gợi ý:
7


- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
HS xác định từ đồng nghĩa trong câu văn: mênh mông, bát ngát. Hai từ
này đều chỉ độ rộng lớn đến mức như vô cùng tận, tầm mắt không bao quát hết
được. Đây là lỗi lặp từ đồng nghĩa.

- Sửa chữa và thay thế từ đúng :
Để chữa lỗi này ta nên bỏ một trong hai từ thừa. Trong trường hợp này,
nên bỏ từ mênh mông.
Câu văn được sửa lại là: Cánh đồng lúa quê em rộng bát ngát, rập rờn
sóng lúa.
- Củng cố thêm:
GV giải thích thêm về việc dùng từ cho học sinh; trong trường hợp này ta
nên giữ lại từ bát ngát vừa đảm bảo nhạc điệu cho câu văn vừa phù hợp với nội
dung của câu.
Dạng 2: Lỗi dùng từ không đúng nghĩa.
Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh không nắm được ý nghĩa của
từ, hoặc nhầm lẫn các từ gần âm, gần nghĩa với nhau. Thêm vào đó, do đặc điểm
lứa tuổi của các em hay bắt chước cách dùng từ của người lớn nhưng
không hiểu rõ nghĩa nên thường áp dụng sai vào quá trình viết câu.
Cách chữa loại lỗi này là thay thế các từ dùng sai bằng những từ phù hợp.
Ví dụ 1: Hôm nay là ngày chủ nhật, mẹ gọi em dậy sớm và đưa em đi
dạo trên cánh đồng hít thở không khí trong veo.
(Tả cảnh quê hương em - Võ Đức Toàn - Lớp 5A)
* Gợi ý::
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
+ HS phát hiện từ sai: Trong veo.
+ Phân tích từ dùng sai: trong veo là tính từ chỉ tính chất rất trong, không
một chút vẩn đục, với nghĩa này không thể kết hợp được với từ không khí để hít
thở. Người viết do chưa hiểu nghĩa của từ trong veo nên nghĩa của nó không phù
hợp với nghĩa mà câu cần thể hiện.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
Để thực hiện nghĩa của cả câu là hít thở không khí ban mai trong sạch và
có tác dụng tốt với cơ thể, nên dùng từ trong lành.
Câu trên sửa lại là: Hôm nay là ngày chủ nhật, mẹ gọi em dậy sớm và
đưa em đi dạo trên cánh đồng hít thở không khí trong lành.

- Củng cố thêm
GV có thể cho học sinh phân biệt nghĩa từ trong lành với từ trong veo.
Ví dụ 2: Ngắm nhìn cánh đồng lúa và rặng dừa xanh em cảm thấy quê
mình hoà bình quá!
* Gợi ý:
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ.
Từ dùng sai là từ hoà bình. Hoà bình là tình trạng không có chiến tranh
nhưng ý của người viết muốn diễn đạt vẻ đẹp yên ả của quê hương nên dùng từ
hoà bình là không đúng. Đây là loại lỗi dùng từ sai do dùng từ gần nghĩa chưa
8


phù hợp.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
+ GV hướng dẫn HS lựa chọn những từ gần nghĩa với từ hoà bình để thay
thế: thanh bình, yên bình, yên ả, bình yên…Trong các từ đó các em có thể chọn
những từ thay thế phù hợp với nghĩa của câu văn.
- Củng cố thêm:
+ Việc thay thế từ thanh bình đã diễn đạt đúng ý trong câu văn.
+ GV lưu ý học sinh cần phân biệt sự khác nhau rất tinh tế giữa các từ
đồng nghĩa để dùng cho thích hợp.
Ví dụ 3: Làng quê em yên ả dưới luỹ tre xanh, ngân nga trong tiếng
chuông chùa. Trong cuộc chiến tranh chống Mĩ, thanh niên quê em hăng hái lên
đường và có những người con đã chết cho Tổ quốc.
(Hoàng Thị Lan - Lớp 5B)
* Gợi ý:
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
Từ sai là từ chết, dùng từ này không thể hiện được sự biết ơn các anh
thanh niên đã hi sinh xương máu để giành độc lập. Đây là lỗi dùng từ sai về
nghĩa biểu thái.

- Sửa chữa và thay thế từ đúng
GV hướng dẫn HS tìm những từ đồng nghĩa với từ chết: mất, ra đi, toi
mạng, hi sinh,… Trong những từ đó, HS chọn từ thể hiện được sự biết ơn tôn
trọng đối với những người đã đấu tranh cho Tổ quốc và thay thế cho từ. Có thể
chọn từ hi sinh.
- Củng cố thêm:
GV lưu ý học sinh cần phân biệt sắc thái rất tinh tế của từ, phân biệt được
trong từ đồng nghĩa có đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn.
Đồng nghĩa không hoàn toàn khác nhau về sắc thái nghĩa. Sử dụng nghĩa của từ
này phụ thuộc vào đối tượng và ngữ cảnh trong câu văn.
Dạng 3: Lỗi kết hợp từ
Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh không biết cách phối hợp
các từ theo đúng quan hệ ngữ pháp, nghĩa, tư duy các em còn đơn giản, các em
Không biết nó có phù hợp hay không.
Ví dụ 1: Bà ngoại em đã già nhưng mắt bà không còn sáng.
(Nguyễn Thị Mai - Lớp 5A)
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
Trong câu văn, người viết đã dùng sai quan hệ từ nhưng.Quan hệ từ
nhưng thường biểu hiện quan hệ ý nghĩa giữa hai vế câu trái ngược nhau, tương
phản nhau. Trong câu a, hai vế có quan hệ ý nghĩa không đối lập nên dùng quan
hệ từ này là không đúng.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
Có thể chữa bằng cách thay quan hệ từ nhưng bằng quan hệ từ nên.
VD: Bà ngoại em đã già nên mắt bà không còn sáng.
- Củng cố thêm
9


GV củng cố lại cách dùng các quan hệ từ trong câu.
Ví dụ 2: Trong năm học qua, lớp em sẽ phấn đấu để đạt danh danh hiệu

lớp tiên tiến.
(Nguyễn Thị Hà - Lớp 4A)
* Gợi ý:
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ.
Câu văn đã dùng sai kết hợp giữa từ sẽ với trạng ngữ chỉ thời gian trong
năm học này. Trạng ngữ chỉ thời gian đã diễn ra mâu thuẫn với từ sẽ chỉ sự việc
sẽ diễn ra “trong tương lai”
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
Có thể sửa chữa bằng một trong hai cách sau:
+ Thay từ qua trong trạng ngữ bằng từ tới để chỉ khoảng thời gian thích
hợp với điều mà từ sẽ diễn đạt.
Câu văn được sửa là: Trong năm học tới, lớp em sẽ phấn đấu để đạt danh
danh hiệu lớp tiên tiến.
+ Thay từ sẽ trong thành phần vị ngữ thành từ đã để nó phù hợp với trạng
ngữ của câu. Tuy nhiên, cách chữa phải dựa vào khoảng thời gian mà sự việc
trong bài viết muốn nói.
Câu văn được sửa là: Trong năm học qua, lớp em đã phấn đấu để đạt
danh danh hiệu lớp tiên tiến.
- Củng cố thêm
GV hệ thống lại cách dùng các từ đã, đang, sẽ trong Tiếng Việt.
Ví dụ 3: Chiếc xe càng đến gần làng Sen quê Bác thì em rất hồi hộp.
* Gợi ý :
- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
Trong quan hệ nội tại của câu, nội dung biểu hiện ở hai vế câu là quan hệ
tăng tiến, nhưng người viết sử dụng cặp quan hệ từ càng - thì là không đúng.
Người viết đã mắc lỗi kết hợp khi sử dụng cặp quan hệ từ càng - thì.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
Tìm những cặp từ thể hiện được mối quan hệ tăng tiến giữa hai vế câu
Càng - càng.
Câu văn được sửa là: Chiếc xe càng đến gần làng Sen quê Bác em càng

hồi hộp.
- Củng cố thêm:
GV củng cố lại cách dùng các cặp quan hệ từ trong tiếng Việt.
Dạng 4: Lỗi dùng từ không hợp phong cách
Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh không nắm vững phong cách
ngôn ngữ trong từng loại văn bản. Cách chữa các lỗi này là bỏ những từ không
hợp phong cách văn bản hoặc thay thế bằng các từ ngữ khác cho phù hợp.
Ví dụ 1: Chị gà mái mơ xù lông, rướn cổ, mắt gườm gườm nhìn bác diều
hâu hung ác.
(Nguyễn Văn Chiến - Lớp 4A)
* Gợi ý :
10


- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
Trong câu văn trên, từ bác không hợp với ngữ cảnh, đây là từ chỉ người
để tỏ thái độ gần gũi, tôn trọng. Diều hâu kẻ thù của gà không thể đi với bác, kẻ
đi bắt gà không thể được diễn tả với thái độ tôn trọng, kính nể. Người viết đã
không hiểu nghĩa của từ trong văn cảnh.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
Có thể thay từ không hợp văn cảnh đó bằng một số từ lão, tên, mụ,…
Câu văn trên được chữa lại là: Chị gà mái mơ xù lông, rướn cổ, mắt gườm
gườm nhìn mụ diều hâu hung ác.
- Củng cố thêm:
Việc thay từ lão, tên, mụ … trong câu văn trên là phù hợp với nghĩa diễn
đạt của cả câu.
Ví dụ 2: Trong buổi sáng mùa thu khai trường, chúng em đã được nghe
những lời dạy bảo cực kì hay của thầy hiệu trưởng.
(Trần Ngọc Thùy Vi - Lớp 4A)
* Gợi ý:

- Phát hiện và nhận diện lỗi về từ
Cực kì hay là từ ngữ thường dùng trong khẩu ngữ sinh hoạt hằng ngày,
không hợp với phong cách của câu văn đã dẫn. Đây là lỗi dùng từ sai phong
cách văn bản.
- Sửa chữa và thay thế từ đúng
Có thể thay từ ngữ dùng sai bằng một tính từ khác đúng hơn: ân cần. Ân
cần có nghĩa là tỏ ra quan tâm chu đáo và đầy nhiệt tình.
Câu văn được sửa lại là: Trong buổi sáng mùa thu khai trường, chúng em
đã được nghe những lời chỉ bảo ân cần của thầy hiệu trưởng.
- Củng cố thêm:
GV lưu ý HS cần phân biệt rõ ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết để tránh
nhẫm lẫn.
Ví dụ: Chiếc bút này bố đã tặng tôi hôm sinh nhật đấy các bạn ạ! Bây
giờ, tôi sẽ kể câu chuyện về chiếc bút của tôi cho các bạn nghe nhé.
*Nguyên nhân và các biện pháp sửa lỗi đặt câu
Dạng 1: Câu thiếu thành phần
Câu thiếu thành phầnchủ ngữ
Câu thiếu thành phần chủ ngữ xuất hiện nhiều bởi nhiều khi học sinh
nhầm đối tượng mới chỉ ở tư duy chưa được thực hiện hóa ở câu với chủ ngữ.
Trong tư duy của các em, đối tượng cần nói đến hiện ra rất rõ, các em chỉ quan
tâm đến việc diễn tả những hoạt động, tính chất, trạng thái của đối
tượng. Do vậy, các em viết câu không có thành phần chủ ngữ và yên trí rằng câu
đã trọn nghĩa. Câu thiếu thành phần chủ ngữ cũng có thể do học sinh lầm tưởng
trạng ngữ là chủ ngữ.
Ví dụ : Qua bài thơ “Anh Đom Đóm”, cho ta thấy vẻ đẹp cuộc sống cña
c¸c loµi vËt ë lµng quª Việt Nam. (Vũ Xuân Dương - Lớp 5C)
Câu thiếu thành phần thường bắt nguồn từ việc người viết không nhận biết
11



mt cỏch rnh mch vai trũ ca cỏc thnh phn cõu v ranh gii gia chỳng. Vớ
d trờn rt in hỡnh cho dng cõu thiu ch ng do ngi vit nhm trng ng
vi ch ng. Khi cha nhng cõu sai nh vy, hc sinh d phỏt hin li, nờn
yờu cu cỏc em xỏc nh thnh phn chớnh v ph ca cõu ( vớ d: tỡm ch ng,
v ng, trng ng ), t ú phỏt hin ra cỏi sai ca cõu v cu to: thiu ch ng ch cú trng ng v v ng. cõu cú thnh phn, cn b sung ch ng,
ngoi ra cng cú th cha bng cỏch ci to cõu cho thnh phn. Vớ d trờn
cú th ci to theo ba cỏch: B sung ch ng; chuyn trng ng thnh ch ng
bng vic gch b t qua hoc to cho cõu mt nũng ct mi bng cỏch thay
t cho bng du phy. Nh vy, cõu sai trờn õy cú th c cha thnh cỏc
cõu ỳng sau:
Qua bi th Anh om úm, nh th Vừ Qung cho ta thy v p
cuc sng của các loài vật ở làng quê Vit Nam. (B sung ch ng)
Bi th Anh om úm cho ta thy v p cuc sng của các loài
vật ở làng quê Vit Nam. (Chuyn trng ng thnh ch ng).
Qua bi th Anh om úm, ta thy c v p cuc sng của các
loài vật ở làng quê Vit Nam. (To nũng ct mi cho cõu).
Cõu thiu thnh phn v ng
Li cõu thiu thnh phn v ng xut hin tng i nhiu trong bi lm
vn vit ca hc sinh. Vớ d : Cỏi cp cú nhiu mu sc.
(Nguyn Vn Cng - Lp 4A)
vớ d trờn, hc sinh d nhm tng l cõu vỡ dng nh chỳng ó
ch ng v v ng. Nhng cỏi cp trong cõu trờn l ng danh t khụng xỏc
nh, vỡ th chỳng cha th lm ch ng. Hc sinh khụng hiu phn ln cỏc
danh t cú cỏi, nhng... m u l danh t khụng xỏc nh, mun xỏc nh ta
phi thờm nh ng sau.
Cõu ỳng l : Cỏi cp ca Lan cú nhiu mu sc.
Cng c thờm:
S phõn tớch trờn õy cho thy vic xỏc nh nguyờn nhõn gõy sai chi phi
vic la chn cỏch cha cõu. Khi cha mt cõu, ta ch phng oỏn nguyờn nhõn
gõy sai v cha theo nguyờn nhõn ó c xỏc nh. Cng phng oỏn nhiu

nguyờn nhõn bao nhiờu thỡ cỏch cha cng phong phỳ by nhiờu ( Lớ do ch yu
ca vic cú th xỏc nh nhiu nguyờn nhõn v nhiu cỏch cha cho mt cõu sai
l do cõu c xem xột tỏch khi hot ng. Nu phõn tớch cõu gn vi ng
cnh thỡ vic phng oỏn nguyờn nhõn gõy sai s chớnh xỏc hn, do vy cỏch
cha cõu sai cng chớnh xỏc hn).
T vic phõn tớch hai cõu sai trờn, cú th rỳt ra kt lun: mun cha cõu
thiu thnh phn, cũn phi thờm theo ngha rng: cú th l b sung thnh phn
cũn thiu, hoc ci bin mt thnh phn cõu vn gi chc nng khỏc thnh phn
cũn thiu trong cõu.
Cõu thiu c thnh phn ch ng v v ng
Nguyờn nhõn ca nhng loi li ny l do hc sinh khụng hiu rừ rng
ch ng khụng th ng sau quan h t, khụng hiu rng cỏc danh t ch thi
12


gian như khi, lúc...cần phải có định ngữ. Mặt khác, thường là bộ phận đứng sau
quan hệ từ được phát triển dài khiến cho học sinh tưởng nó đã có nội dung
thông báo.
Ví dụ : Khi ông mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên xuống.
(Phạm Tiến Đạt - Lớp 5B)
Nếu tách riêng câu sai ra khỏi văn bản thì về mặt lí thuyết có hai cách
chữa: hoặc bỏ các quan hệ từ để cho phần còn lại trở thành câu hoặc xem phần
đã có là trạng ngữ rồi thêm một hoặc một mệnh đề (một kết cấu chủ - vị) để tạo
câu mới. Nếu đặt câu sai vào văn bản trong mối quan hệ với các câu khác để
nắm được mục đích thông báo của người viết thì có thể chọn một trong hai cách.
Ở ví dụ trên có hai cách chữa như sau :
Cách thứ nhất : Ông mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên xuống. (Bỏ
quan hệ từ)
Cách thứ hai : Khi ông mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên xuống, con
đường đã tấp nập người qua lại. (Thêm một kết cấu chủ - vị)

Dạng 2: Câu thừa thành phần
Không phổ biến bằng câu thiếu thành phần, nhưng câu thừa thành phần
cũng không hiếm trong bài viết của học sinh. Nguyên nhân chủ yếu gây ra loại
lỗi này cũng là do các em mang thói quen của lời nói miệng vào bài viết và do kĩ
năng viết câu của học sinh còn kém, các em đã sắp xếp thành ý trong đầu để viết
ra câu nhưng khi diễn đạt ý lại rơi vào tình trạng kể lan man, lủng củng.
Ví dụ: Bài thơ Hạt gạo làng ta nhà thơ Trần Đăng Khoa đã ca ngợi cái
quý giá của hạt gạo bình thường.
(Ngô Chí Dũng - Lớp 5A)
Câu sai trên đây “thừa chủ ngữ” do người viết đưa từ ngữ nêu tác giả và
tác phẩm có nội dung không cùng phạm trù - vào cùng vị trí chủ ngữ. Để học
sinh thấy rõ cái sai trong câu, Giáo viên cần cho học sinh phân tích cấu tạo ngữ
pháp, bắt đầu từ việc chỉ ra chủ ngữ, vị ngữ của câu. Sau khi phân tích, các em
sẽ thấy hai cụm từ cùng có thể làm chủ ngữ là bài thơ Hạt gạolàng ta và nhà thơ
Trần Đăng Khoa, nhưng không thể làm chủ ngữ cho một câu được vì chúng
hoàn toàn khác nhau về ý nghĩa. Chữa câu thừa thành phần cũng như chữa câu
thiếu thành phần, nhưng qui trình ngược lại: cần phải gạch bỏ thành phần thừa,
hoặc chuyển bớt một thành phần thừa sang chức năng khác. Do vậy, câu sai
trong ví dụ trên có tới 4 cách chữa:
Cách 1: Gạch bỏ “Bài thơ Hạt gạo làng ta ”, câu mới sẽ là: Nhà thơ Trần
Đăng Khoa đã ca ngợi cái quý giá của hạt gạo bình thường.
Cách 2: Gạch bỏ “nhà thơ Trần Đăng Khoa”, câu mới sẽ là: Bài thơ Hạt
gạo làng ta đã ca ngợi cái quý giá của hạt gạo bình thường.
Cách 3: Chuyển “Bài thơ Hạt gạo làng ta ” thành trạng ngữ của câu bằng
cách thêm từ chỉ quan hệ ( ví dụ, từ qua) vào đầu câu. Lúc này, câu mới là: Qua
bài thơ Hạt gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã ca ngợi cái quý giá của
hạt gạo bình thường.
Cách 4: Chuyển “nhà thơ Trần Đăng Khoa ” thành định ngữ của “bài thơ”
13



bằng cách thêm từ “của” vào trước “nhà thơ”, câu mới là: Bài thơ Hạt gạo làng
ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa đã ca ngợi cái quý giá của hạt gạo bình
thường.
Củng cố thêm:
Như vậy, với mỗi câu sai, ta có thể chữa bằng nhiều cách khác nhau. Sau
khi chữa xong, cần hướng dẫn học sinh tìm ra câu mới có nội dung và cấu tạo
gần với câu ban đầu (câu sai) nhất, có mối liên hệ chặt chẽ với các câu khác
trong bài nhất (nếu ta biết các câu ấy), từ đó chọn cách chữa tốt nhất trong hoàn
cảnh cụ thể.
Từ việc phân tích lỗi và chữa một câu sai thừa thành phần như ở ví dụ trên,
có thể đi tới nhận xét có tính phương pháp: Muốn chữa câu thừa thành phần thì
phải bớt đi thành phần thừa bằng cách gạch bỏ từ ngữ thừa hoặc chuyển một
trong số các từ ngữ thừa sang đảm nhiệm chức năng ngữ pháp khác trong câu.
Dạng 3: Câu không phân định thành phần
Nguyên nhân của những loại lỗi này khá phức tạp, trước hết là do học
sinh không chuẩn bị cho mình một nội dung cần viết nên không phân cách được
trong tư duy ra từng ý rạch ròi. Các em gần như trong tình trang vô thức, nhớ từ
nào là viết ngay vào trong bài, không tìm cách tổ chức, sắp xếp các từ, cụm từ
để biểu đạt nội dung. Đây là loại lỗi nặng, khó chữa, nhiều khi phải trao đổi trực
tiếp với học sinh mới biết các em muốn diễn đạt điều gì để chữa cho đúng. Có
thể liệt kê các lỗi không phân định thành phần như sau:
Câu không xác định được thành phần
Ví dụ : Không hôm nào mẹ em còn sót một bông hoa nào mang về.
(Vũ Tiến Đoàn - Lớp 4A)
Câu sắp xếp sai vị trí các thành phần
Ví dụ : Em thấy việc làm sai viết tên mình ra bàn.
(Nguyễn Trần Ngọc - Lớp 4A)
Câu này cần sắp xếp lại các thành phần câu cho đúng trật tự ngữ pháp.
Câu đúng là : Em thấy việc viết tên mình ra bàn là việc làm sai.

Dạng 4: Các lỗi về nghĩa
Tỉ lệ học sinh có câu mắc lỗi về nghĩa tương đối lớn và nhiều kiểu loại. Ở
đây, chúng tôi chỉ đưa ra một số lỗi điển hình mà học sinh thường mắc phải.
Câu sai nghĩa
Ví dụ: Những cây cột điện được nối chằng chịt trên đường.
(Phạm Hà My - Lớp 5B)
Nguyên nhân của những câu sai trên là do học sinh thiếu kiến thức thực
tế. Vì vậy để chữa những lỗi này cần sửa những chi tiết phi thực tế trong câu.
Câu sửa lại là : Những sợi dây điện được nối chằng chịt trên đường.
Câu không rõ nghĩa
Ví dụ: Hôm nay trời rét nhưng em có chiếc áo sơ mi.
(Phạm Phương Thảo - Lớp 4A)
Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các vế câu
Tư duy của học sinh Tiểu học còn đơn g iản, vì vậy khi diễn đạt các nội
14


dung phức tạp bằng các câu ghép, các em gặp rât nhiều khó khăn. Trong bài làm
của học sinh xuất hiện nhiều lỗi câu ghép.
Ví dụ: Mẹ em bảo vì quả chuối có rất nhiều vitamin nên con phải chăm
sóc cây chuối thật tốt.
(Trần Đăng Khôi - Lớp 4C)
Các câu trên sai vì không có sự tương hợp giữa nội dung của các vế câu
và các cặp quan hệ từ nên có thể chữa lại bằng cách : thay quan hệ từ hoặc sửa
lại nội dung vế câu.
Câu trên được sửa lại như sau: Mẹ em bảo vì quả chuối có nhiều
vitamin nên con phải ăn nhiều chuối.
Hoặc : Mẹ em bảo vì chuối cung cấp cho ta rất nhiều vitamin nên con
phải chăm sóc cây chuối thật tốt để cây ra nhiều quả.
Câu có các thành phần không đồng chức đồng loại

Ví dụ: Cây bàng rất cao và rất thân thiết với chúng em.
(Nguyễn Văn Nam - Lớp 4A)
Các ví dụ trên không có sự tương hợp giữa các thành phần đồng chức.
Câu đúng là : Cây bàng rất cao và thân cây rất to.
Dạng 5: Lỗi về dấu câu
Lỗi không dùng dấu câu
Lỗi không dùng dấu câu là những lỗi sai do không dùng dấu câu
ở những chỗ cần thiết. Thường học sinh mắc lỗi do không sử dụng dấu chấm kết
thúc câu và dấu phẩy ngăn cách thành phần câu. Có những bài viết không có
một dấu câu nào. Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh đã vi phạm
nguyên tắc sử dụng dấu câu. Việc không sử dụng dấu câu gây khó khăn cho
giao tiếp. Người đọc không thể nhanh chóng nắm bắt nội dung các em cần diễn
đạt hoặc không xác định được ý muốn diễn đạt.
Ví dụ: Trong vườn nhà em có rất nhiều cây ăn quả nào là mít
bồng chuối hồng xiêm nhưng em thích nhất là cây ổi.
(Đoàn Hồng Nhung - Lớp 4B).
Cách chữa lỗi này là tách đoạn ra thành từng câu điền dấu chấm, viết hoa
cho đúng. Học sinh thường bỏ không sử dụng dấu phẩy ngăn cách các trạng ngữ
và nòng cốt câu, ngăn cách các vế trong câu ghép đẳng lập, ngăn cách các bộ
phận đồng chức. Khi chữa, ta cần thêm dấu phẩy vào các vị trí cần thiết. Câu
trên được chữa lại như sau: Trong vườn nhà em có rất nhiều cây ăn quả. Nào là
mít, bồng, chuối, hồng xiêm nhưng em thích nhất là cây ổi.
Lỗi sử dụng dấu câu sai
Lỗi sử dụng dấu câu sai là lỗi của những câu đã sử dụng dấu câu khi
không cần thiết hoặc sử dụng lẫn lộn các dấu câu. Nguyên nhân của loại lỗi này
là do học sinh sử dụng dấu câu không hợp lí, không đúng quy tắc: dùng dấu
chấm ngắt câu khi chưa đủ ý; dùng dấu phẩy ngăn cách các thành phần chủ - vị;
ngăn cách động từ với bổ ngữ, dùng dấu hai chấm ngăn cách hai vế câu khi vế
nọ không có ý giải thích cho vế kia. Phổ biến nhất là lỗi các câu được dùng dấu
chấm tùy tiện khi chưa hết ý, cắt đôi câu ra một cách vô lí.

15


Ví dụ: Hôm nay: là một ngày đẹp trời.
(Lê Thùy Trang - Lớp 4C)
Câu đúng là : Hôm nay là một ngày đẹp trời.
Dạng 6: Lỗi ngoài câu
Lỗi câu không phù hợp với câu khác trong văn bản
Ví dụ: Ở góc vườn nhà em có một cây chuối tiêu. Cây cao quá
đầu người. Thân cây chuối nhẵn và tròn. Lá chuối có thể gói bánh, gói giò. Hoa
chuối màu đỏ tía. Bên trong hoa chuối là những quả chuối non bé bằng ngón
tay út của em.
(Nguyễn Quốc Huy - Lớp 4A)
Ở ví dụ trên, câu “Lá chuối có thể gói bánh, gói giò” không ăn nhập với
các câu kề có trong văn bản. Vì những câu kể đó đang tả về đặc điểm của cây
chuối. Cách chữa lỗi này là gạch bỏ những câu lạc chủ đề trong văn bản.
Câu trên được sửa là: Ở góc vườn nhà em có một cây chuối tiêu.
Cây cao quá đầu người. Thân cây chuối nhẵn và tròn. Hoa chuối màu đỏ tía.
Bên trong hoa chuối là những quả chuối non bé bằng ngón tay út của em.
Lỗi câu không phù hợp với phong cách
Ví dụ: Những múi mít chín rất chi là thơm.
(Vũ Khôi Nguyên - Lớp 5B)
Ở ví dụ trên, cụm từ “rất chi là” không phù hợp với phong cách viết văn
của học sinh tiểu học. Tùy từng bài viết cụ thể mà chúng ta có thể bỏ đi hoặc
thay thế bằng cụm từ, câu khác cho phù hợp.
2.4. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện giải pháp, biện pháp này mỗi giáo viên cần xác định vai trò
chủ đạo của mình trong đổi mới phương pháp dạy học, trước hết phải tìm tòi
phương pháp truyền đạt có hiệu quả, kích thích tích tư duy, sáng tạo của học
sinh. Chủ động bồi dưỡng chuyên môn, tìm tài liệu, bài tập phù hợp với nhận

thức của học sinh.
Thường xuyên đánh giá chất lượng viết câu của học sinh và khảo sát định
kỳ vở viết các môn của học sinh để xác định học sinh đang yếu về phần nào. Từ
đó xác định nguyên nhân và có biện pháp khắc phục.
Tăng cường cho học sinh thực hành, luyện tập để củng cố kiến thức mới
và rèn luyện kỹ năng viết văn. Giáo viên tránh nói nhiều và làm thay học sinh,
mà phải tổ chức cho tất cả học sinh cùng làm việc dưới hướng dẫn của mình.
Giáo viên kiểm tra, giúp các em sửa những lỗi sai, động viên các em làm bài
tốt.
2. 5. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Giáo viên cần nghiên cứu, xác định đúng trọng tâm của từng dạng văn để
hướng dẫn các em tìm từ ngữ, hình ảnh để kết hợp viết câu cho đúng
Để có chất lượng giảng dạy cao, giáo viên phải đi sâu nghiên cứu tìm tòi
phương pháp dạy học phù hợp nhất với nội dung từng dạng bài, phù hợp với
từng đối tượng học sinh. Khi đánh giá bài làm của học sinh, theo Thông tư 30 và
thông tư 22 sửa đổi, giáo viên không chỉ đưa ra lời nhận xét đúng hoặc sai, hay
16


hoặc chưa hay mà cần chỉ rõ cho các em thấy các em làm đúng và hay đến mức
độ nào theo chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài và chỉ ra biện pháp giúp em đó
khắc phục.
* Trên đây là một số biện pháp chữa lỗi dùng từ, đặt câu cho học sinh,
nhưng trên thực tế giảng dạy tôi thấy các lỗi về dùng từ của học sinh rất đa dạng
nên việc kết hợp các biện pháp chữa lỗi về dùng từ cho học sinh là rất cần thiết
để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2. 6. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Bằng các phương pháp giảng dạy trên, qua một năm tôi vận dụng vào
thực tế giảng dạy và đề tài đã đem lại kết quả như sau:
* Bản thân có tài liệu phù hợp để áp dụng cách sửa lỗi dùng từ, đặt câu

cho học sinh.
Dựa trên những biện pháp đó, tôi có thể thống kê các lỗi sai cùng thể loại,
để sửa sai cho học sinh.
* Bản thân cảm thấy hứng thú hơn trong giờ dạy.
Trước đây tôi luôn cảm thấy mệt mỏi trước một bộ phận học sinh thường
xuyên mắc các lỗi sai về cách dùng từ đặt câu trong bài tập làm văn viết. Giờ
đây khi áp dụng đề tài này vào giảng dạy tôi đã tổ chức được những hoạt động
phù hợp cho các em học sinh đó. Các em đã hiểu được những quy tắc sử dụng từ
ngữ, cách dùng từ đặt câu phù hợp với ngữ cảnh. Chất lượng học tập của các em
được nâng lên rõ rệt khiến tôi cảm thấy hứng thú hơn khi dạy tập làm văn cho
các em và cũng cảm thấy yêu nghề hơn.
* HS hứng thú, tự tin và lạc quan hơn trong việc học Tập làm văn.
Qua việc biết sử dụng từ ngữ đúng quy tắc, đặt câu phù hợp, viết được
bài văn hoàn chỉnh mà học sinh đã tự tin lên rất nhiều. Các em cảm thấy lạc
quan hơn trong học Tập làm văn, hứng thú hơn trong việc quan sát, mở rộng vốn
từ, một số học sinh đã đạt được mục tiêu học tập, trình độ được nâng lên.Viết
được một bài văn hay sẽ khơi nguồn cảm hứng phấn khởi cho học sinh. Vì vậy
sử dụng Một số biện pháp sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong bài Tập làm văn viết
của học sinh lớp 4 - 5 là việc làm cần thiết giúp HS có được niềm tin trong học
tập, giúp các em đứng dậy đi bằng chính đôi chân của mình trên con đường học
tập.
- Không những thế các em còn có ý thức về việc dùng từ, đặt câu và có
thói quen đọc, kiểm tra lại những điều mình vừa viết ra để điều chỉnh, sửa chữa
cho đúng.
- Từ việc học phân môn Tập làm văn có kết quả tốt kèm theo các môn học
khác như phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu cũng đạt kết quả cao hơn trước.
- Không khí lớp học sôi nổi, sinh động hẳn lên mỗi khi học phân môn Tập
làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
* Chất lượng của HS được nâng lên.
Sau đây là kết quả thi định kì lần 2 của lớp 5A trường TH Định Tân

năm học 2017 - 2018.
17


Kết quả thi định kì lần 2 của lớp 5A trường TH Định Tân năm học 2017 2018.
Thời điểm
kiểm tra

Lớp



Điểm 9-10

Điểm 7- 8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL

TL

SL


TL

SL

TL

5A

Số
29

12

41%

10

35%

6

21%

1

3%

( cuối
kỳ1)


Kết quả học sinh thi định kì lần 3 năm học 2017 - 2018.
Thời điểm
kiểm tra

Lớp



5A

Số
29

( Giữa
kỳ 2)

Điểm 9-10

Điểm 7- 8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL

TL

SL


TL

SL

TL

SL

TL

10

35%

14

48%

5

17%

0

0

So sánh chất lượng khảo sát đầu năm và kết quả thi định kì lần 3 của lớp 5A


số


So sánh chất lượng khảo sát đầu năm và thi định kì lần 3
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
( tỉ lệ %)
( tỉ lệ %)
( tỉ lệ %)
( tỉ lệ %)
Đầu
năm

29

Thi
ĐK
lần 3

7% 35%

So
sánh

Tăng
28%

Đầu
năm


Thi
ĐK
lần 3

38%

48%

So
sánh

Tăng
10%

Đầu
năm

Thi
ĐK
lần 3

24% 17%

So
sánh
Giảm
7%

Đầu
năm


Thi
ĐK
lần
3

24%

0

So
sánh

Giảm
24%

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận:
18


Trong thực tế, khi tạo lập văn bản, không phải học sinh nào cũng có
thể tự phát hiện lỗi và chữa lỗi về câu trong các bài làm văn của mình cũng như
của người khác.Vì vậy giáo viên phải hướng dẫn học sinh cách nhận diện lỗi về
câu, tìm nguyên nhân và từ đó tìm ra cách chữa lỗi khi tạo lập văn bản. Qua tìm
hiểu tình hình chữa lỗi về câu cho học sinh, tôi nhận thấy phần lớn giáo viên
thường chữa lỗi theo kinh nghiệm bản thân mà chưa theo một cách thức, phương
pháp nào cho nên hiệu quả chữa lỗi về câu cho học sinh chưa cao. Từ các biện
pháp chữa lỗi dùng từ, đặt câu nói trên, hi vọng các bạn đồng nghiệp tham khảo
để phục vụ yêu cầu sửa lỗi dùng từ cho học sinh tiểu học đạt kết quả tốt hơn.

Sau một học kì áp dụng sáng kiến kinh nghiệm thành công ở lớp 5A
Trường Tiểu học Định Tân cho thấy đề tài đã thu được một số kết quả nhất định,
học sinh có những chuyển biến rõ rệt. Đồng thời bản thân tôi cũng rút ra được
một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Trước hết người thầy phải luôn có lòng yêu nghề, yêu người, có ý thức
trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụng
những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy.
- Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người giáo viên Tiểu học là phải nắm
vững đối tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, hoàn cảnh và sở thích của
từng em cũng như tâm sinh lý lứa tuổi của các em. Phân loại được học sinh
người thầy mới có thể áp dụng những phương pháp dạy học phù hợp với từng
nhóm đối tượng học sinh, từng cá thể học sinh.
- Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ đồng nghiệp, tham dự
đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn để nắm bắt những thông tin về nội dung,
phương pháp mới của môn Tiếng Việt. Từ đó giáo viên mới có thể lập được kế
hoạch bài học cho mình một cách khoa học.
- Ngoài việc có kiến thức vững vàng, thì người giáo viên phải biết vận dụng
linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh tích cực, sáng tạo trong
hoạt động học, phải có sự chuẩn bị giáo án kĩ càng trước khi lên lớp. Ngoài
những lỗi sai trong bài viết của các em, cần phải áp dụng những lỗi sai khác
nhằm giúp học sinh nắm chắc cách dùng từ đặt câu sau bài học.
- Dạy Tập làm văn theo quan điểm tích hợp kiến thức, kĩ năng giữa bài
trước với bài sau, giữa các phân môn Tiếng Việt với nhau, giữa lớp dưới với lớp
trên.
- Giáo viên cần lắng nghe ý kiến của học sinh, tôn trọng những thắc mắc
của các em, không nên bỏ qua hoặc giải thích một cách áp đặt những thắc mắc
đó. Hãy coi những thắc mắc của học sinh là những tình huống có vấn đề mà khi
giải quyết nó học sinh sẽ được củng cố, khắc sâu thêm bài học.
Tôi mong muốn rằng, đề tài sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc nâng cao
chất lượng dạy và học văn miêu tả ở trong nhà trường tiểu học. Cũng

chính việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp tôi nắm vững kiến thức về phân môn
Tập làm văn và trang bị thêm cho mình những tri thức phong phú, đầy đủ hơn.
Đó là điều kiện để tôi tiếp tục truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách dễ
dàng hơn.
19


Tôi cũng mong rằng, đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học
sinh, giúp các em hệ thống được những lỗi sai cơ bản, nguyên nhân và cách
khắc phục. Từ đó, các em có những lưu ý trong bài viết của mình, giúp các em
bình tĩnh, tự tin hơn khi viết bài.
3.2.Kiến nghị:
* Đối với tổ chuyên môn
- Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn nên đưa ra các sáng kiến kinh
nghiệm, các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học để giáo viên thảo luận, góp
ý, học hỏi lẫn nhau từ đó vận dụng vào giảng dạy cho phù hợp với từng lớp học,
từng đối tượng học sinh.
* Đối với nhà trường
- Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ.
- Trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại để nâng
cao chất lượng dạy học.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân về Một số biện pháp
sửa lỗi dùng từ, đặt câu trong bài tập làm văn viết của học sinh lớp 4-5. Bản
thân tôi luôn vận dụng phương pháp tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao tay nghề,
vận dụng các chuyên đề mới để có một phương pháp dạy học phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Với những tài liệu tham khảo còn hạn chế, tôi đã cố gắng
nghiên cứu hết sức mình. Song với khả năng và kinh nghiệm có hạn, do đó
không tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của
bạn bè, đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của HĐKH trường TH Định Tân

Ngày 28 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác
Người viết

Trịnh Thị Hằng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


1. Diệp Quang Ban (2002), Giáo trình Ngữ pháp Tiếng Việt - tập 2, Nxb
Giáo dục.
2. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (2003), Ngữ pháp Tiếng Việt, Nxb
Giáo dục
3. Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ - tập 2, Nxb
Giáo dục
4. PGS Cao Xuân Hạo (chủ biên 2002), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục,
Nxb Khoa học xã hội.
5. Bùi Văn Huệ (2006), Tâm lí học Tiểu học, NXB Đại Học Sư Phạm.
6. Đỗ Việt Hùng (2008), Sổ tay kiến thức tiếng Việt tiểu học, Nxb Giáo dục
7. Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh (2008), Giải đáp 188 câu hỏi về giảng dạy
môn Tiếng Việt ở Tiểu học, NXB Giáo dục.
8. Lê Phương Nga (1998), Dạy học ngữ pháp ở Tiểu học, Nxb Giáo dục.
9. Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh, Nguyễn Trí (1999), Phương
pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, Nxb Trường ĐHSP Hà Nội

10. Nguyễn Minh Thuyết, Hoàng Hòa Bình (2009), Sổ tay ngữ pháp Tiếng
việt Tiểu học, Nxb Giáo dục
11. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1996), Tiếng việt thực hành,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
12. Bùi Minh Toán, Lê A (2002), Tiếng Việt thực hành, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Trí (2007), Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học (theo
chương trình mới), NXB Giáo dục.
14. Nguyễn Trí (2000), Dạy Tập làm văn ở trường tiểu học, Nxb Giáo dục
15. Bộ giáo dục và đào tạo, Trường ĐHSP Hà Nội 2, Phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học, NXB Đại Học Sư Phạm).

DANH MỤC
21


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Định Tân
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá
(Phòng, Sở,

(A, B,
xếp loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
Xây dựng hệ thống bài tập - Rèn - Phòng GD
-A
kĩ năng nói cho học sinh lớp 1
& ĐT.
trong giờ học Tiếng Việt
- Sở GD &
-B
2005 - 2006
ĐT.
2.
Xây dựng hệ thống bài tập - Rèn
kĩ năng đọccho học sinh lớp 4
Phòng GD
B
2010 - 2011
trong giờ học Tiếng Việt
& ĐT
3.
Xây dựng hệ thống bài tập - Rèn - Phòng GD
-A
kĩ năng nói cho học sinh lớp 2
& ĐT.
trong giờ học Tiếng Việt
- Sở GD &
-B

2011 - 2012
ĐT.
4.
Xây dựng hệ thống bài tập - Rèn
kĩ năng nói cho học sinh lớp 4
Phòng GD
B
2014 - 2015
trong giờ học Tiếng Việt
& ĐT
5.
Một số biện pháp giúp học sinh Phòng Giáo
lớp 3 biết dùng hình ảnh so sánh dục & Đào
B
2016 - 2017
khi học tập làm văn
tạo.

22


23



×