Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình việt nam năm 2014 - 9.5 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.13 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2.

Mục đích nghiên cứu

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.

Phương pháp nghiên cứu

5.

Bố cục bài tiểu luận

NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề lí luận liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn
1. Khái niệm ly hôn
2. Khái niệm căn cứ li hôn
II.
Nội dung của căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm
2014
1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn
2. Căn cứ li hôn trong trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu
III.

Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn và một số kiến nghị



KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Đời sống hôn nhân gia đình luôn là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Hôn
nhân là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Quan hệ hôn nhân tồn tại bền
vững. Điều đó hoàn toàn phù hợp với tính chất, mục đích của hôn nhân và
tâm tư nguyện vọng của những người kết hôn. Tuy nhiên, tính bền vững của
hôn nhân có thể có ngoại lệ. Trong cuộc sống, vợ chồng có thể phát sinh
mâu thuẫn, tranh chấp. Khi mâu thuẫn trở nên căng thẳng không hòa giải
được, tồn tại cuộc sống chung là hình thức thì vợ chồng có quyền chấm dứt
quan hệ hôn nhân bằng một sự kiện pháp lí đó là ly hôn. Ly hôn có thể coi là
điểm cuối của hôn nhân. Ngày nay, tình trang ly hôn ngày càng có xu hướng
tăng cao. Lĩnh vực hôn nhân, gia đình đã được nhà nước ta quan tâm từ rất
lâu thể hiện qua các văn bản luật điều chỉnh lĩnh vực này. Bằng các quy định
về ly hôn, Nhà nước cũng hướng tới bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội
khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hê ̣hôn nhân trước
pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn. Bởi vậy, với mong muốn tìm hiểu rõ
hơn về các căn cứ ly hôn, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu và làm bài tiểu
luận là: “Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2014” để phân tích làm rõ nội dung của vấn đề căn cứ ly hôn, từ đó đưa ra
các kiến nghị hoàn thiện hơn quy định của pháp luật. Đây là một đề tài quan
trọng không chỉ về lí luận mà còn cả thực tiễn.

2. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài này tôi muốn hiểu rõ hơn về những căn cứ, những điều kiện nào

vợ chồng được tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn, thực tế hiện nay đang diễn
biến ra sao để từ đó phân tích, đánh giá, đưa ra kiến nghị để hoàn thiện vấn
đề ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu
về căn cứ ly hôn góp phần giúp tôi hoàn thiện kiến thức về luật Hôn nhân


gia đình để phục vụ cho việc học tập cũng như công việc sau này một cách
tốt hơn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu ở đây là các quy định hiện hành về ly hôn và các căn
cứ ly hôn. Việc nghiên cứu đề tài này chỉ xác định trong phạm vi luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan tới vấn đề
ly hôn.

4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh

5. Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
I. Một số vấn đề lí luận liên quan đến ly hôn và căn cứ ly hôn
II. Nội dung của căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014
III.

Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn và một số kiến nghị

Để giải quyết vấn đề đặt ra không những phải có năng lực và trình độ mà

con phải có kinh nghiệm thực tế. Mặc dù đã cố gắng nỗ lực nghiên cứu đề
tài tiểu luận của mình nhưng do trình độ và kinh nghiệm còn hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng
góp từ thầy cô và các bạn để bài tiểu luận trở nên hoàn thiện nhất.

NỘI DUNG


I.

Một số vấn đề lí luận liên quan đến li hôn và căn cứ li
hôn

1. Ly hôn
Hôn nhân là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, khi cuộc sống
vợ chồng mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã đến mức họ không thể
sống chung với nhau nữa thì li hôn là giải pháp tốt nhất để giải thoát cho cả
hai. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng cũng là mặt không thể thiếu.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, pháp luật của nhà nước ta thừa
nhận quyền tự do ly hôn của vợ chồng. Không ai bị buộc phải kết hôn, cũng
như không ai bị buộc phải duy trì quan hệ vợ chồng khi quan hệ đó thực sự
tan rã. Theo Điều 8 Khoản 8 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
quy định: “8. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng;”.
Theo Điều 3 Khoản 14 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy
định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Nhìn chung, khái niệm ly hôn của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 có sự thay đổi cơ bản so với khái niệm ly hôn
trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, về bản chất, hai điều
luật đó đều phản ánh được ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, quan

hệ hôn nhân, để giúp các bên trong quan hệ hôn nhân được giải thoát khỏi
tình trạng hôn nhân đổ vỡ. Khái niệm ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 mang tính chất chặt chẽ hơn khi đề cập tới nội dung: “bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Thông qua đó để phản ánh tính
quyền lực của nhà nước, cũng như phản ánh bản chất của ly hôn nói riêng là
mang tính chất giai cấp. Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử,
có vai trò quan trọng trong việc đóng góp phần tuân thủ, chấp hành các quy


định của pháp luật. phán quyết ly hôn của Tòa án thể hiện dưới hình thức:
bản án, quyết định. Nếu hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn, giải quyết với
nhau được tất cả các nội dung sau khi ly hôn thì Tòa án công nhận ly hôn và
ra quyết định dưới hình thức quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Nếu vợ
chồng mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án xét xử và ra phán quyết ly hôn dưới
dạng bản án. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã
thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các
thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của việc
ly hôn, thì ly hôn có nhiều điểm tiêu cực: gây chia rẽ quan hệ gia đình, gây
ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và tương lai của các thành viên, đặc biệt là
các con, bên cạnh đó còn ảnh hưởng tới xã hội.
Như vậy, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi hai người còn sống
do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu hoặc hai bên vợ chông thuận tình, được
tòa án công nhận bằng bản án ly hôn hay bằng quyết định công nhận thuận
tình ly hôn.
2. Căn cứ li hôn
C. Mác đã viết: “ Ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân
này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối.
Đương nhiên không phải là sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải là
sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định
được là một cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì, như mọi người

đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tùy thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ
không phải là nguyện vọng của bên hữu quan… Nhà lập pháp chỉ có thể xác
định những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó
về thực chất, hôn nhân tự nó đã bị pháp hủy rồi. Việc tòa án cho phép phá bỏ


hôn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan rã của bên trong nó.” Từ đó
cho thấy, pháp luật phải quy định rõ những chuẩn mực để dựa vào đó tòa án
có thể đánh giá thực chất mối quan hệ vợ chồng và đưa ra quyết định ly hôn
đúng đắn. Quyết định ly hôn của tòa án, một mặt phải đảm bảo lợi ích vợ
chồng, mặt khác phải đảm bảo lợi ích con cái, của các thành viện trong gia
đình và lợi ích xã hội. Những chuẩn mực pháp lý đó gọi là căn cứ ly hôn.
Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay điều kiện được pháp luật quy
định để khi có những tình tiết hay điều kiện đó thì Tòa án chấp nhận yêu cầu
ly hôn của vợ chồng.
Căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do Nhà nước phong kiến,
tư bản đặt ra. Pháp luật của nhà nước phong kiến, tư sản quy định có thể cấm
ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng
được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế
quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ
chồng; và thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng
hay của cả hai vợ chồng (các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh
nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan
vỡ). Ngược lại, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền
tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những
điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện
của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện
quyền ly hôn của mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn
nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và

các thành viên trong gia đình.


II.

Nội dung của căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân gia đình
năm 2014

1. Căn cứ li hôn khi thuận tình ly hôn
Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong
trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của
vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận
được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ
và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”.
Vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi
yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn
nhân. Vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn là xuất phát tự nguyện vọng của chính
vợ và chồng mà không bên nào bị cưỡng ép lừa dối. Đồng thời vợ chồng tự
nguyện phải trên cơ sở họ thật sự chấm dứt quan hệ hôn nhân cả về mặt
pháp lý và trên thực tế. Nếu vợ chồng tự nguyện ly hôn nhưng chỉ là để
chấm dứt hôn nhân về mặt pháp lý nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản vi phạm
chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không
nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng trên thực tế thì là ly hôn giả và tòa án
không thể công nhận thuận tình ly hôn cho họ. Trong trường hợp vợ chồng
cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải, mục đích là
để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ với nhau. Việc cho ly hôn
trong trường hợp thuận tình này đối với Tòa án là không phải dễ, bởi vì khó
có thể định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố thỏa thuận tự nguyện thật sự của

hai vợ chồng nếu không xem xét đến các yếu tố tình trạng mâu thuẫn vợ
chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào


và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con sau khi ly hôn. Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp
trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hôn cũng là do
tình cảm của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa
vụ của mình với gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ
của vợ hoặc chồng mình nên đã quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ
được ly hôn. Nhưng khi có sự giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ
của họ của người làm công tác hòa giải để khuyên họ nên bỏ qua những lầm
lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và
quay lại đoàn tụ chung sống với nhau và Tòa án cũng không phải giải quyết
về các vấn đề kéo theo như con và tài sản. Nhưng nếu không hòa giải được
thì, các bên thực sự tự nguyện ly hôn nhưng không thoả thuận được về việc
chia tài sản hoặc việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ không thành và về những vấn
đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời mở phiên Toà xét xử theo thủ
tục chung.
2. Căn cứ ly hôn theo yêu cầu của một bên
Theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn
theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo
lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm
cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.



2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51
của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng,
vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên, Tòa án cần dựa theo ba căn
cứ sau:
 Khi vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì Tòa án chấp nhận hay
bác bỏ yêu cầu ly hôn phải xem xét tình trạng quan hệ vợ chồng và nguyên
nhân dẫn đến tình trạng đó. Mỗi cặp vợ chồng biểu hiện mâu thuẫn, xung
đột bất hòa khác nhau nên thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau mà
không có một khuôn mẫu để đánh giá. Nếu chỉ nhìn vào hành vi, thái độ của
vợ chồng thì chưa thể đánh giá được thực chất của quan hệ vợ chồng mà còn
phân tích trên trạng thái tâm lí, tình cảm của vợ chồng. Có trường hợp vợ
chồng đánh, cãi, chửi nhau nhưng tình trạng có thể chưa trầm trọng. Ngược
lại, có trường hợp vợ chồng không đánh, chửi, cãi nhau mà chỉ lạnh nhạt, coi
thường, thờ ơ, bỏ mặc.. trong một thời gian dài thì tình trạng cũng trở nên
trầm trọng. Vì vậy, để đánh giá vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được phải trên cơ sở
nhận định rằng: Vợ chồng không còn yêu thương nhau, những mâu thuẫn


giữa vợ và chồng sâu sắc đến mức không thể hòa giải được; quan hệ vợ
chồng rạn nứt không thể hàn gắn được; việc vợ chồng tiếp tục chung sống là

bất hạnh của vợ chồng, ảnh hưởng xấu tới những thành viên trong gia đình,
đặc biệt là tới sự chăm sóc con cái; sự tồn tại quan hệ hôn nhân đó không thể
xây dựng được một gia đình ấm no, hạnh phúc. Về hành vi bạo lực gia đình,
theo Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 có 9 hành vi. Khi vợ hoặc
chồng có một trong số các hành vi đó làm cho cuộc sống chung không thể
tiếp tục mà một bên yêu cầu ly hôn thì Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của
họ. Chẳng hạn, chồng thường xuyên đánh con khiến vợ vì thương con mà bị
căng thẳng, áp lực, khiến cho mâu thuẫn vợ chồng phát sinh…Hiện nay, tình
trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm
trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều lý do khác
nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật chất quá khó khăn. Có trường hợp do
ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã đánh đập nhau. Tệ cờ bạc,
nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập, ngược đãi
nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hôn, có
trường hợp dẫn đến án mạng. Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác,
những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng... là lý do để
ly hôn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn.
Bên cạnh việc xác định có hành vi bạo lực gia đình, nếu vợ hoặc chồng có
hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được thì tòa án cũng giải quyết li hôn. Vợ hoặc
chồng có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vự của vợ chồng là


những trường hợp một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, làm
cho bên kia lâm vào tình trạng rất xấu, trầm trọng, có nguy cơ dẫn đến
những hậu quả tai hại về sức khỏe, tính mạng, tinh thần. Chẳng hạn, một bên
vi phạm nghĩa vụ chung thủy khiên bên kia quá đau buồn không tìm được

cách giải quyết nên có ý định tự tử; một bên thờ ơ bỏ mặc, không quan tâm,
chăm sóc khiến cho bên kia có cảm giác bị bỏ rơi nên bị u uất, trầm cảm…
Hành vi bạo lực gia đình và hành vi vi phạm nghiêm trong quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng thường có mối liên hệ với nhau. Bạo lực gia đình có thể
dẫn đến vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng.
 Vợ chồng có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của vợ chồng, vợ bị tâm thần hoặc
các bệnh khác dẫn đến không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
của mình.
Theo đó, theo quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình thì có thể xin ly
hôn thay cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do xin ly hôn,
trong đó bạo lực gia đình là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc người vợ
có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn. Cụ thể tại Khoản 2, Điều 51 trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau: 2. Cha, mẹ,
người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên
vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình
do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của họ.
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu tòa
án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người


thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên
vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình
do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
khỏe, tinh thần của họ.
Khi áp dụng căn cứ ly hôn này để giải quyết yêu cầu ly hôn thì Tòa án cần
làm sáng tỏ hai vấn đề. Thứ nhất, là bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần

hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra. Thứ hai,
là hành vi bạo lực gia đình đó dẫn đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của vợ,
chồng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cơ sở để xác định vợ, chồng bị tâm thần
hoặc các bệnh khác không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình là
kết luận của tổ chức giám định về tâm thần. Trên cơ sở kết luận của cơ quan
chuyên môn, Tòa án xác định quyền yêu cầu ly hôn của cha, mẹ, người thân
thích. Điều này là cần thiết nhằm ngăn chặn trường hợp cha, mẹ, người thân
thích của một bên lạm dụng quyền yêu cầu ly hôn, xâm phạm quyền của vợ
chồng. Đồng thời, người bị tâm thần hoặc các bệnh khác không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình phải là nạn nhân của bạo lực gia đình
do chồng hoặc vợ của họ gây ra. Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường
hợp mong muốn xin ly hôn thay cho người thân bị mất năng lực hành vi mà
không được do trước đây chỉ quy định việc ly hôn phải do chính đương sự
(vợ, chồng) yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn. Chính điều này đã
dẫn tới thực trạng có rất nhiều trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hôn
nhưng lại Tòa án không thể tiến hành giải quyết được, có nhiều vụ việc kéo


dài trong rất nhiều năm với nguyên nhân duy nhất là do người vợ hoặc
chồng bị mất năng lực hành vi dân sự.
 Vợ chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích
Theo quy định tại Điều 68 BLDS năm 2015: “Khi một người biệt tích 2
năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm
kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức
xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người
có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích….”
Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về
căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong hai

người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa
án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”.
Khi vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích thì quyết định tuyên bố mất
tích của Tòa án được coi là căn cứ đề giải quyết ly hôn nếu người chồng
hoặc vợ của người bị tuyên bố mất tích yêu cầu được ly hôn. Quy định này
dựa trên lí luận về hôn nhân: Hôn nhân là sự liên kết giữa vợ chồng, mục
đích là để vợ chồng chung sống và cùng nhau xây dựng gia đình. Khi một
bên mất tích, mục đích của hôn nhân không đạt được, ly hôn là bảo đảm
quyền cho bên kia. Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thể có liên
quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả pháp lí của các tuyên bố này
là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng thời góp phần thực hiện có
hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất tích.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh
hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần


phải giải phóng chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu
cầu được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị tòa án tuyên bố mất tích.

III. Thực tiễn áp dụng căn cứ li hôn và một số kiến nghị
1. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn
Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, hàng năm, số vụ án hôn nhân và
gia đình liên tục tăng, trong đó có án ly hôn. Để giải quyết các vụ án ly hôn
một cách thấu tình đạt lý, thì một trong những vấn đề đầu tiên và được xem
như “mắt xích” không thể thiếu khi giải quyết đó là xác định căn cứ cho ly
hôn. Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc giải
quyết các vụ án hôn nhân và gia đình nói chung và vụ án ly hôn nói riêng,
thì việc áp dụng các căn cứ ly hôn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Mặc dù đã
có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng về vấn đề này nhưng còn mang tính

chung chung, thiếu cụ thể, chi tiết. Nội dung căn cứ ly hôn chưa được định
lượng nên nhận định của thẩm phán khi giải quyết vụ việc chưa thống nhất,
đồng bộ. Trong một số trường hợp, có sự nhầm lẫn giữa căn cứ ly hôn với
nguyên nhân ly hôn và động cơ ly hôn, dẫn đến không bảo đảm quyền lợi
của vợ chồng, gia đình và xã hội. Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi
có các điều kiện đó thì Tòa án mới có thể giải quyết ly hôn. Trong việc đánh
giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu
của vợ hoặc chồng hiện nay còn nhiều bất cập. Thực tiễn có những trường
hợp cùng một vụ việc nhưng có nhiều cách lý giải khác nhau khi áp dụng
pháp luật. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy
định ly thân là căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, các Tòa
án thường đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn.
Ví dụ: Chị T và anh M không còn sống chung từ tháng 6/2009 cho đến nay.
Trong khoảng thời gian này, hai vợ chồng không thể đoàn tụ được. Chị T và


anh M cũng không còn quan tâm và trách nhiệm với nhau. Tại phiên tòa
giải quyết ly hôn, chị T vẫn yêu cầu được ly hôn. Trong vụ án này, chị T và
anh M đã có thời gian ly thân dài, không quan tâm và trách nhiệm với nhau,
không cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tòa án đã mở phiên hòa
giải tạo điều kiện cho vợ chồng anh chị có giải pháp đoàn tụ, nhưng anh M
vắng mặt. Xét thấy mâu thuẫn gia đình trầm trọng nên Tòa án giải quyết
theo hướng cho ly hôn.
Vấn đề này không được luật quy định nên đã gây khó khăn trong cả việc xác
định vợ, chồng nào đó có trong tình trạng ly thân hay không. Mặt khác,
không xác định được thời gian ly thân, nên việc giải quyết án ly hôn thường
phải kéo dài khiến cho nhiều đương sự gặp khó khăn trong việc xây dựng
cuộc sống mới. Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa quy
định căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt
tù. Vì vậy, trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang

chấp hành án phạt tù thì không đủ cơ sở giải quyết cho ly hôn. Điều này đã
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho
ly hôn.
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn
Thứ nhất, cần lượng hóa nội dung tiêu chí về căn cứ ly hôn theo quy định tại
khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Ngoại tình là một trong những hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thủy giữa vợ
chồng, là hành vi trái với đạo đức xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định: Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng
mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.


Trước đây, theo Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa quy định trường hợp ngoại tình và một bên bỏ nhà đi
quá hai năm không có duyên cớ chính đáng là một trong những căn cứ để
Tòa án cho ly hôn.
Do đó, cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng có
hành vi ngoại tình vào Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình,
cụ thể như sau:
“Trường hợp một bên vợ hoặc chồng có hành vi ngoại tình lặp đi lặp lại
nhiều lần hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà vẫn tiếp
tục vi phạm hoặc có văn bản của cơ quan điều tra là có dấu hiệu tội phạm
(tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng) nhưng chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự. Hành vi ngoại tình của vợ hoặc chồng gây ra hậu quả nghiêm
trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe,
tinh thần của bên còn lại, làm cho gia đình tan vỡ. Trường hợp vợ hoặc
chồng có hành vi ngoại tình và bỏ nhà đi quá hai năm mà không có tin tức,
không có trách nhiệm với gia đình, không cùng nhau xây dựng mục đích hôn

nhân làm cho quan hệ vợ chồng rạn nứt”.
Thứ hai, cụ thể hóa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly
hôn
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly
hôn khi vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình, cụ thể như sau:
“Trong trường hợp chồng hoặc vợ có hành vi bạo lực gia đình thì vợ hoặc
chồng được Tòa án giải quyết cho ly hôn khi có căn cứ sau:


Đối với hành vi bạo lực vật chất: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập, ngược
đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về mặt tình
cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích, tổn hại
đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc đã bị xử phạt vi phạm
hành chính.
Đối với bạo lực tinh thần: Vợ, chồng bị chửi bới, sỉ nhục, xâm phạm danh
dự, nhân phẩm và uy tín.
Hành vi bạo lực của vợ, chồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được chính
quyền địa phương nhắc nhở hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có
văn bản của cơ quan điều tra có dấu hiệu tội phạm (tội ngược đãi vợ; tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội bức tử)
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam cần công nhận ly thân và xem ly thân là một
trong những căn cứ để cho ly hôn
Căn cứ ly hôn do ly thân: “Trong trường hợp vợ chồng đã sống ly thân hơn 3
năm mà vẫn không thể quay về với nhau để chung sống hạnh phúc hoặc
sống ly thân hơn 3 năm theo quyết định của Tòa án thì Tòa án giải quyết cho
ly hôn mà không phải xem xét, đánh giá thực trạng quan hệ vợ chồng và các
bên không phải chứng minh tình trạng trầm trọng của hôn nhân”.
Thứ tư, cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và
đang chấp hành án phạt tù

Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và đang
chấp hành án phạt tù, cụ thể như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của


người đang chấp hành án phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly
hôn”.
KẾT LUẬN
Tóm lại, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đang là
một chủ đề nhận được rất nhiều sự quan tâm từ dư luận xã hội. Các căn cứ ly
hôn này đã góp phần giải quyết tốt nhiều án ly hôn, giải phóng cho nhiều
cuộc hôn nhân thoát khỏi những bế tắc. Để từ đó, ly hôn không chỉ đơn
thuần là làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố
những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể
có và vững chắc trong một xã hội văn minh.
DANH MỤC VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Bộ luật Dân sự năm 2015
3. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật Hôn nhân và gia
đình. NXB. Chính trị quốc gia, 2015.
4.
5.



×