Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kinh nghiệm ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi môn địa lí 9, trường THCS hoằng hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.89 KB, 17 trang )

MỤC LỤC:
Trang
1. Mở đầu............................................................................................................2
1.1 Lí do chọn đề tài ...........................................................................................2
1.2 Mục đích nghiên cứu.................................................................................... 3
1.3 Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 3
1.4 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm ................................................................... 3
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...................................................... 3
2.2 Thực trang vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm....................... 4
2.3 Các giải pháp và tổ chức thực hiện .............................................................. 5
2.3.1 Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi........... 5
2.3.2 Rèn luyện kiến thức và kĩ năng..................................................................
5
2.4 Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm ................................................................
14
3. Kết luận và kiến nghị ....................................................................................14
3.1 Kết luận....................................................................................................... 14
3.2 Kiến nghị ....................................................................................................
15


1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước, với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp, hội nhập với quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi CNH-HĐH và hội
nhập quốc tế là nguồn lực con người, phát triển cả về số lượng và chất lượng,
trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Việc này bắt đầu từ giáo dục phổ
thông mà trước hết bắt đầu từ mục tiêu đào tạo của ngành là giáo dục học sinh
trở thành những con người phát triển toàn diện: có phẩm chất năng lực, có tri


thức và kỹ năng, có khả năng chiếm lĩnh tri thức mới một cách độc lập sáng
tạo. Để thực hiện tốt những yêu cầu trên những người làm công tác giáo dục
ngoài việc trang bị cho học sinh kiến thức kỹ năng cơ bản, thì việc bồi dưỡng
học sinh mũi nhọn cũng rất quan trọng nhằm phát hiện bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. Xong để có được sản phẩm học sinh giỏi ở các môn nói chung và
môn Địa Lí nói riêng, người giáo viên phải dày công nghiên cứu, trang bị cho
học sinh về phương pháp học tập, về kiến thức kỹ năng tốt nhất phù hợp với
từng đối tượng học sinh và từng địa phương. Môn Địa lí là một môn học ít
được học sinh yêu thích, nên việc tuyển chọn học sinh vào đội tuyển học sinh
giỏi môn Địa lí là hết sức khó khăn. Thông thường những em học sinh giỏi môn
Địa lí là học sinh giỏi toàn diện, hoặc giỏi về khoa học tự nhiên, do đó các em
không mấy hứng thú khi được chọn môn Địa lí để dự thi. Bên cạnh đó nhiều
phụ huynh học sinh cho rằng đây là môn phụ nên ít khi được quan tâm, hoặc
khí thấy con em mình đầu tư vào môn Địa lí cũng lấy làm khó chịu và thậm chí
tỏ thái độ không đồng tình. Thực tế môn Địa lí ít được nhiều người chú ý
nhưng đây lại là một môn học tương đối khó, để dạy tốt và học tốt môn Địa lí ở
trường phổ thông là một việc khó, thì việc phát hiện và dạy học sinh giỏi môn
Địa lí lại càng khó hơn gấp bội, đòi hỏi cả thầy và trò phải có một phương pháp
dạy và học tập đúng đắn, kết hợp với lòng nhiệt tâm cao thì mới đạt kết quả
cao. Học sinh giỏi môn Địa lí không giống như học sinh giỏi của các môn học
khác, học sinh giỏi môn Địa lí lại càng không phải là giỏi thuộc các bài Địa lí là
được mà các em phải có kiến thức các bộ môn khoa học tự nhiên như; Toán, Lí,
Hóa, Sinh. Bởi vì kĩ năng Địa lí cần phải có sự hỗ trợ của các môn học này.
Đặc biệt là bộ môn Toán học.
Đối với học môn Địa Lí số học sinh tham gia thi hầu hết là các học sinh
có năng lực học tập chưa cao như các môn khác hoặc các em bị loại từ các đội
tuyển khác, độ thông minh thấp, thậm chí ý thức học tập chưa cao, kỹ năng tính
toán yếu. Trong những năm đầu bồi dưỡng học sinh giỏi do chưa có kinh

2



nghiệm trong công tác bồi dưỡng nên kết quả đạt được không cao. Nhưng vào
những năm sau với sự tin tưởng của BGH nhà trường tôi vẫn được phân công
làm nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn địa lý Trường THCS Hoằng Hợp
và tôi đã đã đạt được những kết quả tốt hơn. Vì thế tôi xin chia sẻ “Một số kinh
nghiệm ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí 9 ở trường THCS Hoằng
Hợp” của mình với các bậc chuyên môn và đồng nghiệp; để góp một phần nhỏ
bé của mình vào công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lí ở các trường
THCS trong huyện Hoằng Hóa. Rất mong được sự góp ý chân thành của các
quý vị.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí lớp 9.
Qua đó đánh giá được thực trạng của việc giảng dạy, mức độ lĩnh hội kiến thức
của học sinh, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Những phương pháp giảng dạy, học tập của thầy và trò trong nhà trường
THCS Hoằng Hợp qua môn Địa lí.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng tổng hợp các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa,
điều tra thực tế, so sánh… để thực hiện những nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 trong những năm
học qua tôi nhận thấy rằng vấn đề quan trọng là người giáo viên bồi dưỡng cần
có một quan niệm đúng về học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý
nói riêng. Bên cạnh đó, cần trả lời cho câu hỏi: “Việc bồi dưỡng học sinh giỏi
nhằm mục tiêu gì?” để từ đó người giáo viên bồi dưỡng lựa chọn nội dung,
chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho thích hợp và đạt hiệu quả cao

nhất.
Một số suy nghĩ cho rằng: Học sinh giỏi môn Địa lý chỉ cần học thuộc là
chưa đủ, chưa chính xác. Vì: “Địa lý là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu
phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lý không chỉ phân bố trên bề mặt đất
mà cả trong không gian và trong lòng đất. Hơn nữa, các hiện tượng ấy ở đâu và
bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một cách độc lập nhưng lại luôn có
quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, người dạy và học Địa lý cần có phương
pháp tư duy, phân tích, xét đoán các hiện tượng địa lý theo quan điểm hệ
thống”.
Với quan niệm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lý là
những học sinh phải nắm được những kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận
dụng được những hiểu biết; những kỹ năng địa lý để giải quyết những nội dung

3


cơ bản theo yêu cầu của đề bài, của thực tiễn cuộc sống và học sinh giỏi môn
Địa lý là những học sinh có năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng tốt nhất những
kiến thức, kỹ năng chắc chắn về địa lý.
Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, mặc dù có nhiều mục tiêu khác
nhau tùy theo quan niệm của mỗi giáo viên, và tùy theo môn học nhưng dù
quan niệm như thế nào chung quy lại có những điểm tương đồng:
- Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói
riêng nhằm phát triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của
học sinh.
- Bồi dưỡng sự lao động và hợp tác làm việc một cách sáng tạo.
- Phát triển các phương pháp, kỹ năng và thái độ tự học một cách nghiêm
túc. khoa học.
- Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.

- Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua nhiều năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý, bản thân
nhận thấy chất lượng giải của môn địa lí cấp huyện chưa cao và chưa ổn định.
- Trong thực tế, đầu vào của các đội tuyển môn địa lí 9 chất lượng không
cao; phải lựa chọn sau cùng, và phải khéo động viên các em thì mới có đội
tuyển dự thi môn địa lí. Mặc dù, đội tuyển có thể được lựa chọn từ lớp 8. Song,
kiến thức thi chủ yếu tập trung ở lớp 9. Đó là: Địa lí dân cư, địa lí kinh tế chung
và địa lí vùng kinh tế Việt Nam. Như vậy, cũng khá độc lập về kiến thức so với
địa lí tự nhiên các châu lục, các khu vực và tự nhiên Việt Nam; đồng thời kĩ
năng về vẽ và phân tích biểu đồ cũng phức tạp hơn rất nhiều. Vì vậy, việc ôn
luyện địa lí cho các em trong đội tuyển cũng gặp rất nhiều khó khăn; cho nên,
đa phần đều phải ôn luyện theo cách học thuộc theo bài, làm nhiều đề theo cấu
trúc của đề thi học sinh giỏi các năm đã từng thi…
- Khảo sát tình hình một số năm tôi thấy chất lượng đội tuyển HSG Địa lí
của trường chưa cao.
Kết quả học sinh giỏi cấp Huyện môn Địa lí khi chưa áp dụng SKKN
(Trường THCS Hoằng Hợp)
Năm học
Số học sinh Giải cấp huyện Giải cấp Xếp thứ đồng đội
dự thi
tỉnh
cấp huyện
2014 - 2015
04
01KK
0
25
2015- 2016
05

02 KK
0
20
- Nguyên nhân:
+ Các em bị thiếu hụt về kiến thức và kĩ năng học tập, ôn luyện cũng như
sự cọ sát va chạm trong thi cử .Về cơ bản các em chỉ nhớ hoặc thuộc theo sách

4


và đáp án mà thầy cô cung cấp; các em thường không hiểu sâu về bản chất
cũng như chưa biết cách phân tích kiến thức địa lí một cách khoa học.
+ Giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác ôn luyện đội
tuyển.
+ Phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức, chưa tạo điều kiện cho
các em tham gia đội tuyển
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện:
2.3.1. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi:
- Kế hoạch về thời gian ôn luyện đội tuyển: Chọn đội tuyển từ cuối năm
lớp 8, đầu năm học lớp 9 là bắt đầu ôn luyện.
- Soạn nội dung dạy học theo chuyên đề, nghiên cứu kĩ kiến thức cơ bản
ở sách giáo khoa địa lí THCS hiện hành và tài liệu tham khảo khác. Tùy theo
từng đối tượng học sinh từng năm để soạn và ôn luyện (bám sát cấu trúc đề để
soạn nội dung phù hợp).
- Giúp các em xây dựng kế hoạch học và ôn luyện ở nhà sao cho khoa
học với tinh thần thoải mái nhất. Thường thì với thời gian khoảng một tiếng
rưỡi vào buổi sáng sớm; với thời gian trên sẽ giúp các em học, nhớ và hiểu bài
hiệu quả nhất.
- Động viên khuyến khích các em trong quá trình dạy học; và cùng các

em xây dựng chỉ tiêu phấn đấu đạt giải cho từng cá nhân, theo năng lực học tập
ngày càng tiến bộ của từng em một.
2.3.2. Rèn luyện kiến thức và kĩ năng:
a, Nhớ kiến thức một cách lôgic.
- Trong môn học Địa lí một trong những yếu điểm của học sinh là tư duy
không tốt do thiếu những kiến thức cần thiết, trong đó đặc biệt là các khái niệm
địa lí, nắm được các kiến thức cơ bản là cơ sở cho tư duy tốt hơn tạo điều
kiện để nắm các kiến thức mới tốt hơn. Kiến thức mới lại giúp cho tư duy nhận
thức được những kiến thức khác mới hơn.
- Nắm chắc kiến thức là điều cần thiết, nhớ lâu bền kiến thức địa lí và có
thể vận dụng được vào trong các trường hợp cụ thể, để nhớ lâu bền cần phải có
trí nhớ lôgic. Muốn ghi nhớ lôgic trong quá trình ghi nhớ phải hiểu và vận
dụng được các quy luật của trí nhớ.
- Theo quan niệm trí nhớ là hoạt động phản xạ có điều kiện, phản xạ này
phải được lặp đi, lặp lại nhiều lần, do vậy trong quá trình ghi nhớ kiến thức
phải cho học sinh ôn tập thường xuyên. Sau một số bài, một số chương hay
chuyên đề cần có sự ôn tập lại để tăng cường trí nhớ.
- Muốn nhớ lâu phải tạo được ấn tượng mạnh, một kiến thức hay một sự
kiện nào đó trong khi được giải quyết cần phải tạo được ấn tượng mạnh dù đó
là chuẩn xác hay sai lầm, học sinh sẽ nhận biết được. Sai thì sẽ tránh được,

5


đúng thì nhớ lâu bền, do vậy khi giảng dạy cần tạo được ấn tượng mạnh
trong mỗi đơn vị kiến thức cần đạt.
- Hứng thú học tập của học sinh được tạo lên từ sự nhớ lâu, nếu học sinh
đam mê với việc học tập thì sẽ tạo ra hứng thú, điều này giúp học sinh quan
tâm nhiều hơn đến các đơn vị kiến thức cần đạt, hứng thú có thể ví như
chất men kích thích việc học tập của học sinh.

-Tập trung chú ý sẽ làm tăng trí nhớ, trong quá trình học tập học
sinh phải tập trung tối đa vào việc học (nghe giảng, trao đổi, thảo luận..) học
xong mới tập trung vào việc khác.
b, Rèn luyện kĩ năng tư duy1
Quan niệm tư duy được biểu hiện bằng các thao tác như phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Để đánh giá một học sinh có tư
duy tốt hay không tốt thường dựa vào đánh giá khả năng của các thao tác tư
duy, do vậy rèn luyện tư duy là rèn luyện các thao tác của nó.
- Rèn luyện tư duy một cách thông dụng nhất là dựa vào việc học sinh tự
trả lời các câu hỏi và thực hiện làm các bài tập ở sách giáo khoa, sách bài tập…
các câu hỏi dạng phân tích sẽ giúp cho tư duy phát triển tốt
- Trong học tập địa lí hiện nay các tư duy cần được rèn luyện là:
+ Câu hỏi dạng phân tích: Các câu hỏi này nhằm gợi ý tách riêng từng
phần của sự vật và hiện tượng địa lí.
Ví dụ 1: Phân tích khả năng để đồng bằng sông Cửu Long trở thành
vùng sản xuất lương thực lớn nhất của cả nước. [2]
+ Câu hỏi dạng tổng hợp: Các câu hỏi này nhằm làm cho học sinh xác
lập được tính thống nhất và mối liên hệ giữa các thuộc tính và sự vật, câu hỏi
tổng hợp không phải là tổng cộng đơn thuần các bộ phận của sự vật, sự
tổng hợp đúng sẽ là một hoạt động tư duy mang lại kết quả mới nhất về chất,
Ví dụ 2: Chứng minh rằng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung
tâm công nghiệp lớn nhất và đa dang nhất cả nước. [3]
Phân tích và tổng hợp thường đi liền với nhau không thể tách rời nhau,
luôn đi kèm với nhau, đôi lúc loại câu hỏi này có thành phần của loại câu hỏi
kia.
+ Câu hỏi dạng so sánh, liên hệ: Các câu hỏi này nhằm liên hệ các sự vật
hiện tượng địa lí lại với nhau trong một mối quan hệ.
Ví dụ 3: Hai vùng trồng cây công nghiệp Trung du và Miền núi Bắc Bộ
với Tây Nguyên giống nhau và khác nhau như thế nào? [2]
+ Câu hỏi nguyên nhân- kết quả: Các câu hỏi dạng này nêu lên mối

liên hệ nhân, quả trong nhũng dạng liên hệ có tính chất phổ biến trong bài
Trong mục b: Ví dụ 1; 3; 6 được tham khảo từ TLTK số 2. Ví dụ 2;4 được tham khảo từ
TLTK số 3; Ví dụ 5 được tham khảo từ TLTK số 4.
1

6


học.
Vi dụ 4: Tại sao ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm trở
thành ngành công nghiệp trọng điểm của nước ta? [3]
Ví dụ 5: Giải thích tại sao Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai
trung tâm dịch vụ lớn và đa dạng nhất nước ta? [4]
+ Câu hỏi khái quát hóa: Đây là dạng câu hỏi dùng để khái quát hóa các
kiến thức cụ thể, nêu lên những cái chính, cái chủ chốt hay chủ yếu, căn bản
thường dùng vào cuối chương, cuối bài.
Ví dụ 6: Hãy nêu những thế mạnh và hạn chế của Vùng Đồng bằng sông
Hồng trong phát triển kinh tế xã hội? [2]
Trong thực tế khi đã có tư duy tốt thì học sinh sẽ vận dụng chúng
một cách linh hoạt vào trả lời các câu hỏi đạt kết quả cao. Câu hỏi thi không
bao giờ được nêu ra dưới dạng đơn thuần nó đòi hỏi học sinh phải biết vận
dụng các thao tác tư duy để trả lời dựa trên cơ sở các kiến thức đã được học.
c, Rèn luyện kĩ năng địa lí:
Để rèn được các kĩ năng địa lí học sinh phải được thường xuyên
luyện tập, bởi vì các kĩ năng này do hoạt động thường xuyên mà có, thông qua
các bài học, đơn vị kiến thức làm việc với bản đồ, Atlat, bảng số liệu thống kê,
tính toán.. Thường thì ở Môn địa lí 9 THCS có một số kĩ năng địa lí sau:
* Kĩ năng làm việc với bản đồ, át lát Địa lí Việt Nam2
- Đây là kĩ năng cơ bản của môn học, nếu không nắm vững kĩ năng
này thì khó có thể hiểu và giải thích được các sự vật hiện tượng, tự mình

cũng khó tìm tòi các kiến thức địa lí khác. Do tính chất cơ bản của kĩ năng này
nên trong nhiều năm đề thi học sinh giỏi huyện, tỉnh đều thực hiện trên cơ
sở đó và chủ yếu thông qua Át lát Địa lí Việt Nam. Do vậy việc rèn luyện kĩ
năng về bản đồ không thể thiếu trong học địa lý.
- Thông thường khi làm việc với bản đồ học sinh phải:
+ Hiểu hệ thống kí hiệu, ước hiệu trên bản đồ
+ Nhận biết, chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ
+ Biết đặc điểm, vị trí, sự phân bố các đối tượng địa lí trong không
gian và mô tả được đặc điểm của các đối tượng đó
- Muốn đọc được bản đồ phải có kiến thức địa lí, nếu không có kiến thức
thì không thể đọc được bản đồ, Ví dụ muốn phân tích được tại sao Hà Nội và
vùng phụ cận lại có công nghiệp tập trung ở mức độ cao, thì ngoài quan sát bản
đồ phải có các kiến thức liên quan về xã hội, tự nhiên…
Trong các đề thi học sinh giỏi thường các em luôn thấy dạng câu hỏi có
dựa vào Át lát, ví như: Dựa vào Át lát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học em
hãy:….. Với những câu hỏi loại này học sinh phải dựa vào cả hai cơ sở là kiến
thức đã học và Át lát, việc tách rời hoặc không đảm bảo hai cơ sở sẽ dẫn đến
2

Trong mục c Ví dụ 1 được tham khảo từ TLTK số 1

7


bỏ sót kiến thức kể cả Át lát và kiến thức đã học.
Ví dụ 1: Dựa vào kiến thức đã học và Át lát Địa lí Việt Nam hãy: Cho
biết sự phân bố cây công nghiệp và cây lương thực? Giải thích sự phân bố đó?
[1] Những kiến thức học sinh có thể khai thác được một cách đơn giản nhất là
quan sát để nhận xét:
+ Ngành trồng trọt nước ta có cơ cấu cây trồng đa dạng gồm cây công

nghiệp và cây lương thực- thực phẩm.
+ Cây công nghiệp gồm: Cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, chè… phân bố
chủ yếu ở vùng đồi núi và trung du
+ Cây lương thực phân bố rộng khắp nhưng chủ yếu phân bố ở vùng
đồng bằng, lớn nhất là đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng
và đồng bằng duyên hải miền Trung
- Những kiến thức mà học sinh phải huy động từ kiến thức đã học
+ Cây công nghiệp được phân bố ở các vùng như Trung du và Miền núi
Bắc Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ vì những nơi này có địa hình chủ yếu là
miền đồi núi, có đất Feralit, khí hậu cận nhiệt, cận xích đạo… thuận lợi cho
phát triển; Ví dụ: Vùng trung du và Miền núi Bắc Bộ cây chè có diện tích lớn
nhất, quan trọng nhất vì nhờ vào các điều kiện tự nhiên như đất Feralit phát
triển trên đá vôi có diện tích lớn, màu mỡ, khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt, ôn đới
là điều kiên tự nhiên thích hợp để phát triển, chè được trồng thành vùng
chuyên canh lớn, mặt khác chè là sản phẩm được thị trường ưa chuộng, phân
phối rộng khắp nên quy mô và sản lượng ngày càng tăng nhanh.
* Kĩ năng phân tích và nhận xét bảng số liệu thống kê3
- Trong các đề thi của tỉnh, huyện các câu hỏi yêu cầu phân tích số liệu
thường xuất hiện nhiều, do tính chất khó của loại câu hỏi này, đồng thời loại
câu hỏi này còn cho phép đánh giá sự am hiểu, vận dụng kiến thức của học
sinh vào các trường hợp cụ thể, đánh giá được kĩ năng chọn lọc, xác định kiến
thức địa lí. Thông qua loại câu hỏi này yêu cầu học sinh phân tích bảng số liệu
để rút ra các nhận xét cần thiết.
- Đọc bảng số liệu về bản chất là so sánh các số liệu theo hàng ngang và
cột dọc, rút ra các nhận xét cần thiết. Học sinh cần phải nắm vững trên bảng,
các tiêu đề của bảng, đơn vị tính, yêu cầu cụ thể của bài tập, hiểu rõ các tiêu
chí cần nhận xét (ví dụ để nhận xét về một loại cây trồng, người ta thường
quan tâm đến sản lượng, cơ cấu, năng suất, để nhận xét về dân cư người ta
thường quan tâm đến phân bố, quy mô dân số, kết cấu.. hoặc nhận xét về đô thị
thì quan tâm đến chức năng, quy mô, phân cấp, sự phân bố) việc phân tích

nhìn chung không phức tạp nhưng học sinh thường phạm lỗi phân tích thiếu
hoặc nêu không đầy đủ các nhận xét cần thiết. Để tránh trường hợp này xảy ra
cần lưu ý so sánh các số liệu theo cột dọc và hàng ngang với một trình tự
3

Trong trang này Kí năng phân tích và nhận xét bảng thống kê số liệu được tham khảo từ TLTK số 5

8


hợp lý, chú ý so sánh các mốc thời gian đầu và cuối của bảng, các mốc thời
gian liền kề nhau theo thứ tự, các mốc có tính đột biến.. [5]
- Trong một số trường hợp cần thiết, cần phải có sự tính toán lại bảng số
liệu trước khi tiến hành nhận xét, ví dụ: Một bảng số liệu tuyệt đối, bài lại yêu
cầu nhận xét về cơ cấu, hay bảng số liệu chỉ cho giá trị xuất khẩu và dân số của
một năm nào đó của các trung tâm kinh tế lớn ở nước ta nhưng lại yêu cầu
nhận xét về giá trị xuất khẩu bình quân đầu người. Trong những trường hợp
này cần phải tính toán trước khi nhận xét (dù bài tập đó có yêu cầu hoặc không
có yêu cầu). Do vậy khi phân tích một bảng số liệu cần lưu ý một số điểm sau:
+ Phân tích câu hỏi làm rõ yêu cầu và phạm vi cần phân tích, nhận xét,
phát hiện những yêu cầu chủ đạo để tập trung làm rõ, nếu như không xác định
đúng yêu cầu chủ đạo thì rất dễ bị lạc đề.
+ Tái hiện lại kiến thức cơ bản có liên quan đến yêu cầu của câu hỏi
và đến các số liệu đã cho để xác đinh tiêu chí cho phù hợp. Ví dụ: Khi câu hỏi
yêu cầu dựa vào các số liệu cần thiết để nhận xét dân cư, cần phải phác thảo
một dàn ý bao gồm: động lực gia tăng dân số nói chung và qua các thời kỳ nói
riêng, quy mô, kết cấu, phân bố dân cư. Đối với một thành phố, dàn ý gồm:
Quy mô, chức năng, sự phân cấp, phân bố. Đối với một ngành kinh tế dàn ý
lại khác: đề cập đến vai trò, nguồn lực, tình hình phát triển, cơ cấu ngành và
lãnh thổ, sự phân bố… Tuy nhiên đây chỉ là cái chung, cần dựa vào để trình

bày, tránh sót ý. Việc phân tích, nhận xét cụ thể còn tùy thuộc vào các số liệu
đã cho.
Việc phân tích và nhận xét bảng số liệu thông thường được tiến hành
như sau: Phát hiện các mối liên hệ giữa số liệu theo cột dọc và hàng ngang,
chú ý đến các giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, giá trị trung bình, những đột biến tăng
hay giảm đột ngột, chú ý so sánh đối chiếu cả giá trị tuyệt đối và tương đối;
Chú ý phân tích khái quát trước sau đó mới đi sâu vào các thành phần cụ thể;
Khi xét nên theo trình tự từ khái quát đến cụ thể, từ chung đến riêng, từ cao
xuống thấp bám sát yêu cầu của câu hỏi và kết quả xử lý số liệu. Mỗi nhận xét
đều có dẫn chứng cụ thể để tăng sức thuyết phục.
Ví dụ4: Cho bảng số liệu sau:
Giá trị xuất khẩu và nhập khẩu ở nước ta giai đoạn 1994-2005
Đơn vị: tỉ USD
Năm
1994
1996
1998
2000
2004
2005
Xuất khẩu
4,1
7,3
9,4
14,5
26,5
32,4
Nhập khẩu
5,8
11,1

11,5
15,6
32,0
36,8
Nhận xét và giải thích về hoạt động ngoại thương của nước ta theo bảng số
liệu trên. [1]
Với bảng số liệu này tôi hướng dẫn học sinh như sau: Trước tiên ta phải
4

Trong trang này Ví dụ được tham khảo từ TLTK số 1

9


tiến hành xử lý số liệu từ tuyệt đối sang tương đối (từ tỉ USD sang %)
Ta có bảng qua xử lý như sau:
Giá trị xuất khẩu và nhập khẩu ở nước ta giai đoạn 1994-2005
Đơn vị: %
Năm
1994
1996
1998
2000
2004
2005
Xuất khẩu
41,4
39,7
45,0
48,2

45,3
46,8
Nhập khẩu
58,6
60,3
55,0
51,8
54,7
53,2
Sau đó tiến hành nhận xét:
+ Giai đoạn 1994 – 2005, giá trị nhập khẩu, giá trị xuất khẩu và tổng
giá trị xuất khẩu, nhập khẩu nước ta đều tăng (dẫn chứng)
+ Giá trị xuất khẩu tăng nhanh hơn giá trị nhập khẩu (dẫn chứng)
+ Trong cơ cấu giá trị xuất, nhập khẩu thì giá trị nhập khẩu luôn cao
hơn giá trị xuất khẩu.
- Giải thích: Sau đổi mới nền kinh tế nước ta phát triển, cùng với nó là
sự thay đổi trong cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu, thị trường được mở rộng
theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.
* Kĩ năng vẽ biểu đồ từ bảng số liệu đã cho và rút ra các nhận xét cần
thiết.
- Dựa vào chức năng thể hiện của biểu đồ, có thể chia ra các loại biểu
đồ: thể hiện quy mô, cơ cấu, sự phát triển, tốc độ phát triển, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, biểu đồ kết hợp…
- Dựa theo hình dáng của biểu đồ có thể chia biểu đồ ra các loại:
+ Biểu đồ tròn.
+ Biểu đồ miền.
+ Biểu đồ cột: cột đơn, cột nhóm, cột chồng, thanh ngang….
+ Biểu đồ đường: một đường hay nhiều đường
+ Biểu đồ kết hợp cột và đường.
Trong đề thi hiện nay chủ yếu nhằm vào các dạng phức tạp, thường là

các loại biểu đồ kết hợp. Nhiệm vụ đặt ra là vẽ biểu đồ gì thì học sinh sẽ
phải thể hiện các loại biểu đồ đó. Tùy từng trường hợp mà học sinh qua rèn
luyện sẽ vẽ được các loại đã cho sẵn, hoặc phải lựa chọn các biểu đồ thích hợp
từ những số liệu đã cho, đôi khi còn phải tính toán số liệu cho bán kính của
biểu đồ (thể hiện quy mô)
- Hướng dẫn học sinh xác định loại biểu đồ cần vẽ:5 [5]
+ Biểu đồ tròn: Trong đề bài có từ “cơ cấu” (nhưng chỉ có 1, 2 hoặc 3 năm)
ta vẽ biểu đồ tròn. Muốn vậy đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng nhận biết về các
số liệu trong bảng, bằng cách người học phải biết xử lí số liệu (hoặc đôi lúc
5

Trong trang này phần Hướng dẫn học sinh xác định các loại biểu đồ cần vẽ được tham khảo từ TLTK số 5

10


không cần phải xử lí số liệu khi bảng số liệu cho sẵn %) ở bảng mà có kết quả
cơ cấu của nó đủ 100 (%), thì tiến hành vẽ biểu đồ tròn.
+ Biểu đồ cột: Đề bài muốn ta thể hiện sự hơn kém, nhiều ít, hoặc muốn so
sánh các yếu tố. Ta có thể dựa vào các cụm từ như: “số lượng”, “sản lượng”,
“so sánh”, “cán cân xuất nhập khẩu”.
+ Biểu đồ miền: Khi đề bài xuất hiện một số các cụm từ: “thay đổi cơ cấu”,
“chuyển dịch cơ cấu”, “thích hợp nhất về sự chuyển dịch cơ cấu”…. trong
trường hợp bảng số liệu là nhiều năm (4 năm trở lên)
+ Biểu đồ đường: Khi đề bài yêu cầu thể hiện “tốc độ phát triển”, “tốc độ
tăng trưởng”, “tốc độ gia tăng”, “chỉ số phát triển”... (thường lấy năm đầu của
bảng số liệu là 100%)
+ Biểu đồ kết hợp: Khi đề bài yêu cầu có hai đơn vị tính khác nhau, có thể
vẽ cột hoặc đồ thị được, nhưng thường đề bài để ta tự chọn “ hãy vẽ biểu đồ
thích hợp nhất…”

+ Biểu đồ thanh ngang: Khi đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ cột, nếu có các vùng
kinh tế, chúng ta nên chuyển sang qua thanh ngang để tiện việc ghi tên các
vùng dễ dàng và đẹp hơn.Ta thấy biểu đồ cột, tên các vùng phải viết nhiều dòng
khoảng cách rộng sẽ không đủ vẽ. Trong khi biểu đồ thanh ngang, tên các vùng
ghi đủ một dòng không dính tên vào các vùng khác trông đẹp hơn. Tuy nhiên,
khi vẽ biểu đồ thanh ngang, cần lưu ý sắp xếp theo thứ tự vùng kinh tế.
Sau khi xác định đúng loại biểu đồ cần vẽ thì tiến hành vẽ biểu đồ theo các
bước ứng với từng loại biểu đồ
- Khi vẽ biểu đồ phải chính xác, rõ ràng, có chú giải cho biểu đồ, đảm bảo
tính mĩ thuật.
- Nhận xét, giải thích.
Ví dụ: Cho bảng số liệu sau6
Diện tích, sản lượng và năng suất lúa của Việt Nam thời kì 1980 – 2008
Năm
1980
1990
1995
2000
2005
2008
Diện tích (nghìn
6100
6042
6765
7666
7329
7414
ha)
Sản lượng (nghìn 11600 19225 24963 32529 35832 38725
tấn)

Năng suất (tạ/ha)
19,0
31,8
36,9
42,4
49,0
52,0
Hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện tốc độ tăng trưởng về diện tích,
sản lượng, năng suất lúa gạo ở nước ta trong thời gian trên. [1]
Với đề này tôi hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
Bước 1: Xác định dạng biểu đồ cần vẽ:
Căn cứ vào yêu cầu đề bài, tên và nội dung bảng số liệu, đây là dạng
bài tập yêu cầu biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng của nhiều đối tượng có
6

Trong trang này ví dụ được tham khảo từ TLTK số 1

11


nhiều đơn vị khác nhau trong nhiều mốc thời gian nên biểu đồ lựa chọn tối ưu
nhất đáp ứng các yêu cầu trên là biểu đồ đường .
Bước 2: Xử lí số liệu:
Biểu đồ dạng nhiều đường thể hiện tốc độ tăng trưởng của nhiều đối
tượng có nhiều đơn vị khác nhau nên số liệu cần được xử lí chuyển sang số liệu
tương đối (%). Theo công thức tính tốc độ tăng trưởng: Đơn vị:%, lấy năm
gốc (năm đầu) là 100%.. Sau khi tính toán ta có kết quả bảng xử lí số liệu như
sau:
Tốc độ tăng trưởng sản xuất lúa của Việt Nam thời kì 1980 – 2008 (%)
Năm

1980
1990
1995
2000
2005
2008
Diện tích
100
99
111
126
120
122
Sản lượng
100
166
215
280
309
334
Năng suất
100
167
194
223
258
274
Bước 3: Vẽ biểu đồ:
Vẽ hệ toạ độ Oxy, trục Oy chia đơn vị của tốc độ tăng trưởng của
diện tích, sản lượng và năng suất lúa của Việt Nam là %, trục Ox chia khoảng

cách năm, năm đầu lấy trùng với trục tung Oy.
Đối chiếu số liệu đã cho với số năm và đơn vị đã chia, ta vẽ lần lượt các
điểm uốn thể hiện tốc độ tăng trưởng của diện tích, sản lượng và năng suất lúa
của Việt Nam theo khoảng cách năm đã chia trên trục Ox, sau đó nối liền các
điểm uốn của một đối tượng ta có đường biểu diễn thể hiện đối tượng đó.
Bước 4: Hoàn thiện biểu đồ:
Ghi tên cho biểu đồ, lập bảng chú giải, ghi số liệu trên biểu đồ:
* Kĩ năng thể hiện kiến thức, khai thác kiến thức cùng các bạn trong
đội tuyển và kĩ năng làm việc nhóm:
Đây là phần mà các em rất thích thể hiện, mặc dù lâu nay rất ít thầy cô
giúp các em. Tìm hiểu qua các em, thì cơ bản là các thầy cô chỉ “truyền một
chiều” đó là “hỏi - đáp, giảng giải, phân tích và học thuộc cũng như làm đề và
xem đáp án”; tìm hiểu qua các thầy, cô thì có sự trao đổi là “Nếu làm như vậy
sẽ rất khó và mất thời gian, mà không hiệu quả lắm”. Ở đây, tôi chỉ bàn đến
việc là làm sao để các em tự thể hiện được kiến thức, kĩ năng của mình trước
các bạn trong đội tuyển, để làm tăng sự tự tin về khả năng học tập của mình nói
chung và bộ môn địa lí nói riêng. Nếu như thực tế trên thì lúc đầu các em còn
lúng túng, chưa đủ tự tin về cách giao tiếp kiến thức của mình. Người thầy phải
cùng với các em và giúp các em thể hiện được kĩ năng này. Điều này rất phù
hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh, tạo không khí học vui vẻ; kích thích được việc
tự học, tự tìm hiểu và ham học hỏi của các em. Với phương pháp như vậy, chỉ
trong thời gian ngắn, các thành viên trong đội dự tuyển địa lí đua nhau tự học,
hợp tác và tự thể hiện trước thầy và bạn. Việc phát lộ ra khả năng, năng lực

12


cũng như sự quyết tâm của mỗi một em. Từ đó, việc chọn đội tuyển chính thức
sẽ dễ dàng, và khả năng đạt giải với kết quả sẽ tốt hơn.
* Kỹ năng tiếp cận đề thi và làm bài:

+ Rèn kĩ năng hiểu và phân tích đề thi, nhằm tránh lạc đề, dẫn đến việc
giải quyết các câu hỏi không trọng tâm, câu thì dài quá, câu thì sơ sài, học sinh
phải biết nhận định đề nhanh, chính xác và phát triển tư duy sáng tạo.
+ Khi đọc đề, học sinh cần chú ý nội dung hỏi, dung lượng kiến thức trả
lời, số điểm cho từng câu để phân phối thời gian làm bài cho phù hợp.
Thí dụ: Đề thi hàng năm thường có câu vẽ biểu đồ thích hợp nhất, câu
này thường là câu cuối cùng và chiếm khá nhiều điểm (6 điểm trên số tổng là
20 điểm của đề cho). Vì thế, việc đầu tiên là đọc kĩ đề để xác định đúng loại
biểu đồ (thích hợp nhất); sau đó, xem xét để vẽ biểu đồ một cách khoa học,
chính xác và đẹp nhất, viết tên biểu đồ, chú thích cẩn thận…(nếu cần có thể vẽ
nháp để tránh việc “vạch” lấy số liệu ở các cột chưa được khoa học, không
đẹp…). Phần vẽ biểu đồ phải chiếm điểm tối đa (thường 2-3 điểm). Cũng như
thế, phần nhận xét biểu đồ cần nhận xét theo đúng yêu cầu của đề (qui mô hay
cơ cấu) và chú ý đến sự biến động qua số liệu đề cho và biểu đồ đã vẽ để nhận
xét cho hiệu quả để có điểm tuyệt đối. Và dĩ nhiên rằng, câu nào bản thân các
em nắm tốt được thì nên làm trước, và hãy cẩn thận để tránh sai sót… Như vậy,
kĩ năng đọc kỹ đề thi trước khi làm bài có ý nghĩa quan trọng với kết quả bài
thi.
+ Rèn kĩ năng lập đề cương sơ lược về cách ôn tập từng bài học, đề thi
và thể hiện trước thầy và bạn: Học sinh phải biết cách “vạch ý” khi học bài
cũng như nghiên cứu trả lời các câu trong đề. Kĩ năng này vô cùng quan trọng;
nó giúp cho các em học hiểu hơn, không bỏ sót kiến thức. Đặc biệt là thực hiện
tốt kế hoạch học tập một cách chủ động, làm bài thi một cách nghiêm túc, khoa
học và chính xác. Trong quá trình ôn luyện, tôi thường mời từng em thể hiện kĩ
năng này. Có sự nhận xét, góp ý, đánh giá của thầy và bạn một cách rõ ràng,
nghiêm túc và thân thiện. Các em thấy mình được tôn trọng, và càng thể hiện
được sự tự tin cũng như dần dần vững vàng về kiến thức...
Chấm và sửa bài:
+ Đối với các em học sinh giỏi, khi chấm bài giáo viên phải chỉ ra được
điểm mạnh, yếu cơ bản của mỗi bài; theo dõi và động viên kịp thời mức độ tiến

bộ của mỗi học sinh trong từng bài viết. Như đã nói ở trên là giáo viên phải lập
nhật ký chấm bài với học sinh đội tuyển; nhận xét từng câu, từng phần làm việc
đối với từng em một (có sự phản hồi từ các em). Cách làm này sẽ làm cho các
em hứng thú tìm tòi trong học tập và từ đó phát huy được năng lực của từng
em.

13


+ Khi chấm, giáo viên phải chỉ ra các lỗi cụ thể về dùng từ, viết câu, tổ
chức ý... phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân và định hướng cách chữa để
học sinh có thể tự sửa chữa các lỗi của mình.
+ Để tạo hứng thú và ham thích, đồng thời cũng rèn kĩ năng hiểu cách
phân tích đề, năm kiến thức nhiều lần và sâu sắc, giáo viên thường phân tích
đáp án, đồng thời tổ chức hướng dẫn học sinh chấm bài cho nhau.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Bản thân được BGH nhà trường giao nhiệm vụ ôn luyện đội tuyển môn
Địa lí, dự thi cấp Huyện. Bằng sáng kiến và kinh nghiệm của mình, thông qua
học hỏi, tự học tự bồi dưỡng, rút kinh nghiệm và kiểm nghiệm qua thực tế
giảng dạy. Vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm nêu trên, đã đưa đến kết quả:
Kết quả trước và sau khi áp dụng SKKN ôn thi học sinh giỏi môn Địa lí
(Trường THCS Hoằng Hợp)
Số HS dự
Xếp loại đồng
Năm học
Giải cấp huyện Giải cấp tỉnh
thi
đội cấp huyện
2014 - 2015

04
01 KK
0
25
2015 - 2016
05
02 KK
0
20
2016 - 2017
03
01 nhì, 01 ba
01 nhì
9
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhiều năm qua, giúp
tôi nhận ra rằng: Học sinh có năng lực, có trình độ và năng khiếu là hết sức
quan trọng. Song trên thực tế, không có một tài năng nào tự nó có thể đi đến
thành công. Môn Địa lí, khi đang còn nhìn nhận là “môn phụ” chưa thu hút
được học trò ngay từ các trường cơ sở, thì vai trò người thầy là rất quan trọng.
Những hệ thống tri thức của môn địa lí, con đường tiếp nhận tri thức và cả
những hứng thú, không ai có thể làm thay được người thầy. Vì vậy, người thầy
cần tâm huyết, phát huy hết khả năng, năng lực, trí tuệ để thu hút học trò đam
mê học tập một cách chủ động và sáng tạo.
Thực tế, ở đâu cũng vậy muốn có học sinh giỏi, trước hết người thầy phải
luôn có ý thức tích luỹ tri thức và rút kinh nghiệm giảng dạy một cách nghiêm
túc, và phải là người thầy, cô dạy giỏi thực sự. Điều kiện của giáo viên địa lý
trung học cơ sở rất hạn hẹp, của học sinh càng khó khăn hơn. Chỉ có sự say mê,
nghiêm túc, những kiến thức thực sự bổ ích từ thầy, cô mới là nguồn truyền

cảm hứng đến cho học sinh, khiến học sinh cố gắng tham gia đội tuyển, rồi yêu
thích bộ môn địa lí để tự giác học hỏi, trao đổi và đam mê, sẽ đạt thành tích.
Người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tinh thần tự học suốt đời,
không ngừng tìm tòi, học tập, nghiên cứu tài liệu, cập nhật những kiến thức,
thông tin trên tất cả các lĩnh vực qua báo, đài, Internet, thực tiễn cuộc sống …

14


để phục vụ cho việc bồi dưỡng. Do đó, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của người
thầy là rất lớn. Trong đó, sự nhạy cảm trong phát hiện năng khiếu học sinh,
phương pháp bồi dưỡng luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công.
Tuy nhiên, với vai trò là người giáo viên bồi dưỡng bản thân chưa thật sự
hài lòng với kết quả trên. Vì tuy hàng năm có học sinh đạt giải cấp huyện, song
số lượng học sinh đạt giải cao thì chưa nhiều và chưa ổn định. Do vậy, trong
những năm học tiếp theo bản thân sẽ không ngừng tổng kết, rút kinh nghiệm,
không ngừng học hỏi để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngày càng ổn định,
phát triển theo hướng bền vững.
3.2. Kiến nghị:
Việc bồi dưỡng HSG là cả quá trình lâu dài, nếu đội tuyển thành lập
càng sớm thì việc bồi dưỡng càng thuận lợi vì học sinh có thời gian mà ngấm
được kiến thức. Vì vậy, BGH nhà trường cần có kế hoạch cụ thể để giáo viên
lựa chọn được nhân tố đầu vào phù hợp và cần thiết theo yêu cầu chính đáng
của bộ môn, cũng như nguyện vọng của bản thân các em mong muốn được
tham gia đội tuyển. Đến việc chuẩn bị nội dung và kế hoạch thời gian ôn luyện
sao cho hài hòa với điều kiện học tập của các em.
Tăng cường mọi nguồn lực có thể có được, kể cả việc xã hội hóa giáo
dục; để “khuyến dạy, khuyến học” vừa hỗ trợ về tinh thần lẫn vật chất cho các
thầy, cô cũng như các em tham gia ôn thi học sinh giỏi các cấp.
Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi của

bản thân tôi được đúc kết và rút ra từ thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh
giỏi suốt trong nhiều năm qua. Có thể những điều này không còn mới mẻ với
những đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm, nhưng với tôi, đó là những điều tôi
tâm đắc và bước đầu đã có được những thành công. Rất mong nhận được sự
đóng góp chân thành của các đồng nghiệp, để tôi có thể tiếp tục làm tốt công
việc này trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Hoằng Hóa, ngày 30 tháng 4 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người thực hiện

Tào Thị Thúy

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tuyển chọn đề thi HSG 9 và tuyển sinh vào lớp 10 chuyên môn Địa lí –
NXB Đại học sư phạm
[2]. Hỏi đáp kiến thức Địa lí lớp 9 - NXB Giáo dục
[3]. Tài liệu tập huấn giáo viên THCS bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí –
SGD & ĐT Thanh Hóa.
[4]. Tự học, tự kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Địa lí 9 – NXB Đại học
sư phạm.
[5]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn: baigiang. violet.vn

- Nguồn: tailieu..vn

16


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Tào Thị Thúy
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ phó chuyên môn, trường THCS Hoằng Hợp
Kết quả
Cấp đánh
đánh
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
giá xếp đánh giá xếp
(Phòng,
loại (A,
loại
Sở, Tỉnh...)
B, C)
1.
1 Giải bài tập Hóa học
Phòng
B
1998-1999
GD&ĐT
Hoằng Hóa

2.
2 Rèn kĩ năng vẽ biểu đồ
Phòng
B
2007 -2008
trong giảng dạy môn Địa lí GD&ĐT
THCS
Hoằng Hóa
3.

3 Sử dụng bài tập hóa học để
dạy học tích cực

Phòng
GD&ĐT
Hoằng Hóa

A

2009 -2010

4.

4 Sử dụng thí nghiệm hóa
học để dạy học tích cực

Phòng
GD&ĐT
Hoằng Hóa


A

2010 -2011

5.

5 Rèn kĩ năng giải bài tập
dạng “Oxit axit phản ứng
với dung dịch kiềm” cho
học sinh lớp 9A trường
THCS Hoằng Hợp
6 Lồng ghép giải thích các
hiện tượng thực tế trong
giảng dạy môn Hóa học 9
trường THCS Hoằng Hợp

Phòng
GD&ĐT
Hoằng Hóa

B

2012 - 2013

Phòng GD
&ĐT
Hoằng Hóa

B


2014 - 2015

6.

17



×