Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn một số kinh nghiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi ngữ văn trung học phổ thông thpt triệu sơn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.55 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG
ĐỘI TUYỂN HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Người thực hiện: Hoàng Thị Chiên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực mơn: Ngữ văn

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

THANH HỐ NĂM 2013

TRANG

2

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI

4


4
4

II.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với giáo viên khi thực hiện đề tài
II.2.Thực trạng chung về việc bồi dưỡng học sinh giỏi và số lượng, chất
lượng giải học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài.

4
5

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÔI ĐÃ VÀ ĐANG LÀM ĐỂ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ

6

III.1. Người giáo viên phải ln giữ được ngọn lửa nhiệt tình, đam mê với
nghề nghiệp
III.2. Chủ động phân loại học sinh, phát hiện ra những học sinh có khả
năng về mơn văn
III.3. Tiến hành tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi.
III.4. Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và phân công người dạy rõ ràng
III.5. Sưu tầm, giới thiệu các tài liệu tham khảo yêu cầu học sinh tự học,
tự tìm hiểu ở thư viện và nhiều nguồn khác
III.6. Giáo viên vừa cung cấp, vừa yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào
một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các
nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu
thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn
với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng.
III.7. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương
trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó

có chiều sâu và rộng
III.8. Chọn lọc một số đề thi qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hố,
tỉnh bạn, kì thi quốc gia qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp
cận đề, nắm yêu cầu đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn
nghị luận.
III.9. Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo
thời gian ấn định.Giáo viên chấm bài, giúp học sinh phát huy ưu điểm và
khắc phục nhược điểm.
III.10. Giáo viên gần gũi, quan tâm đến học sinh, thường xuyên động viên
học sinh bằng những lời chân thành, khích lệ các em cố gắng.
III.11. Gặp gỡ và truyền đạt một số bí quyết để học sinh có thể đạt giải

6

IV. KẾT QUẢ
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

7
8
8
8
9

11
15

16
17
18

19
21
22

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

2


1. Ở thời đại nào cũng vậy, người tài đều có vai trị quan trọng, ảnh hưởng
đến sự sống cịn của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam ta, điều đó lại càng được khẳng
định rõ nét qua lịch sử của dân tộc.
Người xưa từng nói “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Ngun khí
thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, ngun khí suy thì thế nước yếu rồi xuống
thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng
nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên ”(Hiền tài là
nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung.)
Tiếp nối truyền thống ấy, ngày nay Đảng và Nhà Nước ta luôn coi giáo
dục là “quốc sách hàng đầu”, ln xác định “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài” là mục tiêu quan trọng mà ngành giáo dục hướng tới.
Bộ giáo dục và đào tạo đã có rất nhiều chủ trương mới về cơng tác bồi
dưỡng học sinh giỏi. Đó là chú trọng tiếp tục xây dựng hệ thống các trường
chuyên một cách hoàn thiện hơn; khuyến khích và tơn vinh những học sinh có
thành tích cao trong học tập; các học sinh có năng khiếu được học với chương
trình nâng cao phù hợp với năng lực và nguyên vọng của các em; những năm
trước, học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia từ giải ba trở lên còn được tuyển
thẳng vào Đại học theo nguyện vọng...
Chính vì vậy mà có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác mũi
nhọn và trọng tâm của ngành giáo dục. Nó có tác dụng tích cực, thiết thực và
mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên và kích thích

tinh thần say mê học tập của học sinh, nâng cao chất lượng và khẳng định uy tín,
thương hiệu nhà trường, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo
dục nói chung.
2. Năm nào cũng vậy, Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hoá đều tổ chức kì
thi chọn học sinh giỏi các cấp, trong đó có thi học sinh giỏi THPT. Kì thi này
nhằm lựa chọn và tơn vinh những học sinh có thành tích cao trong các môn học.
Đồng thời, kết quả của cuộc thi này cũng là một căn cứ , một kênh thông tin
quan trọng để Sở giáo dục và đào tạo đánh giá chất lượng giáo dục của mỗi
trường học trong phạm vi tồn tỉnh. Vì thế, hàng năm, trường THPT Triệu Sơn 2
vẫn coi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của thầy và trò.
3. Nghề dạy học là một nghề “Cao quý nhất trong những nghề cao q
nhất”. Người dạy học khơng chỉ dạy chữ mà cịn dạy người. Thầy cơ giáo vừa là
người giúp các em lĩnh hội tri thức và vân dụng nó một cách linh hoạt vào cuộc
sống, vừa chính là những kỹ sư xây đắp tâm hồn bao thế hệ học sinh. Người
giáo viên dạy môn Ngữ văn càng có nhiều ưu thế nhất trong việc này.
Niềm vui sướng đối với người thầy người cô là đào tạo ra những học sinh
học giỏi, chăm ngoan, thành đạt, có đạo đức, có nhân cách tốt đẹp, biết cư xử
đúng với chuẩn mực đạo lí dân tộc... Nhưng một trong những niềm sung sướng
vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng
được những học sinh giỏi . Để có được học sinh giỏi thì ngồi năng lực, tố chất
của học sinh cịn cần có cơng lao bồi dưỡng của người thầy. Là một giáo viên
3


Ngữ văn đứng lớp giảng dạy gần mười năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học
sinh giỏi qua một số năm học, tơi đã cảm nhận được điều đó.
4. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước
đến nay trên sách báo, trong các bản tham luận, các sáng kiến kinh nghiệm...bày
tỏ những băn khoăn, trăn trở của mỗi giáo viên dạy mơn văn khi đứng lớp. Một

tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt
và mang lại hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi cịn có
u cầu cao hơn rất nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng
nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu
hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là: Làm
thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất trong khoảng thời gian hơn mấy tháng
ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy hết năng lực của mình trên một thời
gian làm bài trong ba giờ ấn định ? Làm thế nàơ để cơng lao vất vả của thầy và
trị khơng bị uổng phí ? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của
các em và thành tích của nhà trường ? Mối băn khoăn đó ln thường trực
trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua.
5. Tơi đã tìm hiểu và tham khảo nhiều sách báo, tìm kiếm trên in-ter-net
để thu thập những kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi THPT. Tôi đã đọc được
những kinh nghiệm quí báu của thầy Đỗ Nguyên Thương ở Sở Giáo dục và đào
tạo Phú Thọ trên báo Văn học và tuổi trẻ số 7+8+9 năm 2012, những kinh
nghiệm của thầy Lê Đức Đồng ở Sở giáo dục và đào tạo Sóc Trăng ( trên báo
Dân trí)... nhưng nhìn chung chưa thấy có nhiều chun đề trình bày thật sự hệ
thống, thấu đáo, đầy đủ về vấn đề này.Và đặc biệt trong những tài liệu đó chưa
có một số suy nghĩ giống như cá nhân tơi trong q trình bồi dưỡng học sinh
giỏi.
Với tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tịi, trao đổi, thảo luận
với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành; cùng
với việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học; cùng với cả niềm mong ước và hy vọng
là được trao đổi cùng đồng nghiệp, nhận được sự góp ý chân thành của những
người trong nghề, và góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục... tơi mạnh dạn lựa chọn đề tài : Một số kinh nghiệm bồi dưỡng
đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn trung học phổ thơng.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

4


Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao,
khó khăn, nặng nề nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố
chất đặc biệt - khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ văn
chương, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết bài ( nhiều em có thể viết bài
gửi các báo, có những đề tài nghiên cứu phù hợp với lứa tuổi).
Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự
chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp, thậm chí phải có
q trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết
phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của
ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng.
Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trau dồi khơng ngừng nghỉ,
cùng với lịng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của
công việc.
Qua một số năm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi (chủ yếu là học sinh
lớp 12), tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm, dù chỉ thực hiện tập trung trong
mấy tháng ít ỏi mà có thể có được những thành cơng nhất định. Vậy nên với
chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn
thiết tha là được trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, chia sẻ, học tập lẫn
nhau để cùng tiến bộ; góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và
hiệu quả học tập của học sinh nói chung. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng
tới của sáng kiến kinh nghiệm .
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI
II.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với giáo viên khi thực hiện đề tài.
Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, bản thân tơi đã có những thuận lợi

và khó khăn nhất định.
II.1.1. Thuận lợi:
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:
+ Là một giáo viên nhiệt tình và tâm huyết, tôi thường xuyên nghiên cứu giảng
dạy, dành nhiều thời gian để suy ngẫm về chun mơn, về tính hiệu quả của giờ
lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường để
học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi
dưỡng. Vì thế qua từng năm cơng tác kinh nghiệm giảng dạy cũng được tích luỹ
phong phú hơn.
- Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên đúng mức đến
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi; đồng nghiệp nhiệt tình, hỗ trợ đắc lực trong
giảng dạy...
II.1.2. Khó khăn:
- Chất lượng đầu vào (lớp 10) khơng cao, ít có những học sinh đam mê và có tư
chất văn chương thực sự .
5


- Tài liệu, sách báo tham khảo ở thư viện cịn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học
sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng.
- Do xu hướng lựa chọn nghề nghiệp gần đây của xã hội mà tinh thần học tập và
sự quan tâm của học sinh chưa cao đối với mơn Ngữ văn ( Bởi vì mơn Ngữ văn
trong nền kinh tế thị trường có đầu ra khá thấp so với các môn tự nhiên, điều
kiện và cơ hội xin việc làm rất khó đối với những ngành có bộ môn Ngữ văn).
Học sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển
tự nhiên, nhiều em học được văn nhưng lại gặp sự phản đối từ gia đình...
- Chất lượng đội tuyển khơng đồng đều, áp lực trong việc phải có nhiều giải và
đạt giải cao...

II.2. Thực trạng về việc bồi dưỡng học sinh giỏi và số lượng, chất lượng giải
học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài.
Tôi bắt đầu công tác giảng dạy môn Ngữ văn vào tháng 10 năm 2004 tại
trường THPT Quan Hoá, đến tháng 8 năm 2008 tôi chuyển công tác về trường
THPT Triệu Sơn 2. Tính đến nay tơi cũng đã dạy học năm thứ chín. Trong thời
gian dạy học tại trường THPT Quan Hố tơi cũng đã có hai năm học được giao
trách nhiệm chính trong việc bồi duỡng học sinh giỏi. Tơi cũng đã có nhiều cố
gắng song hiệu quả công việc chưa cao.
Kết quả cụ thể là:
+ Năm học 2005 - 2006: đội tuyển gồm 03 em nhưng không đạt một giải nào.
+ Năm học 2006 - 2007: đội tuyển 02 em thì có một em đạt giải khuyến khích
cấp tỉnh.
Tại trường THPT Triệu Sơn 2, những năm học từ 2006 - 2007 trở về
trước, số lượng giải học sinh giỏi văn hàng năm cũng khá thấp, dao động từ 2/10
đến 4/10 học sinh.
Từ năm học 2007 - 2008 đến nay, sau khi tôi và một số đồng nghiệp áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi thì kết quả
thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào đội tuyển, học
tập sơi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Số lượng và chất
lượng giải đều tăng lên ( Sẽ chứng minh ở phần kiểm nghiệm). Đó là điều vui
mừng khơng thể nói hết bằng lời.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÔI ĐÃ VÀ ĐANG LÀM ĐỂ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ

6


Muốn bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đạt kết quả cao, theo tôi cần phải
chú ý đến rất nhiều yếu tố: đó là có sự chỉ đạo kịp thời, sát sao, sự quan tâm sâu

sắc từ phía Ban giám hiệu và các tổ chức trong nhà trường ; là sự ủng hộ, tạo
điều kiện
của gia đình học sinh, của giáo viên chủ nhiệm... nhưng quan trọng nhất vẫn là
hai yếu tố giáo viên đứng lớp và học sinh.
Biết rằng phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vơ cùng phong
phú, khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn
học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khn khổ chuyên đề này
tôi chỉ xin tập trung vào những việc mà bản thân tôi đã và đang làm cũng như
những điều tôi chiêm nghiệm được qua thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng học sinh
giỏi.
III.1. Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình, đam mê với
nghề nghiệp
Như trên đã nói, thực tế dạy học văn ngày nay gặp rất nhiều rào cản, mà
những rào cản đó xuất phát từ nhiều phía: có thể là do chương trình quá nặng, do
giáo viên dạy kém nhiệt tình, tâm huyết, hoặc do xu hướng, thực trạng của nền
kinh tế thị trường đã khiến nhiều gia đình định hướng cho con em họ không
theo những môn khoa học xã hội...trước khá nhiều bất lợi như thế, người giáo
viên phải làm thế nào để dạy tốt môn văn và khiến học sinh u thích, say mê?
Đó là câu hỏi làm trăn trở mỗi trái tim, đánh động lương tâm nghề nghiệp của
biết bao thầy cơ và cả những nhà quản lí giáo dục.
Cá nhân tôi nhận thấy, muốn làm cho học sinh u thích mơn Ngữ văn,
nhất là trong thời điểm nhạy cảm này, điều trước tiên là người giáo viên dạy văn
phải ln giữ được ngọn lửa đam mê của tình yêu nghề nghiệp và thổi bùng
ngọn lửa ấy vào các em học sinh.
Người giáo viên phải thật sự yêu bộ môn văn và xem việc giảng dạy là
trách nhiệm, sứ mệnh cao cả, vinh quang.Bởi vì việc thầy cơ u nghề, yêu môn
văn sẽ là tiền đề tốt nhất để động viên, khơi gợi hứng thú học tập của học sinh;
đó cũng là động lực để thầy cơ cố gắng tìm tịi, suy ngẫm, tìm ra những phương
pháp hợp lí, phù hợp nhất đối với tưng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu
quả, làm cho các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương.

Thật vậy, kinh nghiệm q giá này tơi rút ra được sau năm học 2006 –
2007, lúc đó tơi cịn dạy học ở THPT Quan Hố.
Thật ra, nói một cách khách quan, chất lượng học sinh miền núi bao giờ
cũng có những hạn chế nhất định so với học sinh miền xuôi. Vì thế mà trong các
kì thi, nhất là thi học sinh giỏi tồn tỉnh thường khơng có giải hoặc giải khơng
cao. Tuy nhiên lí do chính là do bản thân tơi chưa có nhiều kinh nghiệm bồi
dưỡng học sinh.
Năm học 2005 - 2006, đội tuyển văn của trường THPT Quan Hố rất ít vì
khơng có nguồn từ trước đó. Khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi,
tôi không cho thi mà trực tiếp chọn luôn 03 học sinh ( căn cứ vào kết quả và
năng lực của các em trên lớp). Có thể nói là tơi đã “bắt cóc” ba em vào đội
7


tuyển.Tôi hướng dẫn cho học sinh tự học, tôi đã dạy một số chuyên đề nhưng
cũng không hết được vấn đề cơ bản. Tôi cũng không tự tin là học sinh của mình
có thể đạt giải, vì từ trước tới thời điểm đó chưa có một học sinh nào đạt giải
học sinh giỏi tỉnh môn văn. Hơn nữa tôi nghĩ “Học sinh của mình xuất phát
điểm rất thấp, có dạy thì cũng khơng thể tiến bộ vượt bậc được, làm sao có thể
đọ sức được với những học sinh miền xi giỏi giang, lại học ngày học đêm?”.
Vì thế, nhiều lúc lịng nhiệt tình và sự quyết tâm của tơi khơng cịn nữa. Kết quả
năm đó khơng em nào đạt giải.
Đến năm học 2006 – 2007, tôi tiếp tục dạy lớp 12 và có nhiệm vụ bồi
dưỡng đội tuyển. Năm đó tơi chỉ chọn 02 học sinh là Phạm Văn Long và
Nguyễn Hà Phương, cả hai em đều dân tộc Thái. Tơi đã động viên các em rất
nhiều để khích lệ tinh thần, và ba cơ trị đều cố gắng (phần vì trách nhiệm nặng
nề, phần vì trong thâm tâm tơi vẫn mong học sinh của mình có thể đạt giải). Có
khi học sinh phải học cả ban đêm. Tơi giao bài tập cho các em viết rồi đọc, sửa
chữa...kết quả năm đó em Hà Phương đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Niềm vui
vỡ ồ trong tơi. Tơi nhận ra rằng khơng có gì là khơng thể, nếu mình nhiệt tình,

biết động viên học sinh và ln khát khao chiến thắng thì sẽ góp phần quan
trọng đem lại thành cơng. Dù rằng kết quả cịn vơ cùng khiêm tốn nhưng nó là
động lực giúp tơi bước tiếp hành trình gian nan của mình.
Ngày nay, ngày càng nhiều những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới ra
đời, các thầy cô giáo có thể tham khảo nhiều cách thức khác nhau và áp dụng
vào công tác giảng dạy. Tuy nhiên dù sử dụng phương pháp nào đi nữa thì thầy
cơ cũng chỉ có thể thành cơng khi chủ động được kiến thức và thật sự tâm huyết
với nghề.
III.2. Chủ động phân loại học sinh, phát hiện ra những học sinh có khả năng
về môn văn
Đây là công việc mà tôi cũng như các đồng nghiệp trong tổ Văn trường
THPT Triệu Sơn 2 đã và đang làm để có thể phát hiện và lựa chọn được những
học sinh có tư chất, những ứng viên vào đội tuyển.
Để có được những học sinh giỏi văn trong đội tuyển của nhà trường,
trong quá trình dạy tơi ln chú ý để tìm ra những hạt nhân sáng giá nhất. Đầu
tiên, tôi chú ý đến những em có đầu vào lớp 10 cao hơn những em khác ( từ 7
điểm trở lên). Sau đó tơi theo dõi quá trình học tập lớp 10, 11 của các em qua
các điểm kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, qua kết quả thi học sinh giỏi
trường (nếu có), rồi gặp gỡ, động viên...để tạo nguồn cho đội tuyển.
Bằng việc làm này, hằng năm tôi và đồng nghiệp đã lựa chọn được một số
học sinh có tố chất, u thích mơn văn...để chuẩn bị cho việc thành lập đội tuyển
chính thức khi các em học lớp 12. Ví dụ năm học 2008 - 2009 tôi chọn được 02
em ngay từ lớp 10 đều có lịng đam mê và tố chất học văn là Lê Thị Huyền và
Mai Thị Lạng ( lớp 10A5). Cả hai em này đều trở thành thành viên đội tuyển
học sinh giỏi năm học 2010 - 2011, đều đạt giải cao và đậu Đại học với số điểm
môn văn là 8,0.
III.3. Tiến hành tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi.
8



Tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi là khâu quan trọng bậc nhất quyết
định chất lượng đội tuyển.Vì thế từ năm học 2008 – 2009, khi được giao nhiệm
vụ bồi dưỡng học sinh giỏi ( cùng với một đồng nghiệp nữa), tôi rất chú trọng
việc này. Làm thế nào lựa chọn được những em học sinh yêu và đam mê văn
học? Làm sao chọn lựa được những em có tư chất tốt và siêng năng, cần cù
luyện tập để gặt hái được những kết quả tốt nhất? Những câu hỏi ấy cứ làm tôi
trăn trở mãi. Và tôi cùng với đồng nghiệp đã tiến hành lựa chọn đội tuyển chính
thức bằng cách: cho học sinh đăng kí dự thi tuyển, sau đó tiến hành thi chọn rất
nghiêm túc, chặt chẽ, theo cấu trúc đề học sinh giỏi. Tôi chấm và chọn ra những
bài viết đạt từ 10,0 điểm trở lên ( thang điểm 20). Tiếp tục dạy một thời gian
ngắn (2 tuần), rồi cho thi tiếp vòng 2, chọn lấy 15 em theo thứ tự điểm từ cao
xuống thấp. Tôi lại dạy 2 tuần nữa, chọn ra 12 học sinh. Cuối cùng chọn 10 học
sinh trong đội tuyển chính thức. Lúc này khoảng cuối tháng 11, còn khoảng hơn
3 tháng là đến kì thi.
Chúng tơi tập trung dạy rất tích cực (theo kế hoạch đã chuẩn bị) để một
mặt vừa cung cấp kiến thức cho các em, mặt khác rèn kĩ năng làm bài và giúp
các em ổn định tâm lí khi thi.
III.4. Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và phân công người dạy rõ ràng
Song song với việc thành lập đội tuyển, tôi đã lập bản kế hoạch bồi dưỡng
đội tuyển và dự kiến người dạy hỗ trợ với mình ( Căn cứ vào sở trường của mỗi
người mà phân cơng chun đề dạy phù hợp) để trình tổ trưởng chuyên môn và
Ban giám hiệu xét duyệt.
Trong kế hoạch tôi dự kiến các chuyên đề ôn luyện, số tiết thực
hiện...Thông thường kế hoạch của tôi gồm các nội dung sau: Tên chuyên đề;
thời gian thực hiện; người thực hiện; số tiết cho từng chuyên đề; thời gian kiểm
tra chất lượng lần 1, 2, 3, 4; người chấm bài...
Khi làm được điều này, tôi thấy chủ động trong việc dạy học, khơng cịn
gặp phải tình trạng dạy chồng chéo lên nhau, ai thích gì dạy nấy, hay dạy học
gấp rút về sau mà bỏ quá nhiều thời gian “chết” như các năm trước đó nữa.
III.5. Sưu tầm, giới thiệu các tài liệu tham khảo yêu cầu học sinh tự học, tự

tìm hiểu ở thư viện và nhiều nguồn khác
Tài liệu tham khảo rất quan trọng đối với việc mở rộng kiến thức cho học
sinh. Đối với học sinh giỏi, tài liệu có tầm quan trọng đặc biệt. Sau khi đã tuyển
chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn hơn 3 tháng là đến
ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội tuyển lớp 12 thì
từ cuối năm 11, và trong hè tôi đã hướng dẫn cho học sinh các lọai sách, tên
sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh mượn đọc một số sách cần thiết mà
tơi có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp...
Tôi liên tục lên mạng in-ter-net để tìm thêm tư liệu, tuyển chọn, biên soạn
rồi phô-tô cho các em đọc. Cuốn tạp chí tơi tin tưởng và tâm đắc từ khi cịn là
sinh viên - tạp chí Văn học và tuổi trẻ của nhà xuất bản Giáo dục, số ra hàng
tháng được tôi giới thiệu đến các em và coi đây là một ấn phẩm uy tín, chất
lượng cho cả cơ và trị tham khảo. Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến
9


thức phải thực sự phong phú và sâu rộng. Có như vậy các em mới tự tin, chủ
động, mạnh dạn và phóng túng trong khi làm bài. Kiến thức mỏng và nghèo nàn
thì khơng thể tránh khỏi những lúng túng, ngượng ngập trong bài viết bởi thiếu
sự liên hệ, mở rộng, nâng cao.
Vì thế, tơi đã nhắc nhở học sinh đọc thêm những tài liệu có liên quan. Đó
là các tác phẩm tiêu biểu của những tác giả lớn trong chương trình học nhưng lại
khơng được in trong sách giáo khoa để các em có phơng viết rộng hơn, linh
hoạt hơn. Chẳng hạn như khi học Nam Cao, một học sinh giỏi văn khơng chỉ
biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc mà cần phải đọc rộng và am hiểu
thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao trước và sau cách mạng tháng Tám. Khi
dạy về đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, tôi giới thiệu cả trường ca
Mặt đường khát vọng; khi dạy đến Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, tôi
yêu cầu học sinh đọc Đất nước đứng lên; dạy Vợ chồng A Phủ, học sinh cần đọc
cả tập Truyện Tây Bắc của Tơ Hồi...

Ngồi việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học, học sinh còn cần phải đọc
các sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự có điều kiện thâm
nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Ví dụ khi học thơ Mới với các bài thơ
Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn
Mặc Tử, giáo viên không thể không hướng dẫn học sinh đọc thêm các tập thơ
của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận,
các tập thơ của Hàn Mặc Tử và cần đọc kỹ cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài
Thanh - Hồi Chân để học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc đáo, súc tích.
Và cịn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các tác giả nổi tiếng khác
về văn học rất giá trị mà học sinh cần phải đọc.
Tơi cịn tăng cường biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên
cứu của học sinh. Nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, cịn có những lỗ hổng
kiến thức thì giáo viên phải đơn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học
sinh làm việc. Nói tóm lại, khơng đọc hay đọc ít là một hạn chế rất lớn không
tránh khỏi đối với một học sinh giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được
nhiều mặt tích cực nhất là ở những học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương.
III.6. Giáo viên vừa cung cấp, vừa yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào
một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các
nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu
thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn
với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ
trong sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc
của những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn
học, hay những câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn hay của nhiều tác giả gắn với các
chuyên đề mà tôi bồi dưỡng. Nội dung này tôi đã yêu cầu học sinh ghi vào một
cuốn sổ riêng để các em đọc lại nhiều lần và ghi nhớ. Những tư liệu này rất quý
giá đối với học sinh. Nó vừa giúp các em mở mang vốn tri thức, khám phá vấn
đề theo chiều rộng, chiều sâu, vừa là những dẫn chứng quan trọng, hấp dẫn, tiêu
10



biểu, tạo nên những điểm nhấn, điểm sáng, giàu sức thuyết phục hơn trong các
bài làm.
Ví dụ như khi dạy chuyên đề về Xuân Diệu và thơ ông, tôi đã cung cấp
cho học sinh những lời nhận định của một số tác giả trong và ngoài nước. Cụ thể
là:
- “Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc, độc đáo của nền thơ hiện đại
Việt Nam...cho tới nay và những năm tháng trước mắt liệu có ai vượt được
Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình?Và khơng ai có thể thay thế được Xuân Diệu

(Tố Hữu.)
Bà Bra-gri-a-ma, nhà thơ nữ lừng danh ở chân núi Vi-to-sa (Bun ga ri) khi
tuyển thơ tình trên thế giới đã khoe với các bạn Việt Nam: “Tôi mở đầu tuyển
tập hàng trăm tác giả này bằng nhà thơ Nga Pu-skin và kết thúc bằng nhà thơ
Xuân Diệu - Việt Nam, Xuân Diệu là nhà thơ tình lớn của phương Đơng vậy!”
- “Nhà thơ Xn Diệu mất đi thấy có mang theo một mảng đời văn tôi”
( Nguyễn Tuân).
- “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa lồi người. Lầu thơ
của ơng xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”
(Thế Lữ, lời tựa cho tập Thơ thơ).
- “ Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,... khi vui cũng như
khi buồn người đề nồng nàn, tha thiết.....Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ
Mới” ; “ Với Thế Lữ thi nhân ta cịn ni giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất
xưa. Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới...”
( Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)
Khi dạy đến chuyên đề Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt, tôi cung cấp cho
học sinh một số nhận định:
- “Kim Lân là người một lòng đi về với đất, với người, với những thuần
hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nơng thơn” (Ngun Hồng)

- “Dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn
hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai”(Kim Lân)
- “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được
nữa”.
( Lời nhân vật Pa-ven Cc-sa-ghin trong Thép đã tơi thế đấy của Ơ-xtơ-rốpxki)
Dạy về Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường, để làm
rõ vẻ đẹp trầm mặc của sơng Hương, tơi tìm cho học sinh bài Sông Hương một
nét thơ của tác giả Lam Hồ trên Văn học và tuổi trẻ:
“ Sông trầm mặc như mn đời vẫn thế
Chảy vơ tình để bồ kết đưa hương
Nét thơ Đường thả giữa lòng xứ Huế
Hay câu Kiều của dân tộc yêu thương?”
Hay những câu thơ nói lên đặc trưng dòng chảy Hương giang khi qua thành
Huế:
11


“ Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
( Tạm biệt - Thu Bồn)
Khi dạy chuyên đề “ Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh học sinh sẽ
được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong tù : một tâm hồn lớn, một trí
tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v...Một số dẫn chứng để các em có thể vận dụng
vào bài làm liên quan đến chuyên đề này là:
“ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ơi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
( Tố Hữu)
- “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp

Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ Bác viết, vần thơ thép
Mà vẫn mêng mông bát ngát tình”
(Đọc thơ bác - Hồng Trung Thơng)
- “Đây là bức chân dung của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Nhưng
trong ba phẩm chất ấy, đại nhân là cái gốc, là cơ sở”
( Viên Ưng- nhà thơ Trung Quốc.)
- “ Nhật kí trong tù là một tác phẩm lớn, một viên ngọc mà tác giả hình
như chỉ đánh rơi vào kho tàng văn học - như một hành động ngẫu nhiên. ”
(Đặng Thai Mai)
Những nốt nhấn như vậy là rất cần thiết trong bài làm của học sinh giỏi.
Thiếu nó bài viết cũng kém đi phần tươi mát, sinh động và cũng dễ trở nên khô
khan hoặc đơn điệu, nhàm chán.
Và còn rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị, những dẫn chứng
khác về các tác giả, tác phẩm...văn học, giáo viên giúp học sinh sưu tầm, ghi
chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý thơ nào học sinh cũng
đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh chưa hiểu hoặc hiểu
chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ những nội dung ý
nghĩa của vấn đề.
Đó chỉ là một vài ví dụ minh chứng, cịn lại là kiến thức mêng mơng,
rộng lớn mà người giáo viên bồi dưỡng hướng dẫn học sinh phải có ý thức học
tập vận dụng để mang lại sự hiệu quả, chất lượng cho bài viết.
III.7. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình
thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều
sâu và rộng
Đối với bồi dưỡng học sinh giỏi, việc dạy bồi dưỡng theo các chuyên đề
là điều cần thiết và nên làm nhiều nhất để cung cấp kiến thức cho học sinh, đồng
thời giúp các em rèn luyện kĩ năng làm bài tốt hơn.
Qua theo dõi cách ra đề của những năm gần đây, tôi thấy cấu trúc đề
thường là 02 hoặc 03 câu, gồm hai phần chính là nghị luận xã hội và nghị luận

12


văn học, trong đó nghị luận văn học chiếm 2/3 số điểm của đề bài. Phần nghị
luận văn học thường tập trung vào những tác phẩm có tính ngợi ca về con người,
vẻ đẹp đất nước, cách mạng hoặc thiên về những tác phẩm có giá trị hiện thực
và nhân đạo sâu sắc; có khi lại thiên về những tác phẩm mới được đưa vào sách
giáo khoa...
Vì thế, trong những năm qua tôi đã biên soạn và dạy cho học sinh một số
chuyên đề. Tôi cùng đồng nghiệp đã tiến hành dạy liên tục, một tuần hai buổi
vào chiều thứ hai và chủ nhật hàng tuần (một buổi dạy hai tiếng rưỡi đến ba
tiếng). Các chuyên đề chính như sau:
Số tt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Tên chuyên đề
Kĩ năng làm văn nghị luận xã hội
Kĩ năng làm văn nghị luận văn học
Thơ mới

Thơ cách mạng trước 1945
Văn xuôi lãng mạn trước 1945
Văn xuôi hiện thực trước 1945
Thơ ca kháng chiến chống Pháp
Thơ ca kháng chiến chống Mĩ
Văn xuôi cách mạng 1945 – 1975
Thơ văn sau 1975
Kịch
Lí luận văn học

Số buổi
2
3
2
2
2
3
3
2
3
2
1
2

Với các chuyên đề trên, trong từng buổi dạy tôi lại chia nhỏ ra từng vấn đề cụ
thể để học sinh dễ nắm bắt.
Chẳng hạn, khi dạy về Kĩ năng làm văn nghị luận xã hội, tơi chia nhỏ làm
hai dạng đề chính là Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và nghị luận về một hiện
tượng đời sống.Với mỗi dạng, tôi lần lượt cho học sinh ôn lại khái niệm, nhắc
lại cách thức làm bài gắn với bố cục của bài làm, giới thiệu một số dạng đề, yêu

cầu học sinh xác định đề, lập dàn ý rồi sau đó giáo viên sẽ củng cố lại. Cuối
cùng giao bài tập về nhà cho học sinh làm.
Ví dụ khi tơi dạy Kĩ năng làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.
- Trước tiên tôi cho học sinh nhắc lại khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng, đạo
lí là bàn về một tư tưởng, đạo lí nhằm giới thiệu, giải thích, phân tích, biểu
dương những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch xung quanh vấn đề bàn
luận, trên cơ sở đó rút ra bài học nhận thức và hành động cần thiết về tư tưởng,
đạo lí.
- Sau đó, tơi nhắc lại cách thức làm bài.
Có thể trình bày bài theo các bước cụ thể sau:
+ Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.

13


+ Phân tích, biểu dương những mặt đúng, phê phán, bác bỏ những biểu
hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận.
+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lí.
- Giới thiệu một số dạng đề thường gặp cho học sinh: vấn đề tư tưởng đạo lí có
thể được thể hiện ngay trong đề bài, hoặc được đúc kết dưới nhiều dạng:
+ Một câu tục ngữ, ca dao
+ Một câu danh ngôn
+ Một câu chuyện...
+ Dạng đề mở
Một số đề minh hoạ
Đề 1: Bàn về tính tự lập của con người trong cuộc sống.
Đề 2: Trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu tục ngữ sau: “ Có cơng mài sắt, có
ngày nên kim”.
Đề 3: Viết một bài văn ngắn ( khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh chị về
câu nói sau: “Cái chết khơng phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự

mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn mình tàn lụi ngay khi còn
sống”(Norman- kusin)
Đề 4: Bài học anh/ chị rút ra được từ câu chuyện sau : Vết nứt và con kiến
Khi ngồi ở bậc thềm trước nhà, tôi nhìn tháy một con kiến đang tha chiếc lá trên
lưng.Chiếc lá lớn hơn con kiến gấp nhiều lần
Bò được một lúc, con kiến chạm phải một vết nứt khá lớn trên nền xi măng. Nó
dừng lại giây lát. Tơi nghĩ con kiến hoặc là quay lại, hoặc là nó sẽ một mình bị
qua vết nứt đó. Nhưng khơng. Con kiến đặt chiếc lá ngang qua vết nứt trước,
sau đó đến lượt nó vượt qua bằng cách bị lên trên chiếc lá. Đến bờ bên kia, con
kiến lại tha chiếc lá và tiếp tục cuộc hành trình.( Theo Hạt giống tâm hồn)
Đề 5: Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của bạn.
- Tơi cịn nhấn mạnh và lưu ý với học sinh: Làm văn nghị luận xã hội thực chất
là cách kéo gần các em trở về cuộc sống, làm cho các em có những nhận thức
thật đúng đắn, những hành động thật đẹp đẽ, nhân văn, những cách ứng xử thật
phù hợp với đạo lí làm người và phải hành động để góp phần làm cho cuộc
sống này tốt đẹp hơn. Làm văn nghị luận xã hội không phải là để nói khốc rồi
sau đó, khi vừa bng bút ra khỏi tay, ta lại làm ngược lại với những điều ta
viết.(Có học sinh phê phán rất gay gắt tình trạng học sinh trốn học chơi điện tử,
nhưng khi nạp bài xong lại đi ra quán nét ngay; trong phòng thi, có em viết cần
lên án, phê phán hiện tượng tiêu cực trong thi cử nhưng chính mình lại sử dụng
tài liệu ngay trong lúc làm bài nghị luận xã hội đó)...
Với các đề ra như vậy hướng vào chuyên đề sẽ kích thích học sinh làm
việc và tư duy một cách tồn diện.
Trong q trình dạy, tơi cũng rất chú ý đến chuyên đề kĩ năng làm văn
nghị luận văn học. Tôi đã dạy kĩ năng làm bài của một số dạng đề cơ bản mà tôi
thấy xuất hiện nhiều trong những đề thi học sinh giỏi, thi đại học gần đây: Nghị
luận về một bài thơ, đoạn thơ; một nhân vật văn học; một đoạn trích văn xi;
Dạng bài so sánh văn học; Nghị luận về một vấn đề văn học...
14



Sau khi dạy kĩ về cách làm bài, tôi ra đề để học sinh luyện tập. Có khi tơi chỉ
u cầu học sinh xác định đề, lập dàn ý hay viết phần mở bài, phần kết luận để
rèn chắc kĩ năng cho các em.
Tôi đặc biệt quan tâm tới chuyên đề Lí luận văn học, bởi vì đối với một
bài văn của học sinh giỏi, bao giờ các em cũng phải biết vận dụng kết hợp kiến
thức lí luận với khả năng đọc - hiểu, cảm thụ văn bản để làm cho bài viết “ có
tầm”.
Kiến thức lí luận văn học vốn là những kiến thức khái quát về bản chất,
giá trị của văn học, cấu trúc tác phẩm, quá trình văn học...được vận dụng trong
bài làm văn. Bài làm văn nếu thể hiện kiến thức lí luận tốt sẽ trở nên chắc chắn,
sâu sắc và thuyết phục.
Xác định được tầm quan trọng của lí luận văn học, tơi đã cung cấp cho
học sinh một số vấn đề, khái niệm thường gặp và có liên quan đến các tác phẩm
trong chương trình học như: Phong cách nghệ thuật, khơng gian và thời gian
nghệ thuật, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, vẻ đẹp ngôn ngữ, chất thơ trong
tác phẩm văn xuôi, đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật, ý nghĩa tư tưởng, tính
sử thi, cảm hứng lãng mạn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng...
Tôi chỉ cho học sinh cách làm bài nếu gặp đề bài liên quan đến vấn đề
này. Trước tiên phải giải thích khái niệm, sau đó tìm ra các biểu hiện trong tác
phẩm, tiếp theo là triển khai cụ thể và cuối cùng là đánh giá vấn đề.
Ví dụ, nếu học sinh gặp đề bài : Giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm
Vợ nhặt của Kim Lân.
Cách thức triển khai như sau:
- Mở bài: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, dẫn vào vấn đề cần nghị luận.
- Thân bài:
+ Giải thích khái niệm giá trị nhân đạo: Bắt đầu giải thích ý nghĩa từ Nhân đạo,
từ đó suy ra Một tác phẩm có giá trị nhân đạo là một tác phẩm phải thể hiện
được niềm cảm thông với con người lao khổ; phải nâng niu cái đẹp trong tâm
hồn con người; phải phê phán đấu tranh với cái xấu, cái ác.

+ Khẳng định truyện ngắn Vợ nhặt đã thể hiện khá đầy đủ những đặc điểm đó.
+ Phân tích triển khai cụ thể từng biểu hiện
+ Bàn bạc mở rộng: Điểm đáng nói nhất về giá trị nhân đạo của tác phẩm là nói
lên được niềm tin tưởng sâu sắc của nhà văn vào con người lao động nghèo khổ,
vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo ở đây
có nhiều nét mới so với các tác phẩm trước cách mạng.
- Kết bài: Kết thúc vấn đề, khẳng định vai trò quan trọng của giá trị nhân đạo
trong tác phẩm văn học nói chung và trong Vợ nhặt nói riêng.
Cịn rất nhiều những chun đề khác mà tơi khơng thể nói hết ở đây. Các
chun đề khác cách thức tiến hành có nhiều điểm tương tự như các chuyên đề
trên.

15


III.8. Chọn lọc một số đề thi qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hố, tỉnh
bạn, kì thi quốc gia qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề,
nắm yêu cầu đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận.
Có kiến thức văn học và kỹ năng viết là cần thiết trong một bài văn nghị
luận, nhưng điều đó chưa đủ những yếu tố để đảm bảo thành công trong một bài
viết. Điều quan trọng trong một bài văn nghị luận là học sinh phải xác định được
yêu cầu của đề ra, định hướng, tìm ý và lập được dàn ý.
Vậy để rèn luyện cho học sinh giỏi trong công tác bồi dưỡng về kỹ năng
này, giáo viên có thể chọn một số đề thi học sinh giỏi quốc gia, học sinh giỏi
tỉnh trước đây để giúp học sinh luyện tập.
Ví dụ về một câu trong đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2008:
Câu 2 (12,0 điểm):
Thơ nữ viết về tình yêu thường thể hiện sâu sắc bản lĩnh và ý thức về hạnh phúc
của chính người phụ nữ. Hãy phân tích, so sánh bài thơ "Tự tình" (bài II) của Hồ
Xn Hương và "Sóng" của Xn Quỳnh để làm rõ nét chung và nét riêng trong

tâm sự tình yêu của hai nữ tác giả ở hai thời đại khác nhau.
Ví dụ khác về đề văn của tỉnh Yên Bái:
“ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.
Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của những chặng đời
sống con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hồn thiện”
( Nguyễn Minh Châu)
Anh ( chị ) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên.
Với đề trên, giáo viên yêu cầu học sinh xác định đề, lập dàn ý rồi bổ sung, củng
cố:
- Về yêu cầu đề: thao tác giải thích, bình luận là chính.
- Những ý chính cần xác định là:
+ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là cuộc
sống con người có nghĩa là như thế nào ?
+ Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng
đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hòan thiện nghĩa
là như thế nào ?
+ Chứng minh qua một số tác phẩm văn học trong và ngoài nước.
+ Nhận xét, đánh giá về ý kiến trên.
Một ví dụ khác về đề thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hoá năm 2008 - 2009:
Câu 1 (6 điểm): Bàn về chủ đề: Trêng häc th©n thiƯn - Häc sinh tÝch cùc”.
C©u 2 (6 điểm): Cách thể hiện tình yêu và nỗi nhớ của Xuân Quỳnh trong đoạn
thơ sau:
Con sóng dới lòng sâu
....................................
Cả trong mơ còn thức
(Sóng - Xuân Quỳnh - Ngữ văn 12, tập 1 - NXBGD 2008 - trang 155).
Câu 3(8 điểm): Cảm hứng về thiên nhiên đất nớc trong Ngời lái đò Sông Đà
(Nguyễn Tuân) và Ai đà đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tờng)
(Ngữ văn 12, tËp 1 - NXBGD 2008).


16


Trong những năm gần đây đề thi học sinh giỏi tỉnh có thêm một câu nghị
luận xã hội. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng cũng cần phải chọn lọc những đề nghị
luận xã hội hay và có ý nghĩa sâu sắc để giúp học sinh học tập. ( Phần này có thể
tham khảo mục 7 ở trên, chuyên đề Nghị luận xã hội).
Những đề văn như vậy giáo viên yêu cầu học sinh tự xác định đề, lập dàn
ý cùng với sự định hướng của giáo viên sẽ kích thích các em động não, tư duy
để hiểu ý nghĩa nội dung u cầu đề , có cách trình bày ý và các thao tác lập
luận sao cho đầy đủ và thuyết phục nhất.
Đề ra để học sinh luyện tập rất nhiều nhưng khuôn khổ sáng kiến này
không cho phép tôi trình bày dài. Chỉ đơn cử vài ví dụ minh họa. Hướng dẫn và
định hướng cho học sinh theo những cách thức như trên sẽ có ý nghĩa góp phần
khơi gợi, tạo khả năng chủ động cho các em biết tư duy, phân tích, xác định đề
và tìm ý một cách nhanh chóng khi đứng trước một đề văn. Các em sẽ biết cách
đi đúng hướng, chặt chẽ, khai thác khá đầy đủ các ý lớn, nhỏ cần thiết khi làm
bài và vận dụng hợp lý các thao tác lập luận trong một bài văn nghị luận.
III.9. Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo
thời gian ấn định.Giáo viên chấm bài, giúp học sinh phát huy ưu điểm và
khắc phục nhược điểm.
Trong bốn kĩ năng Nghe - nói - đọc - viết, kĩ năng nào cũng quan trọng.
Đối với học sinh, viết bài chính là một trong những kĩ năng quan trọng nhất. Bởi
vì học sinh có thể có kiến thức, hiểu biết rộng nhưng nếu không biết cách diễn
đạt những suy nghĩ, tình cảm và kiến thức của mình thì cũng khơng có hiệu quả.
Vì thế trong q trình bồi dưỡng tôi cũng quan tâm đến việc này. Tôi thường
dành riêng một số buổi học, ra đề bài để các em làm từ 150-180 phút. Đề bài tôi
ra thường khá linh hoạt về nội dung, nhưng đều giống với cấu trúc đề thi học
sinh giỏi những năm gần đây. Tôi cũng trực tiếp chấm bài, sửa lỗi cho các em.
Đây là cơ sở để tôi nắm bắt khả năng của học sinh trên nhiều phương

diện, từ cách hiểu đề, xác định yêu cầu của đề ra, tìm ý và lập dàn ý đến cách
hành văn trong một bài làm cụ thể. Năng lực viết và cảm thụ văn học của học
sinh cũng bộc lộ rõ từ đây.
Sau khi nhận bài của học sinh, tôi đọc thật kĩ từng phần. Sau đó tơi cảm
nhận bài của các em bằng tâm trạng thư thái, nâng niu trân trọng những phát
hiện, tìm tịi của học sinh. Tơi tìm những lỗi trong bài viết: Lỗi chính tả, lỗi viết
tắt, viết số khơng đúng qui định; lối thiếu ý, lỗi diễn đạt, lỗi hành văn, cách trình
bày...nếu học sinh mắc lỗi phần nào thì sẽ chữa phần đó. Tiếp dến, tơi nhận xét
một cách kĩ lưỡng, thấu đáo vào bài làm (Có khi cần thiết tôi viết cả câu hay
một đoạn vào bài để học sinh đối chiếu). Nhận xét bao giờ cũng phải chỉ được
ưu điểm, nhược điểm của học sinh trong bài làm, đồng thời vừa phải có tác dụng
động viên, nâng đỡ tinh thần để các em tự tin vào chính mình, biết phát huy
điểm mạnh, khắc phục điểm yếu trong những bài sau.
Có thể nói, chấm bài là một khâu công phu, vất vả nhưng rất quan trọng,
cần thiết để giúp học sinh tiến bộ. Tuy nhiên thời gian lên lớp giữa thầy và trị
khơng nhiều, nên giáo viên khơng thể cho học sinh làm được nhiều bài trên lớp
17


khi bồi dưỡng vì rất mất thời gian. Để khắc phục điều này giáo viên có thể tranh
thủ sau vài buổi học có thể cho các em một đề văn và yêu cầu các em về nhà viết
và đề nghị các em tự giác độc lập làm bài và tự giới hạn bài viết của mình trong
một thời gian cho phép nhất định. Điều đó sẽ rèn luyện cho các em rất nhiều về
tư duy viết, tốc độ viết...
III.10. Giáo viên gần gũi, quan tâm đến học sinh, thường xuyên động viên
học sinh bằng những lời chân thành, khích lệ các em cố gắng
Đây là một điều tưởng chừng không liên qua gì đến chun mơn nhưng
thực ra vơ cùng quan trọng và hiệu quả. Chính những lời động viên kịp thời, sự
khích lệ của giáo viên đã giúp học sinh cố gắng hết mình để học tập đạt kết quả
cao, khơng phụ lịng thầy cơ và gia đình, bè bạn.

Ngoài việc chú trọng cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng, tơi cịn chú
ý đến vấn đề khích lệ tinh thần cho học sinh. Tôi thường xuyên gặp gỡ, trao đổi,
tìm hiểu nguyện vọng mơ ước của các em. Tơi cịn tìm hiểu cả hồn cảnh gia
đình, cả những khúc mắc trong cuộc sống, những biến đổi về tâm lí, tình cảm...
( việc này dễ làm nhất với những học sinh lớp chủ nhiệm và lớp trực tiếp dạy).
Tơi cịn viết thư động viên, có lúc chỉ cần một mảnh giấy nho nhỏ, một tin
nhắn, hay chỉ đơn giản là gấp một con hạc giấy, một ngôi sao nhỏ tặng các em
kèm theo lời chúc may mắn...Nhưng thật bất ngờ, chính những việc làm đó lại là
nguồn động lực vô giá đối với học sinh trên con đường thi cử, thực hiện ước mơ,
và cả trong cuộc sống.
Tôi đã có những kỉ niệm thật xúc động về điều này. Năm học 2009 - 2010
tơi có một học sinh là Nguyễn Văn Dũng lớp 12C4 tham gia thi học sinh giỏi.
Em kể rằng : khi đọc đề xong em thấy không biết bắt đầu từ đâu và ngồi suy
nghĩ. Sau đó em viết lên tờ đề thi một cụm từ ngắn gọn là “ Vì cơ Chiên” rồi
dốc hết sức làm bài.Kết quả là em được giải khuyến khích.
Cũng trong năm học này có em Hứa Thị Mai, khi thi vịng cuối cùng vào
đội tuyển chính thức điểm của em gần như thấp nhất. Tuy nhiên căn cứ vào q
trình học tơi vẫn quyết định cho em vào. Tơi đã gần gũi động viên em rất nhiều.
Năm đó em đạt giải Nhì - giải cao nhất của đội tuyển tính đến thời điểm ấy. Và
cả khi đã là sinh viên, em vẫn gửi về những tình cả đầy yêu thương “ cô ơi, em
cảm ơn cô! Nhờ cô mà em mới có được sự tự tin và tinh thần chiến đấu để có
được thành cơng”.
Năm học 2010 - 2011, đội tuyển của tơi có em Nguyễn Thị Oanh lớp
12A5 bị sốt và lên thuỷ đậu đúng vào ngày thi. Em nhất định không bỏ thi dù
mặt đỏ bừng, bố mẹ và thầy cơ can ngăn. Em nói khi thi xong: “Cơ ơi em cũng
khơng biết mình viết gì nữa, em đã làm hết sức mình thơi cơ ạ ”. Kết quả em đạt
giải Ba.
Tôi luôn chân thành với học sinh và không hề coi nhẹ việc động viên các
em vì nó tạo nên hiệu quả khơng ngờ trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi và gắn
kết tình cảm giữa cơ và trị. Đến bây giờ tơi vẫn làm việc này một cách rất tự

nhiên và thường xuyên .
III.11. Gặp gỡ và truyền đạt một số bí quyết để học sinh có thể đạt giải
18


Trước khi đi thi khoảng một tuần, cả tổ sẽ gặp mặt đội tuyển và dành thời
gian liên hoan, tâm sự và ủng hộ cả vật chất lẫn tinh thần cho các em.
Các thầy cô vừa động viên vừa nhắc học sinh chuẩn bị những điều cần thiết:
- Trước khi thi:
+ Phải giữ cho tinh thần thoải mái.
+ Chủ động kiến thức.
+ Mang đồng hồ để căn chỉnh thời gian.
- Khi vào phịng thi:
+ Bình tĩnh, tự tin.
+ Khơng được bỏ cuộc kể cả khi gặp những câu quá bất ngờ.
+ Xác định đề, lập dàn ý trước khi viết; làm ngay câu nào mình thấy dễ hoặc
thấy thích hơn những câu khác; hoặc làm câu nhiều điểm trước.
+ Cố gắng làm trọn vẹn tất cả các câu, tránh việc chỉ làm một hay hai câu.
+ Chú ý dung lượng viết không quá ngắn hoặc quá dài.
+ Không được phân tâm khi thấy người bên cạnh xin giấy trước.
+ Chiến đấu hết mình, tiến lên phía trước, hướng đến thành công...

IV. KẾT QUẢ:
IV.1. Những kết quả ban đầu

19


Để có được những giải học sinh giỏi tỉnh, nhất là giải cao thì cịn phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố học sinh trong khâu xác định đề và viết

bài. Tuy nhiên, sau 06 năm áp dụng những giải pháp bồi dưỡng đội tuyển học
sinh giỏi , dù mức độ mỗi năm mỗi khác, nhưng nhìn chung tơi đã bước đầu thu
được những kết quả khả quan:
IV.1.1. Về phía học sinh
- Ngày càng nhiều học sinh chủ động, tích cực, hăng hái và sơi nổi tham
gia thi vào đội tuyển.Trong quá trình học đội tuyển,các em thể hiện sự hứng thú
rõ rệt, tin tưởng, lạc quan vào kết quả khi thi. Đặc biệt các em có một tinh thần
chiến đấu rất mạnh mẽ trong thi cử: làm bài hết sức mình.
- Ngồi kiến thức cơ bản, học sinh say sưa sưu tầm những kiến thức mới
làm cho vốn kiến thức ngày càng phong phú. Thành cơng hơn nữa là trong
những bài thi tập trung tồn trường ( thi học kì, thi học sinh giỏi, thi thử đại
học), hầu như các em trong đội tuyển đều đạt từ điểm 8 trở lên. Đây là điều tôi
thực sự rất hài lòng.
- Nếu như từ năm học 2006 - 2007 trở về trước, số lượng giải học sinh
giỏi tỉnh môn văn khá khiêm tốn, chỉ dao động từ 2 đến 4/10 giải thì từ khi áp
dụng các giải pháp của sáng kiến, nhìn chung số lượng và chất lượng giải ngày
càng tăng lên: Năm học 2008 - 2009 đạt 5/10 giải, năm học 2009 - 2010 đạt 8/10
giải, năm học 2010 - 2011 đạt 10/10 giải...
Chất lượng và kết quả của đội tuyển môn văn trường THPT Triệu Sơn 2 đã được
Sở Giáo dục Thanh Hoá và các trường bạn đánh giá cao. Đặc biệt là năm học
2010 - 2011 (Năm đó tơi và một đồng nghiệp nữa chịu trách nhiệm chính), đội
tuyển đạt 10/10 giải, xếp thứ 06/109 trường THPT trong tỉnh. Đây là một kết
quả rất đáng mừng, góp phần nâng cao uy tín, chất lượng giáo dục của nhà
trường nói riêng và tỉnh nhà nói chung.
- Những năm qua, các em trong đội tuyển khi thi đại học điểm văn khá
cao. Ví dụ kì thi ĐH năm 2010 lớp chủ nhiệm 12C4 có em Nguyễn Thuý Ngân
7,5điểm ( Đại học sư phạm I Hà Nội), em Ngơ Thị Thêm 8,0 điểm ( Học viện
hành chính quốc gia), em Nguyễn Văn Dũng 7,75 điểm ( ĐHKHXH và NV
TPHCM), em Hứa Thị Mai 8,0 điểm ( ĐH lao động xã hội), em Trần Thị Thảo
8,25 điểm ( Cao Đẳng Nội vụ)...Năm học 2010 – 2011 lớp 12A5 của tơi dạy có

5 em đạt giải, khi thi đại học số điểm văn cũng rất cao: Lê Thị Huyền 8,0 điểm (
ĐH ngoại ngữ Đà Nẵng), Mai Thị Lạng 8,0 điểm( ĐH kinh tế - luật tp HCM),
Nguyễn Thị Oanh 7,5 điểm ( ĐH thương mại), Nguyễn Thị Nguyệt 8,0 điểm,
Nguyễn Thị Tuyên 7,5 điểm...
- Một số học sinh cịn tham gia viết bài gửi các báo, tạp chí như Văn học và tuổi
trẻ; Mực tím; Hoa học trị...và đã được nhận nhuận bút. Khi sửa bài cho học
sinh, tôi vui mừng nhận ra khả năng cảm thụ, thẩm bình thơ văn của các em đã
tiến bộ rất nhiều...
IV.1.2.Về phía giáo viên.

20


Về thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong nhà trường đã
mang lại những kết quả rõ rệt:
- Bản thân tơi ngày càng có được sự chủ động, mạnh dạn về kiến thức, ít
gặp những khó khăn lúng túng và vướng mắc như trước đây. Kinh nghiệm dạy
học ngày càng dầy lên, kiến thức được củng cố mở rộng.
- Tơi nhận thấy tình cảm giữa cơ và trị ngày càng gắn kết, gần gũi hơn.
- Tôi đã thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp về cách làm và được đồng
nghiệp yêu mến, Ban giám hiệu tin tưởng. Tất cả các giáo viên trong nhà trường
đều nhất trí rằng đây là một sáng kiến kinh nghiệm có tính thiết thực, tính hiệu
quả cao.
- Bản thân tơi cũng cảm thấy vui mừng và yêu nghề hơn, tự tin khi thấy
mình đi đúng hướng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh, nhất là
trong thời điểm hiện tại khi xu thế xã hội thiên về những môn tự nhiên và những
mơn “thời thượng” thì sáng kiến kinh nghiệm này như củng cố thêm niềm tin và
sức mạnh cho những giáo viên Ngữ văn chúng tôi tiếp tục bền bỉ phấn đấu và cố
gắng vì sự nghiệp trồng người cao cả.
IV. 2. Một số lưu ý khi thực hiện

- Để đạt kết quả tốt thì cả giáo viên và học sinh đều phải cố gắng, nỗ lực
hết mình. Giáo viên phải phối hợp với đồng nghiệp trong tổ để thực hiện, nhưng
người bồi dưỡng đóng vai trị chủ chốt và chịu trách nhiệm chính.
- Khi lựa chọn học sinh vào đội tuyển, nên chọn những em theo khối C,
D; yêu thích, tự nguyện vào đội tuyển, chỉ chú trọng chất lượng, khơng chú
trọng số lượng.
- Tuỳ vào tình hình, đặc điểm học sinh trong đội tuyển mỗi năm mỗi khác
mà có thể lựa chọn nội dung, giải pháp, thời gian bồi dưỡng đối với từng chuyên
đề thích hợp...

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
I. KÊT LUẬN

21


Dạy học là một nghệ thuật. Để có được kết quả thành cơng tốt đẹp thì mỗi
người giáo viên phải ln tìm tịi, sáng tạo, trăn trở và nỗ lực không ngừng với
nhiều cách thức và phương pháp tối ưu nhất theo mình để giảng dạy, bồi dưỡng
cho các em.
Phương pháp giảng dạy thì phong phú, kiến thức văn chương thì rộng
lớn,nhất là kiến thức gắn với yêu cầu đề thi của học sinh giỏi. Vì vậy trong giới
hạn của chuyên đề này, tôi chỉ khiêm tốn đưa ra một vài suy nghĩ về kinh
nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả mà tơi đã từng bước trải nghiệm
thực tế. Hy vọng rằng những nội dung trong chuyên đề này sẽ là những thông tin
để các đồng nghiệp trao đổi, thảo luận và rút ra được những kinh nghiệm thực sự
quý báu trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi - một công tác rất đỗi nặng nề
nhưng rất vinh dự của người giáo viên.
II. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
- Đối với các cấp có thẩm quyền: Khơi phục lại chế độ ưu đãi cho học

sinh giỏi các cấp, nhất là học sinh giỏi quốc gia để các em có động lực phấn đấu
rõ ràng hơn.
- Đối với nhà trưòng: Quan tâm đồng bộ và sâu sắc hơn nữa trong việc
đào tạo, bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi Ngữ văn; có giải pháp tài chính hỗ
trợ cơng tác bồi dưỡng; chọn những giáo viên nhiệt tình, tâm huyết dạy bồi
dưỡng học sinh giỏi hoặc chủ nhiệm lớp khối C, D để phát hiện những học sinh
có tố chất, tạo nguồn cho đội tuyển. Tăng cường gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy với giáo viên trường khác ở trong huyện, tỉnh và cả tỉnh ngoài
để giáo viên văn có điều kiện học hỏi được những phương pháp tốt, góp phần
vào việc nâng cao chất lượng dạy và học cho nhà trường nói riêng, cho ngành
giáo dục nói chung...
Do thời gian có hạn, kinh nghiệm chưa nhiều mà kiến thức và sự cảm
nhận văn học thì vơ cùng nên chun đề khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi
rất mong nhận được sự đóng góp của q thầy cô, nhất là những thầy cô trong
cùng bộ môn Ngữ văn để sáng kiến có thể phát huy tính ứng dụng, tính hiệu quả
một cách phổ biến.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hố, ngày 24/4/2013
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Hoàng Thị Chiên
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

22


- 18 chuyên đề văn PTTH ( Nguyễn Thị Hòa, nhà xuất bản TP Hồ Chí

Minh 1999)
- Các đề thi tuyển sinh đại học cao đẳng môn văn - Bộ giáo dục.
- Muốn viết được bài văn hay ( Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên)
- Một số suy nghĩ về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi ( Phạm Quang
Đức)
- Những bài làm làm văn chọn học sinh giỏi quốc gia ( Vũ Tiến Quỳnh)
- Tạp chí Văn học và tuổi trẻ.
- Tuyển tập 10 năm đề thi Ô-lim-pich 30- 4 môn văn.

23



×