Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử ở trường THCS chu văn an nga sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.93 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ 9
Ở TRƯỜNG THCS CHU VĂN AN - NGA SƠN

Người thực hiện: Mai Thị Hiên
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: THCS Chu Văn An
SKKN thuộc lĩnh vực: Lịch sử

THANH HÓA, NĂM 2019

1


MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1.Những hoạt động tự nhận thức khi nghe giáo viên giảng bài
2.3.2. Tự học sách giáo khoa
2.3.3. Tự sưu tầm tranh ảnh, tư liệu... ngoài sách giáo khoa có
nội dung phù hợp.
2.3.4 Tự học bằng việc lập bản đồ tư duy.
2.3.5. Tự học trong các tiết học ngoại khóa trong trường .
2.3.6. Tự học trong Công tác công ích xã hội .
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị .
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
4
7
8
11
12

14
14
15
15
15

1. Mở đầu
2


1.1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa 11 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong các nhà trường đã và đang xây dựng một
phong trào đổi mới cách dạy và cách học theo tinh thần của Nghị quyết 29/NQ-TW.
Đổi mới phương pháp dạy học với tinh thần đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện
đại, phát huy khả năng sáng tạo trong việc vận dụng các phương pháp dạy học mới,
kết hợp hài hòa với phương pháp dạy học truyền thống để có giờ dạy đạt hiệu quả và
chất lượng. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, vận dụng kiến thức, kĩ năng
của học sinh. Dạy cách học, cách nghĩ để giải quyết vấn đề, tự tìm ra con đường
nhanh nhất cho bản thân trong quá trình tiếp thu kiến thức.
Thực trạng dạy học môn Lịch sử trong các trường THCS hiện nay gặp phải
nhiều khó khăn. Môn Lịch sử lớp 9 có khối lượng kiến thức tương đối nhiều. Nội
dung lịch sử trong một năm học bao gồm cả phần lịch sử Việt Nam và lịch sử thế
giới, với nhiều sự kiện, nhiều chuỗi kiến thức, phần đông học sinh không thích học
lịch sử vì đây là môn học được các em coi là rất khó, lại là môn học phụ, nên việc dạy
học lịch sử của giáo viên trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
Do đó, muốn phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử trong việc
giáo dục học sinh, cần đổi mới, sáng tạo phương pháp dạy học nâng cao hiệu quả dạy

học. Đổi mới, sáng tạo phương pháp giảng dạy Lịch sử là hết sức quan trọng và cần
thiết giúp học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo, giúp các em không chỉ nhớ kiến
thức, mà biết vận dụng kiến thức vào thực tế. Muốn làm được điều đó người giáo
viên phải khơi dậy cho học sinh niềm đam mê, yêu thích môn học, phải biến kiến
thức lịch sử xa xưa trở nên gần gũi, thực tế, phải làm sống dậy quá khứ hào hùng
oanh liệt của thế hệ cha anh, phải biết “đau” trước cảnh đất nước lầm than, nhân dân
cơ cực,… Nói cách khác, giáo dục lịch sử không nên chỉ đặt nặng trọng tâm vào kiến
thức, mà cần chú trọng việc khơi dậy đam mê của học sinh, kích thích sự hứng thú,
sáng tạo để các em có thể tự tìm kiếm kiến thức ở nhà trường, kiến thức ngoài xã hội.
Mỗi học sinh có thể thấy rằng mỗi ngày đến trường, mỗi một bài học lịch sử đều có
ích, giúp người học nhận ra những năng lực riêng của mình.
Trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử lớp 9, đây là giai đoạn lịch sử có nhiều bước
ngoặt quan trọng, giáo viên có thể áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực để truyền đạt bài giảng có hiệu quả như phương pháp phát vấn, hoạt động
nhóm... kết hợp với đồ dùng trực quan như tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ, sa bàn, phim tài
liệu... nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học. Tuy nhiên, tôi nhận thấy việc giúp học
sinh tự học lịch sử dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ có giá trị thực tiễn cao, không
chỉ bồi đắp kiến thức mà cả tâm hồn cho học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học môn
3


Lịch sử. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tôi quyết định chọn đề tài “Một số
phương pháp nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử 9 ở trường THCS” nhằm
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch sử 9 trong nhà trường
THCS.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện việc đổi mới sáng tạo trong dạy và học môn Lịch sử tại Trường
THCS Chu Văn An, thông qua phương pháp phát triển khả năng tự học của học sinh
trong việc tự nhận thức khi nghe giáo viên giảng bài, tự học sách giáo khoa, tự sưu
tầm bản đồ, tranh ảnh, tư liệu ngoài sách giáo khoa, biết cách tự lập bản đồ tư duy, tự

học trong công tác công ích xã hội và trong các tiết học ngoại khóa. Khi giáo viên sử
dụng các phương pháp trên trong các nội dung của bài học lịch sử sẽ phát huy được
tính tích cực chủ động của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: các phương pháp giúp học sinh tự học lịch sử dưới sự
hướng dẫn của giáo viên trong nội dung giảng dạy lịch sử lớp 9 ở trường THCS Chu
Văn An.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp định
lượng, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, …
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh tự giác chủ động trong mọi hoạt động dưới sự yêu cầu hướng dẫn của
giáo viên: nghiên cứu sách giáo khoa, soạn bài mới, chuẩn bị phương tiện hỗ trợ
trước khi đến lớp; học sinh tự thiết kế và làm việc với bản đồ tư duy; sử dụng các ca
khúc cách mạng trong giảng dạy lịch sử; lồng ghép chương trình ngoại khóa vào tiết
lịch sử địa phương.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến
Việc rèn luyện phương pháp tự học cho HS không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh
học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học
phần sau đã quên phần trước, học thuộc kiến thức một cách chi tiết nhưng khi hỏi
nội dung kiến thức bao trùm thì không trả lời được, không biết liên kết các kiến
thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau.
Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự
ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Vì vậy, việc
đi sâu vào hoạt động tự học của học sinh trong dạy học sẽ giúp các em học được
4



phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy của bản
thân
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trước khi thực hiện đề tài này tôi đã khảo sát chất lượng của học sinh môn Lịch
sử lớp 9 tại trường THCS Chu Văn An và thu được kết quả như sau:
Lớp
9A
9B
Tổng

Tổng
số
41
39
80

Giỏi
SL
4
2
6

%
9.8
5.1
7.5

Trung
bình

%
SL
%
26.8 15 36.6
17.9 15 38.5
22.5 30
37.5

Khá
SL
11
7
18

Yếu
SL
10
13
23

%
24.3
33.3
28.8

Kém
SL
1
2
3


%
2.4
5.1
3.8

Bảng 1: Kết quả khảo sát cuối năm học 2016-2017
Thông qua bài kiểm tra, tôi nhận thấy những sai sót của học sinh:
- Học sinh thường trả lời câu hỏi bằng cách sao chép nguyên xi sách giáo khoa,
trình bày lủng củng, chưa có tính độc lập tư duy.
- Học sinh trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày) còn một số
câu hỏi mang tính tổng hợp, phân tích, so sánh, nhận xét, rút ra ý nghĩa, liên hệ thực
tế... thì còn rất lúng túng hoặc chung chung, rất ít học sinh giành được điểm ở phần
câu hỏi mang tính tư duy độc lập làm chủ kiến thức
- Đa số học sinh cho rằng lịch sử là bộ môn phụ, lại khó học nên tâm lý các em
không thích bộ môn và cũng không giành nhiều thời gian học cho môn học này.
- Vì lượng kiến thức trong các tiết học tương đối nhiều, lại kèm theo nhiều sự
kiện lịch sử cùng với các mốc thời gian, số tiết làm bài tập thì không có trong chương
trình như các khối dưới, nên giáo viên cũng không có nhiều thời gian để dẫn dắt học
sinh rèn luyện kĩ năng trình bày suy nghĩ của mình thông qua lời nói nhằm phát triển
khả năng đàm thoại trước mọi người
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Căn cứ vào tình hình thực tế trên, vấn đề đặt ra với giáo viên là làm như thế nào
để giúp học sinh hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản chất của sự kiện, từ đó
các em thấy được lịch sử là môn học bổ ích, dễ hiểu, các em sẽ trở nên yêu thích môn
học, tự giác học tập, luôn tìm tòi và sáng tạo. Muốn vậy, trong các tiết giảng dạy, giáo
viên cần khuyến khích năng lực tự học của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên
thông qua những hoạt động độc lập chủ yếu của học sinh như sau:
2.3.1.Những hoạt động tự nhận thức khi nghe giáo viên giảng bài
a) Sử dụng sách giáo khoa trên lớp:

Trước giờ học, học sinh có thể đã đọc bài viết trong sách giáo khoa ở nhà theo sự
hướng dẫn của giáo viên. Vì vậy, trong quá trình giáo viên trình bày, học sinh kết hợp
5


theo dõi bài giảng và bài viết trong sách giáo khoa. Do đó ở trên lớp, giáo viên không
nên trình bày lại sách giáo khoa, điều đó làm mất hứng thú của học sinh khiến các em
có suy nghĩ: ở trong sách đã có cả rồi nên không cần ghi chép hay lắng nghe và suy
nghĩ. Đôi khi nên cho học sinh đọc to, cả lớp cùng nghe một đoạn trong sách giáo
khoa để thay cho phần trình bày tài liệu mới, nếu phần đó chỉ cần thông tin tài liệu
mới. Cũng có thể giáo viên để cả lớp tự đọc một đoạn trong sách rồi đặt câu hỏi cho
học sinh trả lời.
Điều quan trọng trong việc sử dụng sách giáo khoa trên lớp là giáo viên hướng
dẫn học sinh nắm vững những nội dung quan trọng cần ghi nhớ, phân tích những sự
kiện cơ bản, rút ra kết luận khái quát, trả lời câu hỏi đặt ra. Giáo viên phải làm cho
học sinh thấy được sự thống nhất giữa bài giảng với sách giáo khoa, hiểu được ý đồ
của thầy khi bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa để làm nổi bật kiến thức cơ bản.
Từ đó, học sinh tự lập dàn ý ghi chép, hiểu lôgic phát triển lịch sử. Việc ghi dàn ý
trên bảng đen có ý nghĩa quan trọng để học sinh theo dõi nội dung sách giáo khoa, bài
giảng và tự học ở nhà.
Bài giảng tốt của giáo viên không phải chỉ giúp cho học sinh ghi chép đầy đủ mà
động viên tính tích cực tư duy của các em trong khi nghe giảng, tự mình lựa chọn vấn
đề để ghi chép theo dàn ý trên bảng và tự đặt ra những vấn đề để giải quyết trên lớp
hay tiếp tục suy nghĩ ở nhà.
Ví dụ: Khi dạy sử 9- Tiết 13- Bài 11- Mục I-Sự hình thành trật tự thế giới mới.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi vào sách giáo khoa và cho biết:
? Hội nghị Ianta(Liên Xô) được triệu tập trong hoàn cảnh nào
+ Khi học sinh trả lời, giáo viên kết hợp ghi bảng ngắn gọn sự kiện:
- Từ ngày 4 -> 11/2/1945 hội nghị Ianta được triệu tập
+ Sau đó giáo viên tiếp tục hỏi:

? Tại sao hội nghị chỉ có sự tham gia của nguyên thủ 3 cường quốc
Đây là câu hỏi yêu cầu các em nhớ lại giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh thế
giới II, để thấy được sự thắng thế của phe đồng minh chống phát xít. Các em sẽ thấy
được vai trò và sức mạnh của các cường quốc trong thế chiến II và đặc biệt là vai trò
của Liên Xô đối với nhân loại
+ Tiếp đó GV yêu cầu một HS đọc to phần chữ nhỏ trong SGK trang 45 cho cả
lớp nghe
+ Sau đó GV hỏi câu hỏi cuối tiểu mục trong SGK:
? Hội nghị Ian ta đã có những quyết định nào và hệ quả của các quyết định đó.
Đây là lọai câu hỏi thông thường, HS rất dễ trả lời nếu các em theo dõi vào SGK
+ Trong khi học sinh trả lời, giáo viên kết hợp ghi bảng ngắn gọn sự kiện:
- Nội dung: phân chia khu vực ảnh hưởng (sgk)
-> Xác lập Trật tự hai cực Ianta
6


+ Sau đó giáo viên nêu câu hỏi đòi hỏi tư duy độc lập của HS:
? Tại sao những thỏa thuận quy định trong hội nghị đã trở thành khuôn khổ của
một trật tự thế giới mới ( em hiểu như thế nào là “trật tự”, “khuôn khổ”)
? Tại sao gọi là trật tự hai cực do Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi cực
Đối với hai câu hỏi trên, nếu HS không thể trả lời ngay thì GV cần đưa ra các
câu hỏi gợi mở, hoặc lấy những ví dụ đơn giản, gần gũi, để các đôí tượng HS đều dễ
hình dung và đưa ra câu trả lời. Từ đó, GV kết luận nội dung của tiểu mục và dẫn dắt
sang tiểu mục mới.
Với cách dạy như trên, học sinh sẽ không bị nhàm chán bởi giáo viên chỉ tập
trung nói lại và ghi lại những kiến thức đã có trong SGK, các em sẽ được làm việc
tích cực bằng chính tư duy của mình để lí giải cho những kiến thức mà SGK đã cung
cấp, đồng thời kết hợp ghi dàn ý vào vở như giáo viên đã ghi trên bảng, ngoài ra các
em còn có thời gian để ghi thêm một số kiến thức mà các em cảm thấy quan trọng cần
phải lưu lại .

b) Ghi bài trên lớp:
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép trên lớp ở những công việc sau:
* Thứ nhất, ghi dàn bài học, theo dàn bài của giáo viên trên bảng đen và đối
chiếu khi theo dõi sách giáo khoa để ghi những sự kiện chính.
* Thứ hai, vẽ lại trong vở ghi những hình vẽ giáo viên trình bày trên bảng đen để
minh hoạ cho bài giảng (những hình vẽ đơn giản song có nội dung kiến thức).
Ví dụ: Khi dạy tiết 19-Bài 16- MụcII Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô(1923-1924).
Khi GV nói đến sự kiện:Nguyễn Ái Quốc trình bày quan điểm về mối quan hệ
giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa.
GV minh họa bằng hình vẽ đơn giản kết hợp với trình bày hình vẽ: chủ nghĩa đế
quốc được Nguyễn Ái Quốc ví như con đỉa hai vòi, một vòi hút máu (bóc lột) giai
cấp công nhân ở chính quốc, một vòi hút máu của nhân dân các nước thuộc địa, vì
vậy muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc thì công nhân ở chính quốc phải đoàn kết với
nhân dân lao động thuộc địa chặt đứt hai vòi của nó, có như vậy mới tiêu diệt được kẻ
thù chung của giai cấp công nhân ở chính quốc và nhân dân các nước thuộc địa
Chủ nghĩa đế quốc

Phong trào công nhân
+
Phong trào cách mạng
( chính quốc)
(thuộc địa)
* Thứ ba, ghi lại số liệu, niên đại quan trọng, lập các niên biểu, đồ thị (theo bài
giảng giáo viên).
7


Ví dụ: Sau khi dạy xong Tiết 44-Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ,
cứu nước (1965-1973). Giáo viên hướng dẫn HS lập niên biểu hệ thống lại các giai

đoạn lịch sử của cách mạng 2 miền với những nhiệm vụ cơ bản nhất từ 1954 đến
1973:
Giai đoạn
Cách mạng miến Bắc
Cách mạng miền Nam
Từ 1954-1960 Hoàn thành cải cách ruộng -Đấu tranh chống Mĩ-Diệm,
đất
giữ gìn và phát triển lực
lương.
-“Đồng khởi” thắng lợi
Từ 1961-1965 Thực hiện kế hoạch nhà nước Đấu tranh chống chiến lược
5 năm nhằm bước đầu xây “Chiến tranh đặc biệt” của
dựng cơ sở vật chất cho Mĩ
CNXH
Từ 1965-1968 Vừa chiến đấu chống chiến Đấu tranh chống chiến lược
tranh phá hoại lần thứ nhất “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
của Mĩ, vừa sản xuất thực
hiện nghĩa vụ hậu phương
Từ 1969-1973 -Khôi phục và phát triển kinh Đấu tranh chống chiến lược
tế-văn hóa
“Việt Nam hóa chiến tranh”
- Chiến đấu chống chiến và “Đông Dương hóa chiến
tranh phá hoại lần thứ hai, tranh” của Mĩ
vừa sản xuất và làm nghĩa vụ
hậu phương
Bảng niên biểu này giúp các em hệ thống được kiến thức trong suốt chặng
đường dài của lịch sử thời kì đất nước bị chia cắt thành hai miền, các em sẽ không bị
lẫn lộn nhiệm vụ của mỗi miền trong mỗi giai đoạn lịch sử
* Thứ tư, ghi các tài liệu lịch sử gốc, câu nói nổi tiếng của các danh nhân, câu
trích trong tác phẩm các tác gia kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí

Minh, văn kiện Đảng và Nhà nước... ghi chép phải liên hệ sự kiện đang học với câu
trích.
* Thứ năm, ghi các từ mới, các thuật ngữ sử học thường dùng để hiểu nội dung
các khái niệm, các kiến thức cơ bản trong bài.
Cuối cùng, ghi lời hướng dẫn, dặn dò của giáo viên về việc tự học ở nhà.
2.3.2. Tự học sách giáo khoa
Việc tự học SGK thường được thực hiện khi giáo viên yêu cầu các em về nhà
chuẩn bị bài cho tiết học sau. Tuy nhiên để các em chuẩn bị bài thường xuyên và đầy
đủ thì giáo viên nên yêu cầu học sinh có vở soạn bài ở nhà trước khi đến lớp. Điều
này có tác dụng tích cực đến ý thức, thái độ học tập của học sinh, các em được chuẩn
bị bài ở nhà trước nên khi giáo viên dạy bài mới thì các em đã nắm được kiến thức cơ
bản trong SGK thông qua việc trả lời các câu hỏi ở cuối mỗi tiểu mục và cuối SGK.
Đặc biệt hơn nữa, hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các
8


em đã có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tìm hiểu các thuật ngữ, tìm
kiếm các nguồn tư liệu, giải thích những kiến thức các em còn băn khoăn. Điều đó sẽ
khiến các em không cảm thấy nặng nhọc bởi vừa phải làm quen với hàng loạt kiến
thức mới trong SGK, vừa phải độc lập tư duy giải quyết vấn đề GV đặt ra, vừa phải
kết hợp ghi dàn ý theo bảng đen, lại còn tranh thủ ghi chép tích lũy thêm những kiến
thức nâng cao. Thực tế các em đã được chuẩn bị bài từ trước, nên giờ học trên lớp sẽ
không còn nặng nề, quá tải, ngược lại giờ học trên lớp sẽ giúp các em nhanh chóng
lĩnh hội và khắc sâu kiến thức của tiết học
Để giúp học sinh tự học theo kiến thức trong SGK, giáo viên cần hướng dẫn các
em thực hiện các bước như sau:
* Đọc và tự ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết.
* Ghi lại những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm lịch sử.
* Hoàn thành, câu hỏi bài tập trong sách.
* Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh trong sách giáo khoa như tìm hiểu nội dung

và trình bày diễn biến lịch sử theo bản đồ, tranh ảnh, rút ra nhận xét…
Tất cả những công việc giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà đều được giáo
viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá và cho điểm vào đầu giờ học. Như vậy, việc
chuẩn bị bài trước khi đến lớp của bộ môn sẽ trở thành thói quen tốt, giúp các em
không ngừng tìm tòi nâng cao hiểu biết, không bị giới hạn bởi những kiến thức trong
SGK
Ví dụ: Khi dạy sử 9- Tiết 14- Bài 13- Mục I-Những thành tựu chủ yếu của cách
mạng khoa học -kĩ thuật
- HS cần ghi lại ngắn gọn các nội dung cơ bản:
+ Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học cơ bản
+ Những phát minh về công cụ sản xuất mới
+ Tìm ra những nguồn năng lượng mới
+ Sáng chế ra những vật liệu mới
+ Cách mạng xanh trong nông nghiệp
+ Tiến bộ trong giao thông vận tải, thông tin liên lạc
+ Thành tựu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ
- Vì đây là phần kiến thức mang tính tổng hợp của các nghành khoa học nên có
nhiều khái niệm khó hiểu. Vì vậy các em cần ghi lại những nội dung khó hiểu để tìm
câu trả lời, trong trường hợp các em không thể tìm được câu trả lời thì giờ học ở trên
lớp sẽ là mong đợi của các em để các em có thể tìm thấy đáp án dưới sự chỉ dẫn của
giáo viên hoặc thông qua sự hiểu biết của các bạn trong lớp.
- Câu hỏi cuối tiểu mục I: Cuộc cách mạng khoa học-kĩ thuật trong thời gian
gần đây có những thành tựu nào quan trọng đáng chú ý?
Đối với câu hỏi này, tất cả các đối tượng HS đều có thể trả lời vì các em đã tóm
tắt được những vấn đề cơ bản trước đó. HS cũng sẽ trả lời được một cách cụ thể chi
tiết thành tựu của mỗi lĩnh vực dựa vào SGK nếu như GV yêu cầu.
9


- Trong mục này có nhiều kênh hình (chưa kể đến HS tự sưu tầm thêm ), tuy

nhiên HS cần nêu được nội dung của các hình 24, 25, 26 (SGK)
Hình 24: Cừu Đôli, động vật đầu tiên ra đời bằng phương pháp sinh sản vô tính
từ tế bào lấy từ tuyến vú của một con cừu đang mang thai
Hình 25: Năng lượng xanh (điện mặt trời) ở Nhật Bản. Là một nước nghèo tài
nguyên, Nhật Bản đã sớm áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến để tận
dụng ánh sáng mặt trời phát minh ra điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt
Hình 26: Năm 1969, Astrong nhà du hành vũ trụ người Mĩ là người đầu tiên
trong lịch sử nhân loại đã đặt chân lên mặt trăng
2.3.3. Tự sưu tầm tranh ảnh, tư liệu... ngoài sách giáo khoa có nội dung phù
hợp
Việc sưu tầm này dựa trên cơ sở những kiến thức trong SGK, giáo viên yêu cầu
học sinh sưu tầm ở nhà để dùng minh họa cho tiết học ở trên lớp. Giáo viên hướng
dẫn học sinh thực hiện theo các bước sau:
* Lựa chọn những vấn đề cơ bản cần được làm nổi bật bằng các nguồn tư liệu
(các nguồn tư liệu này có thể tìm trong các loại sách báo cũ có liên quan, trên internet
hoặc trong các môn học liên môn)
Ví dụ: Trong Tiết 25 - Bài 22(lịch sử 9): “Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi
nghĩa tháng tám năm 1945”. Khi dạy mục “ I. Mặt trận Việt Minh ra đời
(19/5/1941)” Giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tài liệu nói về sự kiện Nguyễn Ái
Quốc trở về sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước. Học sinh có thể sẽ những nguồn
tư liệu khác nhau, tuy nhiên giáo viên cần chọn lọc trong số đó nguồn tư liệu phù
hợp, và nếu trường hợp trong số những tư liệu học sinh đã chuẩn bị nhưng không có
nội dung phù hợp, thì giáo viên sẽ sử dụng nguồn tư liệu mà giáo viên đã chuẩn bị để
giới thiệu cho học sinh như sử dụng bài thơ “Người đi tìm hình của nước”(Tác giả:
Chế Lan Viên)
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ

Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương…
…Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa đông băng gía
Và sương mù thành Luân Đôn có nhớ
Giọt mồ hôi người nhỏ giữa đêm khuya.
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do những trời nô lệ
10


Những con đường cách mạng đang tìm đi
Đêm mơ nước ngày thấy hình của Nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ôi đường đến với Lê Nin là đường về tổ quốc
Tuyết Mát cơ va sáng ấy lạnh trăm lần
Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt
Lê Nin mất rồi nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lê Nin theo người về quê Việt
Biên giới còn xa nhưng Bác đã đến rồi
Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai
Qua bài thơ, học sinh sẽ xây dựng trong tâm trí mình chân dung về nhân vật lịch
sử mà tên tuổi đã trở thành huyền thoại, một hình tượng nghệ thuật có sức rung động
và toả sáng mạnh mẽ, một tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí cương quyết đi tìm ra
hình dáng cho đất nước Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam. Thông qua nội dung bài
thơ, học sinh cũng đã khái quát được con đường và hoàn cảnh và con đường ra đi tìm
đường cứu nước các em đã được học trong chương trình lịch sử 8, đồng thời cũng
thấy được kết quả của hành trình ra đi tìm đường cứu nước mà các em chuẩn bị tìm

hiểu ngay trong tiết học.
* Ghi tóm lược những nội dung quan trọng có tác dụng bổ sung cho bài học
trong sách giáo khoa, hoặc lưu lại những tranh ảnh hay lược đồ có thể minh hoạ cho
kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết
Ví dụ: Để chuẩn bị cho học sử 9-Tiết 7-Bài 6: Các nước châu Phi. Trong mục I,
GV yêu cầu học sinh chuẩn bị hình ảnh minh họa cho tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở
châu Phi. Hoặc trong mục II, GV yêu cầu HS tìm hình ảnh minh họa cho sự tàn bạo
của chế độ phân biệt chủng tộc mà chính quyền thực dân da trắng đã làm đối với
nhân dân Nam Phi. Trong trường hợp HS đã chuẩn bị hình ảnh minh họa nhưng chưa
thực sự sát với nội dung GV yêu cầu nên GV cũng phải chuẩn bị trước từ nhà và hỗ
trợ hình ảnh cho các em khi cần thiết

11


Đôi dép của người châu Phi được làm từ vỏ chai nước khoáng

“Một người thoát chết trong nạn diệt chủng đang khấn trước
đầu lâu của các nạn nhân”
12


Một người thoát chết trong nạn diệt chủng đang khấn trước đầu lâu
của các nạn nhân

* Dựa trên các nguồn tư liệu đó, học sinh tích cực tư duy bằng cách tự đặt ra
những vấn đề cần giải quyết giúp nâng cao kiến thức.
Ví dụ: Qua việc quan sát bức ảnh “Một người thoát chết trong nạn diệt chủng
đang khấn trước đầu lâu của các nạn nhân”, em có nhận xét gì về chế độ phân biệt
chủng tộc mà chính quyền da trắng đã áp dụng ở Cộng hòa Nam Phi?

2.3.4 Tự học bằng việc lập bản đồ tư duy.
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp sử dụng
đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng
và đào sâu các ý tưởng. Đặc biệt bản đồ tư duy là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ,
chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ
một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng
một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng bản đồ tư duy theo một
cách riêng. Do đó, bản đồ tư duy không chỉ do giáo viên lập ra để làm phương tiện
dạy học mà giáo viên cần hướng dẫn cho chính các em biết cách chủ động việc lập
bản đồ tư duy nhằm phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của học sinh. Như vậy,
chúng ta áp dụng dạy bản đồ tư duy được ở nhiều dạng bài: kiểm tra bài cũ, học bài
mới, ôn tập, hệ thống chương hoặc giai đoạn, làm bài tập lịch sử, củng cố bài. Giáo
viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư
duy: (Nội dung chìa khóa là cây
cành
nhánh) từ đó học sinh mở rộng,
phát triển thêm.)
Thực hiện dạy học bằng cách lập BĐTD được tóm tắt qua 4 bước như sau:
- Bước 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của
giáo viên.
- Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết
minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
- Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến
thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn
chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
- Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc
một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày,
thuyết minh về kiến thức đó.
Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng

bản đồ tư duy.

13


(Lư
u ý: - BĐTD là một sơ đồ mở, GV yêu cầu các nhóm HS nên vẽ các kiểu BĐTD khác
nhau, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ,
màu sắc và hình thức, cấu trúc (nếu cần)).
- Ghi bảng: Giáo viên tóm tắt bài học bằng một sơ đồ kiến thức (Dàn bài).
2.3.5. Tự học trong các tiết học ngoại khóa trong trường
Trong chương trình lịch sử 9 không có tiết học dành cho hoạt động ngoại khóa,
vì vậy giáo viên có thể lồng ghép hoạt động này vào tiết sử địa phương. Tuy nhiên
thời gian giành cho chương trình địa phương cũng rất hạn hẹp(2 tiết/năm), nên giáo
viên chỉ có thể sử dụng hình thức ngoại khóa bằng những công việc của từng cá nhân
hay một nhóm nhỏ. Có rất nhiều hình thức ngoại khóa trong tiết học:
- Kể chuyện: nhằm giúp học sinh rèn luyện kĩ năng kể lại vắn tắt nội dung một
sự kiện lịch sử, một câu chuyện hay một cuốn sách
- Đàm thoại: bày tỏ ý kiến của mình để củng cố kiến thức, lòng tin sau khi đọc,
nghe kể, thảo luận về câu chuyện lịch sử
- Hát các ca khúc cách mạng....
Ví dụ: khi dạy tiết 47(lịch sử 9): Sử địa phương: “Thanh Hóa trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ”, giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu bài trước
ở nhà và sưu tầm các tư liệu, mẩu chuyện, tranh ảnh, các ca khúc về những sự kiện ,
nhân vật lịch sử của quê hương Thanh Hóa trong hai cuộc kháng chiến
Trong bài giảng, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh kể chuyện về những tấm gương
yêu nước của nhân dân Thanh Hóa qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ. Tuy nhiên giáo viên cần định hướng để các em tập trung vào hai nhân vật anh
hùng têu biểu trong hai cuộc kháng chiến là anh Tô Vĩnh Diện và bà Ngô Thị Tuyển
– “Người phụ nữ khỏe nhất Việt Nam”. Sau khi học sinh kể chuyện, giáo viên

hướng dẫn các đối tượng học sinh trong lớp cùng trao đổi, đàm thoại về những tấm
gương đã hi sinh anh dũng vì độc lập dân tộc. Tứ đó để các em hình thành ý thức
trách nhiệm của bản thân trong học tập và xây dựng quê hương đất nước
14


Bên cạnh đó, giáo viên kết hợp yêu cầu các nhóm học sinh cử đại diện nhóm lên
trưng bày, giới thiệu một số tranh ảnh đã sưu tầm ở nhà một cách có chọn lọc phù
hợp với thời gian của tiết học
Đặc biệt, trong tiết dạy lịch sử, việc sử dụng âm nhạc là một cách có tác dụng rất
lớn. Khi dạy tiết 47- Sử địa phương (lịch sử 9) giáo viên có thể sử dụng Ca khúc “
Chào sông Mã anh hùng” của nhạc sĩ Xuân Giao để học sinh thưởng thức làm cho
bài giảng thêm sống động.
Ca khúc “ Chào sông Mã anh hùng” của nhạc sĩ Xuân Giao đã làm hàng triệu
người Việt xao xuyến khi nghe bài hát. Chiến tranh leo thang của giặc Mỹ lan rộng
khắp miền bắc, tuyến lửa Hàm Rồng Nam Ngạn- là một trọng điểm đánh ác liệt của
giặc Mỹ, đối diện với những hành động anh hùng từ những con người bình dị bên
dòng sông hiền hòa, nhạc sĩ đã viết nên ca khúc. Năm 1979, đài phát thanh truyền
hình Thanh Hóa đã lấy “Chào sông Mã anh hùng” làm nhạc hiệu trước mỗi buổi phát
thanh; đài truyền thanh, truyền hình cứ mỗi sáng, cứ mỗi trưa, cứ mỗi chiều lại rộn
vang giai điệu bài hát
Cái khó riêng của học lịch sử đó là người học không thể tri giác trực tiếp, không
thể “sờ” hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm mà buộc phải tư duy, phải trừu
tượng hóa, khái quát hóa để dựng lại những gì đã diễn ra trong quá khứ. Âm nhạc là
một loại hình nghệ thuật có thể chia sẻ với chúng ta rất nhiều cảm xúc trong cuộc
sống. Nó có sức ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi sử
dụng các ca khúc cách mạng trong giảng dạy, nhất là giảng dạy Lịch sử sẽ góp phần
tạo nên sự khách quan khi tìm hiểu sự kiện lịch sử, đồng thời phát triển các thái độ
tình cảm phù hợp cho học sinh sau mỗi bài học. Các ca khúc cách mạng cũng chính
là chứng nhân của lịch sử, là nguồn động viên, khích lệ tinh thần cho bộ đội ta trong

hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
2.3.6. Tự học trong Công tác công ích xã hội
Việc làm này không chỉ có tác dụng củng cố, hiểu sâu hơn kiến thức, mà còn là
biện pháp gắn nhà trường với xã hội, rèn luyện năng lực hành động cho học sinh.
Thông qua tìm hiểu, sưu tầm các tư liệu lịch sử ở địa phương, tại các buổi công ích xã
hội, ngoài việc giáo viên tập cho học sinh trình bày hiểu biết của mình qua các câu
chuyện, hiện vật lịch sử, di tích lịch sử; giáo viên cần hướng dẫn các em có nững
hành động thiết thực như chăm sóc bảo tồn các di tích lich sử bằng những việc làm
nhỏ như dọn vệ sinh, chăm sóc, trồng thêm cây xanh ...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến, năm học 2018-2019 chất lượng học tập của
học sinh khối 9 đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức và có
biểu tượng chính xác về sự kiện, hiện tượng lịch sử. Hầu hết các em đều hứng thú,
yêu thích học môn Lịch Sử.
15


* Kết quả năm học 2017-2018 cụ thể như sau:
Lớp
9A
9B
Tổng

Tổng
số
40
38
78

Giỏi

SL
14
7
21

%
35.0
18.4
26.9

Khá
SL
15
12
27

%
37.5
31.6
34.6

Trung
bình
SL
%
11 27.5
19 50.0
30 38.5

Yếu

SL
0
0
0

%
0
0
0

Kém
SL
0
0
0

%
0
0
0

Bảng 2: Kết qủa năm học 2017-2018
* Kết quả mũi nhọn năm học 2018-2019:
- Có 9/9 HS đạt giải cấp huyện, trong đó: 6 em đạt giải nhì, 3 em đạt giải 3
- Có 3 HS đều đạt giải 3 cấp Tỉnh.
Đối chiếu bảng 1 với bảng 2, cho thấy việc áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, kết
quả năm học 2017-2018 có sự thay đổi rõ rệt: số lượng học sinh khá, giỏi tăng nhanh;
Số học sinh kém không còn. Điều đó chứng tỏ việc sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy
học lịch sử là yêu cầu rất quan trọng, không thể thiếu đối với người giáo viên dạy
Lịch sử. Chất lượng bộ môn được nâng cao rõ rệt, nhất là bộ môn Lịch sử 9. Đồng

thời, mang lại sự hứng thú và lòng say mê học lịch sử của các em.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học cho học sinh còn thể hiện việc
tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ lại, lười biếng
trong suy nghĩ và làm việc. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã áp dụng vào các
tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng
những kinh nghiệm này rất phù hợp với bộ môn và những tiết dạy theo hướng đổi
mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn
hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến
thức. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học. Tôi cũng
hi vọng với việc áp dụng đề tài này, học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi
và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học hơn so với thực trạng hiện nay
3.2. Kiến nghị
Để thực hiện phương pháp này một cách có hiêụ quả theo mục tiêu giáo dục bộ
môn, tôi xin kiến nghị đề xuất một số vấn đề sau:
* Cơ quan thiết bị trường học:
- Cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hoá hoặc chân
dung của các nhân vật lịch sử có công với cách mạng .
- Nhà trường cần tạo điều kiện để học sinh có thể đi thực tế các di tích lịch sử
ngay trên địa bàn của tỉnh
16


* Đối với giáo viên:
- Soạn bài, nghiên cứu kĩ bài giảng, lựa chọn kiến thức, dạy học bằng phương
pháp lấy học sinh làm trung tâm, hệ thống câu hỏi rõ ràng, chuẩn mực, lôgic.
- Cần khen-chê kịp thời, bổ sung thiếu sót và cố gắng tìm ý đúng trong câu trả
lời của học sinh để kích thích các em học tập, tổ chức cho học sinh làm việc độc lập,
đàm thoại, trao đổi bài chéo, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị bài ở

nhà, chấm vở bài tập để kiểm tra việc học của học sinh.
- Tổ chức tốt hoạt động học tập nhóm và cá nhân để thực hiện tốt việc tự học tập.
- Tăng cường hoạt động chuyên môn theo nhóm, tổ, cụm và có sổ dự giờ, góp ý,
rút kinh nghiệm.
- Hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học cho học sinh còn thể hiện
việc tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ lại, lười
biếng trong làm việc và suy nghĩ.
- Hiện nay, chúng ta đã có nhiều điều kiện để mở rộng việc tự học của học sinh
trong môn Lịch Sử. Cần thực hiện phương châm “Lấy học sinh làm trung tâm” chống
việc học thụ động.
*Đối với học sinh:
- Có đầy đủ SGK, sách bài tập, vở bài tập.
- Cần tự giác, tích cực, chủ động trong học tập.
- Biết vận dụng sáng tạo kiến thức vào thực tế.
Nga Sơn, ngày 10 tháng 04 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Tôi cam đoan đây là SKKN do tôi viết,
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
không sao chép của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Mai Thị Hiên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 9
2. Sách giáo viên Lịch sử lớp 9
3. Tài liệu Lịch sử địa phương
4. Phương pháp dạy học lịch sử .
5.Bài thơ: Người đi tìm hình của nước.
6. Ca khúc : Chào sông Mã anh hùng.


Tác giả: Trịnh Đình Tùng
Tác giả: Chế Lan Viên
Nhạc sĩ: Xuân Giao
17


7.Từ điển Thuật ngữ Lịch sử phổ thông - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

18



×