Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS cẩm bỉnh, huyện cẩm thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.97 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH TÍC CỰC SÁNG
TẠO CHO HỌC SINH KHỐI 6 TRONG DẠY - HỌC VẼ
TRANH Ở TRƯỜNG THCS CẨM BÌNH

Người thực hiện: Trần Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Cẩm Bình
SKKN thuộc lĩnh vực môn : Mỹ thuật

THANH HÓA NĂM 2015 -2016

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mĩ thuật môn học nhân văn, có nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nghệ
thuật cho học sinh, cung cấp cho học sinh một số kiến thức ban đầu, giúp các em
biết cảm thụ cái đẹp, yêu cái đẹp, biết cách rèn luyện đôi bàn tay, trí óc của
chính mình để tạo ra cái đẹp bằng cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận riêng,
góp phần xây dựng môi trường thẩm mĩ cho xã hội.
Trong chương trình Mĩ thuật Trung học cơ sở, phân môn vẽ tranh là một
phân môn rất được học sinh yêu và ham thích vẽ, nhất là học sinh khối 6. Bởi vẽ
tranh không chỉ là một hình thức học tập sáng tạo, phát triển năng khiếu mà còn


là một hình thức giáo dục thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua
các bài học. Khi học vẽ tranh, các em sẽ sử dụng ngôn ngữ Mĩ thuật như: đường
nét, hình ảnh, màu sắc….để xây dựng một bức tranh theo sự sáng tạo riêng,
thông qua đó thể hiện cảm xúc, thái độ của mình trước mỗi chủ đề, mỗi hình
ảnh trong cuộc sống.
Tranh vẽ của học sinh thể hiện sự phong phú về nội dung chủ đề, sự sáng
tạo ngây thơ sinh động với các hình ảnh gần gủi, quen thuộc như: con đường,
hàng cây, dòng sông, con suối….hình ảnh những người thân yêu: ông bà, cha
mẹ, thầy cô,…luôn được các em yêu quý và kính trọng. Tất cả được các em thể
hiện thật mộc mạc, ngây thơ, sinh động đầy thú vị. Song do trình độ nhận thức
và năng khiếu của học sinh khác nhau nên các em có những cách thể hiện, cách
học riêng, không giống nhau. Vậy không thể tác động đến quá trình nhận thức
của các cá nhân học sinh bằng một biện pháp như nhau. Có học sinh phải tác
động từ từ, có những học sinh lại phải vừa trực tiếp, vừa gián tiếp ở mỗi hoạt
động mới nắm được vấn đề; có học sinh chỉ cần gợi mở, khích lệ là các em đã
nhận biết được mụ tiêu, yêu cầu của bài học…Và thực tế giảng dạy học sinh
khối 6, với việc luôn từng bước đổi mới phương pháp dạy- học, tôi luôn đặt cho
mình mục tiêu: Thực hiện đổi mới để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy
cho bản thân và chất lượng học tập cho học sinh. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề
tài nghiên cứu: "Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học
sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bỉnh, huyện Cẩm
Thủy" .
2. Mục đích nghiên cứu
Trong đề tài này này tôi nêu và giải quyết một số vấn đề sau:
*Một số cơ sở lí luận có liên quan đến đề tàI
*Thực trạng của vấn đề phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh trong
dạy và học vẽ tranh mỹ thuật nói chung và vấn đề phát huy tính tích cực, sáng
tạo ở học sinh khối 6 trong phân môn vẽ tranh ở trường thcs Cẩm Bình nói
riêng.
*Các giải pháp phát huy tính tích cực, sáng tạo ở hoc sinh khối 6 trong

phân môn vẽ tranh trường THCS Cẩm Bình, Cẩm Thuỷ và những kết quả đạt
được.
*Một số bài học kinh nghiệm
*Một số ý kiến đề xuất và kiến nghị
2


3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu, tổng kết về một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, sáng
tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường THCS Cẩm Bỉnh,
huyện Cẩm Thủy.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Thu thập sách báo có liên quan đến đề tài sau đó phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, khái quát hóa các nguồn thông tin có liên quan đến môn Mĩ thuật, mà
trọng tâm là việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học môn mỹ thuật ở
bậc THCS.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (Nghiên cứu qua các văn
bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về phương pháp dạy học vẽ tranh
ở bậc trung học).
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng
dạy môn vẽ tranh ở bậc THCS.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới.
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm.
- Cho học sinh hoạt động vẽ ngoài trời.
- Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp
mà mình đề ra.

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Mĩ thuật là một trong những phân môn đòi hỏi tính sáng tạo giàu tính
thẩm mỹ, làm cho con người biết tạo ra cái đẹp và vận dụng vào cuộc sống. Vì
thế nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách lối sống của
mỗi con người.
Nhưng để phát huy hết tính sáng tạo ở lứa tuổi học sinh THCS là một vấn
đề hết sức khó khăn. Kinh nghiệm của các em chưa nhiều vì các em chỉ vẽ theo
cảm tính hoặc sao chép theo mẫu cho nên hiệu quả bài học chưa cao, chưa phát
huy hết khả năng của các em. Do đó cần có những kĩ năng truyền đạt mới để tạo
thêm hứng thú trong học tập sáng tạo cho các em.
Trên cơ sỏ đổi mới phương pháp dạy học tích cực phát huy hiệu quả của
học sinh đòi hỏi người giáo viên phải biết khai thác tìm tòi những câu hỏi những
gợi ý ví dụ cụ thể. Nhằm tạo cho các em có thói quen suy nghĩ tích cực suy nghĩ
trong học tập và sáng tạo.
Biết vận dụng tổng hòa các kiến thức và kỹ năng của nghệ thuật tạo hình
như lựa chọn nội dung, hình tượng nhân vật, hình ảnh đặc trưng của từng đề tài ,
cách sắp xếp bố cục, hình vẽ, màu sắc,, thể hiện không gian cùng với cảm xúc
người vẽ nhằm đáp ứng nhu cầu của môn học là yếu tố cần thiết đặt ra đối với
người dạy. Do đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "một số kinh nghiệm phát huy
tính tích cực, sáng tạo cho học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh ở trường
3


THCS Cẩm Bỉnh, huyện Cẩm Thủy" để nghiên cứu và từng bước áp dụng vào
giảng dạy.
2. Thực trạng dạy - học của phân môn vẽ tranh khối 6 ở trường
THCS Cẩm Bình.
2.1 Thực trạng dạy - học phân môn vẽ tranh khối 6 ở trường THCS
nói chung:

Nội dung chương trình dạy Mỹ thuật hiện nay còn quá nhiều thiếu sót.
Phương tiện, đồ dùng dạy vẽ, tài liệu trực quan về môn mỹ thuật chưa được chú
ý nghiên cứu và sản xuất, do đó có thể nói chung còn quá lạc hậu, nghèo nàn,
tiếu thốn, cũ nát.
Đây là môn học vừa có lý thuyết vừa có thực hành cho nên cần tăng
cường các điều kiện để giáo viên và học sinh thuận lợi khi dạy và học. Trên thực
tế thời lượng thực hiện bài dạy ít. Trong khi đó nhiệm vụ thực hiện bài dạy quá
nhiều, chưa đảm bảo được chất lượng tiết học. Qua khảo sát, , đã cho thấy thời
gian học nghệ thuật còn quá khiêm tốn nên việc giáo viên hướng dẫn làm bài
cho học sinh còn bị hạn chế. Giáo viên không thể đi sâu bám sát và theo dõi kỹ
bài làm của học sinh được nên các em còn gặp phải những khó khăn khi làm bài
tập.
Một thực tế cũng cần nêu là có hiện tượng học sinh lớp 6 rất ngại học môn
vẽ tranh. Nhiều học sinh vẽ sai, vẽ dở không phải vì không có năng khiếu mà vì
không thích học vẽ. Một số khác thì không có tiền mua họa phẩm để học nghệ
thuật.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất ở trường hiện nay còn lạc hậu và có quá
nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ và hợp lý. Là giáo viên đứng lớp, bản thân hiểu
rằng việc dạy Mỹ thuật ở trường Trung học cơ sở và các bậc học khác không chỉ
là môn học bắt buộc có điểm mà người giáo viên có trách nhiệm khơi dậy và tạo
nên hứng thú sáng tạo, tình yêu nghệ thuật cho học sinh từ đó bồi dưỡng những
giá trị đạo đức, chuẩn mực bước đầu nhân cách tình cảm cho học sinh với mục
đích chính là để học sinh có cảm xúc chân thành trước cái vẻ đẹp, biết cảm thụ
và yêu thích phân môn vẽ tranh chứ không phải dạy các em biết vẽ, sáng tác như
một hoạ sĩ.
Chương trình dạy cho học sinh THCS hiện nay là vừa phải, dù có một số
ý kiến chưa thống nhất nhưng nhìn chung với thực tế hiện nay và yêu cầu đảm
bảo chất lượng giáo dục thì chương trình đào tạo Mỹ thuật đã có những bước đi
phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên để đáp ứng được các yêu cầu mở rộng và phát
triển trong nhà trường thì cần phải tăng cường hơn nữa trang thiết bị, giáo cụ

trực quan, đồ dùng dạy học để việc dạy Mỹ thuật đạt được kết quả - chất lượng
tốt hơn làm cho học sinh thực sự yêu thích môn học và có được sự cảm thụ thẩm
mỹ tốt.
2.2 Thực trạng dạy - học phân môn vẽ tranh khối 6 ở trường THCS
Cẩm Bình:
Qua tìm hiểu thực tế ở trường Trung học cơ sở Cẩm Bình - huyện Cẩm
Thủy - Thanh Hóa, bản thân tôi nhận thấy:
Ban giám hiệu và các giáo viên bộ môn nói chung đều thấy sự cần thiết
của việc sáng tạo ở bất cứ lĩnh vực nào. Do vậy, việc cần thiết là giáo viên phải
4


luôn nỗ lực, phấn đấu để trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi vốn hiểu biết
về cuộc sống. Đồng thời phải luôn thay đổi phương pháp dạy học, tích cực, chủ
động trong mọi tình huống sư phạm để giúp học sinh phát triển mọi mặt.
Cũng từ thực trạng của việc dạy và học phân môn vẽ tranh ở trường
THCS Cẩm Bình, vẫn còn tình trạng nhiều em học sinh chưa muốn thay đổi
mình, còn phụ thuộc vào mẫu sẵn có trong sách giáo khoa, trong tranh ảnh có
sẵn, nên các em luôn bị động, ít sáng tạo, thiếu hiểu biết về cuộc sống.
Phần lớn phụ huynh học sinh ít quan tâm đến việc giáo dục con em mình
học tập môn Mĩ thuật, các em ít có sự chuẩn bị từ đồ dùng, dụng cụ học tập đến
việc sưu tầm tranh, ảnh...
Qua khảo sát tôi thấy chất lượng vẽ chưa đạt cao, học sinh chưa có hứng
thú học với phân môn vẽ tranh . Cụ thể:
Lớp Sĩ số
Đ
%

%
6A

30
22
73
8
27
6B
32
25
77
7
23
6C
30
20
67
10
33
Do vậy, để giải quyết tình trạng này, bản thân tôi nhận thấy cần phải có
một số giải pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo ở học sinh, từ đó giúp các
em có cái nhìn tốt đẹp hơn về môn học Mĩ thuật, về sự tồn tại của cái đẹp trong
cuộc sống. Đăc biệt là đối với phân môn vẽ tranh, phân môn đòi hỏi sự sáng tạo
thường xuyên và ý thức tự trau dồi bản thân ở cả giáo viên lẫn học sinh.
3. Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo ở học sinh
khối 6 trong dạy - học vẽ tranh.
3.1. Tính tích cực sáng tạo trong dạy - học vẽ tranh.
Tính tích cực học tập của học sinh được biểu hiện ở việc học sinh tích cực
tham gia trả lời câu hỏi, tích cực phát biểu ý kiến hay thắc mắc những vấn đề
chưa rõ, vận dụng những kiến thức kĩ năng đã học, tập trung chú ý vào những
vấn đề đang học, không nản trước tình huống khó khăn. Còn trí sáng tạo là khả
năng sản sinh ra những ý tưởng mới, độc dáo, hữu ích phù hợp với mỗi chủ đề

của tranh. Dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo ở học sinh là nhiệm vụ quan
trọng của dạy – học Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng nhằm
đào tạo thế hệ học sinh năng động sáng tạo trong học tập và trong công việc.Vậy
giáo viên có vai trò như nào trong việc phát huy tính tích cực học tập ở học
sinh?
3.2. Nâng cao và phát huy vai trò của giáo viên.
Để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh thì giáo viên chính là
“linh hồn” của giờ dạy – học, sinh động và sáng tạo. Giáo viên đóng vai trò là
người gợi mở, xúc tác, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, cố vấn, trọng tài trong
các hoạt động học độc lập của học sinh để đánh thức năng lực, tiềm năng trong
mỗi em. Các em tích cực hoạt động, tìm ra “cái chưa biết ”, “cái cần khám phá”
để đi đến tích lũy tri thức. Những tri thức, kĩ năng học sinh lĩnh hội được không
rập khuôn theo khuôn mẫu có sẵn mà các em tự đi tìm cái chưa biết khác. Giáo
viên cần quan tâm, vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm từng cá nhân cũng
như tập thể học sinh để xây dựng bài học. Những dự kiến của giáo viên phải tập
trung vào các hoạt động của học sinh và cách tổ chức các hoạt động đó, cùng với
5


kĩ năng diễn biến các hoạt động của học sinh để khi lên lớp có thể linh hoạt, điều
chỉnh diễn tiến của tiết học.
Với bản thân tôi, cũng như bao đồng nghiệp khác, tôi luôn tự học, tự bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; trang bị những kiến thức cần thiết và tìm
kiềm thông tin có liên quan trước khi bước vào tiết dạy. Nhất là luôn gần gũi,
hỏi han thăm dò học sinh để nắm bắt được hoàn cảnh, tâm lí, mức độ ham thích
và năng lực tiếp thu của học sinh. Từ đó có sự vận dụng phương pháp và cách
thức tổ chức cũng như đưa ra mức độ kiến thức phù hợp với mỗi học sinh. Giúp
các em nắm được nội dung chính và yêu cầu cần đạt được ở một bài vẽ tranh (về
kiến thức, kĩ năng, giáo dục thái độ, tình cảm cho học sinh), cho phép học sinh
tự mình khám phá, tìm tòi những nội dung mới, đáp ứng nhu cầu cá nhân và nhu

cầu của nhóm học tập.
Đối với những học sinh có năng lực trung bình, tôi gợi ý cụ thể rõ ràng
cho các em tìm nội dung hình ảnh phù hợp; Còn học sinh khá, giỏi thì khích lệ
các em suy nghĩ, tìm hình ảnh, màu sắc cho bài vẽ sinh động. Từ đó phát huy
được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
3.3 Phương pháp dạy - học, thiết kế và sử dụng giáo cụ trực quan.
Mỹ thuật là môn học trực quan. Môn mỹ thuật ở trường Trung học cơ sở
thường dạy bằng trực quan bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao. Riêng với Mỹ
thuật, tất cả các phân môn đều phải sử dụng đồ dùng trực quan bao gồm những
gì có thực như: Các đồ vật, hoa quả, động vật, cỏ cây, nhà cửa…tranh ảnh như:
Hình vẽ trên bảng, bảng biểu, bài vẽ của học sinh…
Dạy Mỹ thuật thường dạy trên đồ dùng trực quan. Do vậy đồ dùng trực
quan của môn Mỹ thuật là nội dung, là kiến thức của bài học. Đồ dùng trực quan
còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học và trình độ của học sinh, cho nên
chuẩn bị tốt đồ dùng trực quan xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt nội dung bài
dạy và quá trình lên lớp chỉ còn là trình bày, diễn giải theo đồ dùng trực quan đã
chuẩn bị.
- Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật
Phương pháp trực quan được thể hiện qua cách giáo viên trình bày nội
dung, kiến thức của bài học qua vật thật, hình tượng hay hình ảnh nhằm giúp
học sinh hiểu bài được dễ dàng và vững chắc hơn.
Có thể vận dụng phương pháp trực quan như sau:
- Trình bày đồ dùng dạy - học phải khoa học, đúng lúc, rõ ràng, phù hợp
với nội dung; giới thiệu hay cất đồ dùng dạy - học phải hợp lí, có thể:
• Giới thiệu xong từng đơn vị kiến thức nên cất đi vì một số học sinh
thường rập khuôn, sao chép lại mẫu.
• Lời giới thiệu nội dung hoặc các câu hỏi gợi ý học sinh suy nghĩ của
giáo viên phải ăn khớp cùng thời điểm với sự xuất hiện đồ dùng dạy học
• Giáo viên cần chỉ vào những nơi cần thiết ở đồ dùng dạy - học để nhấn
mạnh trọng tâm của bài …. Không để học sinh bị các chi tiết lôi cuốn

mà không tập trung vào những điểm chính.
Không lạm dụng quá nhiều đồ dùng dạy - học hoặc kéo dài thời gian làm
cho học sinh dễ phân tán chú ý.
6


Cho học sinh vận dụng nhiều giác quan (nghe, nhìn, ngửi, sờ, …).
Trình bày bảng: Bảng cũng là đồ dùng dạy - học khi lên lớp, do đó giáo
viên cần lưu ý:
* Trình bày bảng gồm có kênh hình và kênh chữ, trình bày khoa học,
thẩm mĩ, rõ ràng…Chữ viết phải to vừa phải, kiểu chữ chân phương, các đề mục
phải rõ ràng. Kênh hình phải trình bày có hệ thống, không chen lấn kênh chữ…
- Trong dạy học phân môn vẽ tranh:
+ Giáo cụ trực quan
Đó là tranh ảnh, mô hình, vật thật, băng hình, máy chiếu, đèn chiếu, các
loại phiếu học tập, mẫu vật, hình khối,…
+ Vị trí, vai trò của giáo cụ trực quan trong dạy học môn vẽ tranh:
Chúng ta đã biết rằng nghệ thuật bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống
phản ánh chân thực và phục vụ cuộc sống. Trong đó người nghệ sĩ biểu hiện tâm
hồn hay trạng thái tình cảm của mình. Nghệ thuật luôn phản ánh cái đẹp trong
đời sống, ở đâu cái đẹp cũng làm chuẩn cho giá trị. Trong lĩnh vực nghệ thuật
cái đẹp là linh hồn sống của nghệ thuật. Vì cái đẹp mà nghệ thuật mới tồn tại
không có cái đẹp thì nghệ thuật không có công chúng. Phản ánh nghệ thuật là
phản ánh theo quy luật cái đẹp, nghệ sĩ đứng từ lý tưởng cái đẹp mà phản ánh
cuộc sống vào tác phẩm của mình. Cái đẹp trong nghệ thuật là một hình thức cao
của cái đẹp bao gồm có ba yếu tố tạo hình: Phản ánh chân thực và sáng tạo cuộc
sống của con người, xã hội trong tính toàn vẹn đa diện, cụ thể và sinh động, có
sự hài hoà giữa nội dung và hình thức, sự chân thành và triệt để của ý thức xã
hội được nghệ sĩ gửi gắm vào tác phẩm. Góp phần hướng công chúng tới chất
người, tính nhân văn và nhân đạo đích thực.

Phương pháp dạy học trực quan là phương tiện để người giáo viên truyền
tải những gì mà người nghệ sĩ phản ánh chân thực, sinh động, khái quát thực tế
thời đại trong thời gian ngắn. Hay nói cách khác, vai trò quan trọng nhất của
phương pháp trực quan là giúp cho công tác giảng dạy đạt hiệu quả cao.
+ Phương pháp quan sát.
Quan sát với tư cách là một phương pháp dạy học là các cách thức dùng
các giác quan (có thể kết hợp với sử dụng phương tiện kỹ thuật), để tri giác các
sự vật, hiện tượng, các tài liệu học tập trong những điều kiện tự nhiên của
chúng. Đây là sự tri giác có mục đích,có kế hoạch nhằm mục tiêu dạy học, do
vậy khi thực hiện phương pháp này đòi hỏi phải tiến hành quan sát một cách có
hệ thống, tài liệu quan sát phải được ghi chép một cách khách quan đảm bảo tính
tiêu biểu. Tuỳ theo mục đích, tính chất học tập có thể cho người học quan sát
trực tiếp hoặc gián tiếp, quan sát khía cạnh hay toàn diện, quan sát số lượng hay
chất lượng, quan sát giai đoạn hay cả quá trình. Phương pháp quan sát đòi hỏi
người giáo viên tổ chức cho hoạt động nhận thức cảm tính cho học sinh, qua đó
hình thành biểu tượng về tự nhiên, xã hội và con người, phát triển các năng lực
nhận thức, đặc biệt là năng lực quan sát cho họ. Đây là phương pháp dạy học có
ý nghĩa đặc biệt với học sinh phổ thông để hình thành các biểu tượng và phát
triển hoạt động nhận thức cảm tính của học sinh. Học sinh có thể quan sát các sự
vật, hiện tượng sinh động để vận dụng hình thành các khái niệm, quy luật, định
7


luật trừu tượng, khái quát, từ đó giúp người học hiểu biết được chính xác và cụ
thể hơn.
+ Phương pháp minh hoạ.
Sử dụng các phương tiện trực quan ở các dạng khác nhau để minh hoạ, cụ
thể hoá nội dung dạy học. Trong môn Mỹ thuật, có thể sử dụng các phương tiện
trực quan như: các vật thật (các đồ vật,chai lọ, hoa quả…); bảng biểu minh hoạ
về cách tiến hành bài vẽ (vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh đề tài …); bộ bài vẽ

của giáo viên và học sinh (theo chương trình) ở các dạng khác nhau (để gợi ý
suy nghĩ, sáng tạo, ở những mức độ khác nhau: đẹp, khá, trung bình, chưa đạt
yêu cầu…) để học sinh phân tích so sánh, tham khảo; các phương tiện nghe,
nhìn (video, băng đĩa, nghi âm…); cũng có khi phương tiện trực quan lại là các
ví dụ thực tiễn, các số liệu hay các thao tác mẫu của giáo viên. Ngoài ra, nên coi
trọng việc sử dụng bảng và ngôn ngữ giàu hình tượng của người dạy…Những
phương tiện trực quan đó đặc biệt có tác dụng tốt trong việc tạo ra điểm tựa thị
giác cho người học, làm cho cái chưa được biết trong nội dung học tập trở nên
gần gũi, có thể “tri giác” trực tiếp qua lời giảng, chữ viết và cả cử chỉ, điệu bộ
của giáo viên. Phương pháp minh hoạ gây hứng thó học tập, phát triển năng lực
quan sát, kích thích tư duy của học sinh.
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực nhận thức của học sinh. Đây cũng là phương pháp dạy học phù hợp với
việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Trong dạy học phương pháp trực
quan đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình dạy học. Đối với môn vẽ
tranh, đồ dùng trực quan càng quan trọng hơn, nó làm tăng hiệu quả của tiết dạy
rất nhiều.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo ở học sinh khối 6 trong dạy –
học vẽ tranh tức là đề cập tới cách dạy sao cho học sinh thấy ngay, thấy một
cách rõ ràng, cụ thể để các em hiểu nhanh, nhớ lâu, dù là những khái niệm trừu
tượng, như cân đối, hài hoà hay những gì ẩn chứa trong bố cục, nét vẽ, màu
sắc… mà nghệ sĩ muốn “nói”. Có như thế các em mới có hứng thú học tập.
Như vậy, trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông không thể thiếu việc
kết hợp sử dụng các phương pháp trực quan của người giáo viên trong dạy học.
3.4.Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy - học.
Đồ dùng dạy – học của giáo viên và học sinh là phương tiện cần thiết cho
việc truyền đạt và tiếp nhận tri thức. Dựa vào mục tiêu, yêu cầu của bài học mà
chuẩn bị đồ dùng sao cho phù hợp. Có thể nói: đồ dùng dạy – học chứa đựng nội
dung bài dạy. Đối với giáo viên, muốn học sinh hiểu về đề tài và vẽ tranh đẹp
cần cho các em xem tranh, qua đó giúp các em biết cách chọn nội dung chủ đề

và biết xây dựng hình tượng và màu sắc cho bức tranh. Đồ dùng phục vụ tốt cho
bài dạy – học vẽ tranh là giáo viên nên sử dụng các bài vẽ của học sinh. Các
tranh mẫu được chọn lọc và phải có nét đặc trưng, đa dạng về đề tài, phong phú
về cách vẽ, cách thể hiện để giúp giáo viên khai thác tốt, phục vụ tốt cho việc
dạy - học. Tranh cho học sinh xem bao gồm:
+ Tranh về các thể loại: tranh tĩnh vật, tranh phong cảnh, tranh vẽ về các
đề tài: Đề tài học tập, đề tài ngày tết và mùa xuân, hay đề tài thể thao văn nghệ,
quê hương...để học sinh nhận ra khái niệm, cách thể hiện đề tài định vẽ.
8


+ Tranh minh họa đề tài sẽ vẽ cần có 2 đến 3 tranh có cách vẽ khác nhau
về bố cục, hình tượng, màu sắc…để học sinh thấy được sự phong phú về nội
dung, cách sắp xếp hình ảnh, cũng như cách thể hiện sắc màu khi vẽ tranh.
+ Tranh vẽ của học sinh năm trước về đề tài định vẽ (tranh này nên có bài
vẽ đẹp và chưa đẹp) để học sinh tham khảo, so sánh, tìm ra những ưu – nhược
điểm ở các tranh để vừa học tập, vừa điều chỉnh, rút kinh nghiệm khi vào thực
hành bài vẽ.
+ Hình gợi ý các bước vẽ tranh: Cách vẽ hình, cách sắp xếp hình ảnh,
cách vẽ màu… giáo viên có thể lấy một tranh mẫu đẹp, rõ bố cục, tách ra từng
phần để hướng dẫn học sinh thấy cách vẽ mảng, vẽ hình, vẽ màu như thế nào.
+ Tranh, các hình ảnh, đồ dùng tự làm để lồng ghép trò chơi, tạo tình
huống …thu hút, lôi cuồn, tạo hứng thú cho học sinh học tập hiệu quả.
3.5. Tạo tình huống có vấn đề ở phần giới thiệu bài:
Giới thiệu bài làm sao để gây ấn tượng, tạo sự chú ý, lôi cuốn học sinh tập
trung vào các hoạt động học tập là rất quan trọng. Vậy làm thế nào để tạo hứng
thú, thu hút học sinh vào học ngay từ khi giới thiệu bài? Điều này giáo viên
phải có kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu rộng về mặt kiến thức, biết linh hoạt
vận dụng cách giới thiệu sao cho thật gây ấn tượng và có liên quan tới nội dung
bài học, thu hút học sinh với những trò chơi, những câu chuyện, hay bài hát, câu

thơ…
Với thực tế dạy – học ở khối 6 tôi đã giới thiệu bài với nhiều cách khác
nhau, phù hợp với bài học và với lứa tuổi các em như: Thi ghép tranh với trò
chơi “Đi tìm bức tranh bí ẩn”; hát về bài hát liên quan đến chủ đề vẽ tranh, kể
chuỵện ...Ví dụ: Dạy bài vẽ tranh: Đề tài Bộ đội. (Lớp 6- bài 13).
Tôi cho học sinh quan sát đoạn băng với hình ảnh một cựu chiến binh kể
chuyện về cuộc sống, sự luyện tập, chiến đấu trong quân đội. Khi học sinh quan
sát, lắng nghe xong câu chuyện, giáo viên đặt câu hỏi:
? Các em có suy nghĩ gì về câu chuyện các em vừa nghe?
(Câu chuyện giúp em biết được sự khổ luyện, kiên cường và anh dũng của
bộ đội ta)
? Chúng ta phải làm gì để đền đáp, ghi nhớ công ơn các anh hùng dân
tộc?
(Chúng ta cần biết kính trọng, gìn giữ và bảo vệ thành quả cha ông để lại)
? Các em sẽ gìn giữ, bảo vệ như thế nào?
(Chúng em học tập thật giỏi, nhất là biết rõ về lịch sử dân tộc, các cuộc
chiến đấu anh dũng của cha ông, vẽ tranh thể hiện lại cuộc sống, sự khổ luyện
trên thao trường…)
Như vậy, tạo tình huống sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh. Các em tập trung, chú tâm vào tìm hiểu, khám
phá tri thức mới một cách thích thú, say mê. Lớp học sẽ trật tự, ổn định, tạo cho
không khí dạy và học thật nhẹ nhàng, thoải mái “học mà chơi, chơi mà học” .
3.6. Phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong các hoạt động
day - học vẽ tranh.
Với một bài học vẽ tranh, học sinh khối 6 được tiếp xúc và được thể hiện
nhiều thể loại tranh với các đề tài khác nhau. Chúng được lặp lại, song kết quả
9


bài vẽ bao giờ cũng không giống nhau. Bởi cùng theo sự phát triển độ tuổi thì

cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận cũng như cách thể hiện của học sinh cũng
thay đổi. Tri thức, kĩ năng, thái độ…dần được bổ sung, rèn rũa, nâng cao dần
lên. Vì vậy khi bước vào mỗi bài học bao giờ cũng có tri thức mới để học sinh
lĩnh hội, tiếp thu, khám phá và sáng tạo. Thông qua các hoạt động dạy – học vẽ
tranh, giáo viên có những cách thức tổ chức với vận dụng linh hoạt các phương
pháp để phát huy hiệu quả tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
a. Hoạt động tìm, chọn nội dung đề tài.
Ở hoạt động này, giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại, trực quan,
học tập hợp tác nhóm, hoặc thi vẽ nhanh …kết hợp với cho quan sát tranh vẽ
phù hợp với từng bài cụ thể, để giúp học sinh tự tìm hiểu nội dung đề tài; giúp
học sinh nhận biết một đề tài có thể vẽ nhiều nội dung khác nhau. Từ đó, các em
hiểu rõ nội dung của chủ đề , nhớ lại và tưởng tượng các hoạt động với những
hình ảnh, màu sắc có liên quan .
Học sinh sẽ tìm ra những nội dung có thể vẽ như: Hội làng, Rước kiệu,
Hội thi chọi gà, Lễ hội múa lân, múa rồng….Đồng thời các em nhận biết cách
thể hiện hình ảnh chính (Làm nỗi bật nội dung chủ đề), hình ảnh phụ phù hợp sẽ
tạo cho tranh sinh động, bố cục chặt chẽ...
Để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong hoạt động tìm, chọn
nội dung đề tài, giáo viên khi cho các em quan sát tranh, ảnh cần kết hợp hệ
thống câu hỏi từ dề đến khó để học sinh tiếp cận nội dung chủ đề một cách nhẹ
nhàng và hiệu quả
Giáo viên hỏi: ? Ở trường, các em thường có những hoạt động gì ?
(Hoạt động học tập; Vui chơi sân trường; lao động)
? Các em thường học tập ở đâu?
(Ở sân trường, học trên lớp, học nhóm…)
? Lao động ở trường là làm những việc gì?
(Chúng em quét rác, chăm sóc cây xanh, nhặt lá,….)
? Ở trường các em thường chơi những trò chơi gì?
(Chơi đánh bi, nhảy dây, chơi ô ăn quan …)
? Hình dáng điệu bộ các bạn như thế nào?

(Ban đang cầm chổi quét, bạn ngồi nhặt lá, bạn đang đẩy xe rác đi thu
gom rác…nhóm bạn ngồi chơi, đứng xem, bạn nhảy, bạn quấn dây nhảy…)
? Phong cảnh trường học có những gì?
(Cảnh trường học có văn phòng, vườn hoa, hàng cây xanh mát, cột cờ cao
vút, cổng trường, dãy nhà với nhiều phòng học…)
Các câu hỏi gợi mở sẽ giúp cho học sinh tìm hiểu được nội dung đề tài và
hình dung ra những gì sẽ được chọn để vẽ tranh. Những câu hỏi gợi mở không
chỉ xoay quanh nội dung bài học mà còn liên quan và thật gần gủi, quen thuộc
với đời sống sinh hoạt, học tập hằng ngày của học sinh. Từ đó các em sẽ liên
tưởng, tư duy, tưởng tượng lại những hoạt động với hình ảnh cụ thể để đưa vào
tranh vẽ.
Giáo viên cũng cần chú ý nghe câu trả lời, câu hỏi ngược lại của học sinh.
Cần tôn trọng, chăm chú thực sự khi nghe học sinh trả lời, có thái độ với tất cả
câu trả lời đúng hay chưa đúng và có định hướng bổ sung cho học sinh. Không
10


nên chê bai hay bác bỏ câu trả lời của học sinh, để các em không thấy xấu hổ, tự
ti trước bạn bè và thầy cô. Từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh trong học tập. Ở đây giáo viên có thể dùng hình thức thảo luận
nhóm, cùng với phiếu học tập có câu hỏi giợ ý kết hợp quan sát tranh để học
sinh tự quan sát, cảm nhận, tìm ra được nội dung đề tài .
b. Hoạt động hướng dẫn cách vẽ tranh:
Vẽ tranh là một phân môn khó đối với những học sinh không có chút năng
khiếu Mĩ thuật nào. Nếu không có tranh mẫu, không có gợi ý định hướng của
giáo viên, học sinh sẽ rất lúng túng khi làm bài. Nếu giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm hiểu, khai thác đề tài bằng lời nói sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn các em
“nhập cuộc” thì cách gợi tả khi hướng dẫn vẽ tranh là “dựng lên” trước học sinh
một “khung cảnh bằng lời” rõ ràng có hình ảnh, đường nét, màu sắc, có sự hoạt
động… giúp các em nhớ những gì đã quan sát được rồi hình dung ra tranh mình

định vẽ. Lời nói có hình ảnh của giáo viên cũng mang lại hiệu quả như đồ dùng
dạy – học vậy.
Giáo viên cần treo tranh mẫu, giới thiệu, phân tích cách chọn hình ảnh,
cách sắp xếp hình ảnh vào tranh sao cho cân đối, phù hợp. Nếu giáo viên chỉ nói
mà không có tranh minh họa học sinh rất khó tiếp thu. Vì vậy, giáo viên cần có
sự phối hợp chặt chẽ giữa lời giảng và tranh minh họa nhằm gợi ý học sinh suy
nghĩ, nhớ lại những hình ảnh có liên quan từ đề tài (người, con vật, cây cối,
dòng sông, con suối…) có thể đưa vào tranh.
Ở sách giáo khoa khối 6 gợi ý cách vẽ tranh theo quy định chung là:
+ Phác mảng chính , mảng phụ cân đối trên mặt giấy.
+ Tìm và vẽ hình ảnh phù hợp với các mảng chính phụ.
+ Vẽ chi tiết .
+ Vẽ màu và hoàn thiện tranh.
Tuy nhiên thực tế giảng dạy vẽ tranh, học sinh trung học nói chung, học
sinh khối 6 nói riêng đều bỏ qua khâu phác mảng chính, mảng phụ. Thường các
em thích vẽ và vẽ ngay hình mình thích. Giáo viên cần nắm rõ để khi hướng
dẫn các em vẽ tranh chọn và vẽ hình ảnh phải vẽ hình ảnh chính trước, cân đối,
thể hiện trọng tâm nội dung đề tài; hình ảnh phụ phù hợp, tạo sự sinh động, chặt
chẽ cho bố cục tranh. Tùy vào nội dung cụ thể của từng bài vẽ để có cách sắp
xếp hình ảnh vào bố cục phù hợp, tránh học sinh vẽ quá nhiều hình ảnh (bố cục
tranh vụn vặt, rời rạc) hoặc vẽ quá ít tranh sẽ bị sơ lược, đơn điệu.
Giáo viên hướng dẫn (minh họa trực tiếp lên bảng) vẽ hình chính to trước
vào khoảng giữa trang giấy, các hình phụ vẽ sau vào những chỗ hợp lí, có thể là
ở trên hoặc ở dưới, bên phải hoặc bên trái, ở xa hay ở gần, vẽ to hay nhỏ…khi
vẽ cần chú ý tạo dáng, tạo thế tĩnh hay động cho con người, con vật (đang đi,
chạy hay nhảy…), hình cây, nhà (đứng hay ngã nghiêng). Ví dụ: Vẽ tranh đề
tài Ngày tết, và mùa xuân. - Bài13.
Tôi đã chọn một tranh vẽ có hình ảnh chính, phụ rõ ràng để từ đó gợi ý và
minh họa cách vẽ cho học sinh. Cụ thể:
A - Tranh mẫu

11


B – Vẽ hình ảnh chính rõ ràng, giống tranh mẫu.

C – Vẽ nét hình ảnh phụ bằng màu (khác với màu hình ảnh chính)

(Làm như thế này sẽ có tính trực quan hơn; Vì từ tranh đã hoàn thành, bóc
tách ra học sinh sẽ thấy hình ảnh chính rõ ràng. Đồng thời giúp học sinh nhận ra
vẽ gì trước, vẽ thêm gì sau cụ thể hơn. Đây không chỉ là dạy cách vẽ mà chính là
cách giáo dục nếp làm việc khoa học có tính qui luật cho học sinh).
D - Từ hình vẽ nét hoàn chỉnh, tôi chuẩn bị thêm hai bản vẽ với hai cách vẽ màu
khác nhau (khác màu với tranh mẫu) , tôi đã thay màu ở các hình ảnh, ở màu
nền nhằm gợi ý cho học sinh suy nghĩ cách vẽ màu khác nhau theo ý thích.

12


Sơ đồ của quá trình hướng dẫn vẽ tranh như sau:
- Giới thiệu một số hình gợi ý cách sắp xếp hình vào khổ giấy sao cho phù
hợp. Với ba cách sắp xếp, học sinh sẽ nhận biết cách sắp xếp đẹp nhất.
a - Vẽ hình to, tỉ lệ hình bị dồn nén, chật chội
b - Hình vẽ vừa với khổ giấy, sắp xếp mảng chính, mảng phụ cân đối,
nhịp nhàng, phù hợp với nội dung đề tài
c - Hình vẽ quá nhỏ bé, tỉ lệ hình và khuôn khổ tranh trống trải, lỏng lẻo
không ăn nhập gì với nhau, gây cảm giác bố cục yếu ớt, buồn tẻ.

a
b
c

Với cách hướng dẫn cụ thể như trên, học sinh đã quen dần với các nét vẽ
và các em đã vẽ được nhiều bài vẽ đẹp với hình ảnh sinh động, cách thể hiện đề
tài phong phú, với màu sắc hài hòa, tươi sáng vừa ngây thơ, vưa hồn nhiên thật
đáng yêu.
c. Hoạt động thực hành:
Với hoạt động thực hành, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ theo nhóm, tổ
hoặc vẽ theo cá nhân. Khi học sinh làm bài, giáo viên theo dõi chung để có thể
cung cấp thông tin cần thiết hoặc bổ sung kiến thức mà học sinh chưa nắm vững;
Giúp các em nhận ra những cái hợp lí, hay chưa hợp lí; Điều chỉnh những hình
vẽ to, nhỏ, bỏ đi các hình không cần thiết hoặc thêm hình vẽ vào làm cho nội
dung tranh rõ và sinh động hơn. Đồng thời gợi ý cho học sinh thấy đậm nhạt
trong tranh, cần chỉnh sửa vẽ màu sao cho nỗi rõ trọng tâm (hình ảnh chính),
màu sắc hài hòa thể hiện được không gian, không khí của chủ đề tranh.
Thời gian học sinh thực hành là lúc giáo viên “làm việc” với nhiều đối
tượng học sinh, cần biết rõ trình độ nhận thức, khả năng vẽ tranh của các em để
xây dựng kế hoạch, có phương pháp tổ chức hiệu quả, tạo ra được không khí
cạnh tranh trong học tập, kính thích sự sáng tạo, xóa bỏ tư tưởng tự ti, chán học.
Giáo viên dựa vào thực tế bài vẽ của các em mà góp ý hay gợi mở một cách cụ
thể phù hợp, tôn trọng cách nghĩ, cách làm việc của các em, động viên khích lệ
học sinh có cách vẽ riêng để phát huy được khả năng tìm tòi, sáng tạo của mỗi
em..
d. Hoạt động nhận xét, đánh giá:
Nhận xét, đánh giá bài vẽ của học sinh là điều quan trọng và cần thiểt
trong dạy học Mĩ thuật nói chung và vẽ tranh nói riêng. Để phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo, giáo viên gợi ý cho học sinh tự chọn bài vẽ lên trưng
bày và nhận xét (bài vẽ được trưng vào bảng phụ treo lên ở vị trí học sinh dễ
quan sát, hoặc gắn bài lên bảng một cách khoa học, có tính thẩm mĩ để thu hút
13



sự quan sát, tìm hiểu, khám phá của học sinh). Khi chọn bài, giáo viên gợi ý học
sinh chọn ba loại bài: hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành để nhận
xét, đánh giá.
Khi nhận xét, giáo viên cho học sinh có bài được chọn lên trình bày ý
tưởng, suy nghĩ của mình về bức tranh em đã vẽ. Sau đó, giáo viên nêu câu hỏi
gợi ý cho lớp nhận xét về:
+ Chọn nội dung vẽ tranh phù hợp với đề tài chưa?
+ Cách sắp xếp hình ảnh chính, hình ảnh phụ ở mỗi bài vẽ như thế nào?
(Cân đồi, nhịp nhàng, phù hợp với nội dung đề tài)
+ Cách thể hiện hình ảnh ra sao?
(Sinh động, có sự thay đổi phù hợp với nội dung đề tài)
+ Cách vẽ màu ở mỗi bài vẽ?
(Vẽ màu có trọng tâm, có đậm nhạt thay đổi ở mỗi hình ảnh, tạo sự hòa
sắc nhịp nhàng, hài hòa )
Như vậy từ việc học sinh tự chọn bài, tự nhận xét bài vẽ của mình và của
bạn, giúp các em nhận biết được vẽ như thế nào là đẹp, là đúng, cần khắc phục
những gì ở bài vẽ chưa đẹp … Qua đó kích thích học sinh cố gắng trong học tập,
tự rút kinh nghiệm, sửa chữa nhược điểm ở các bài vẽ sau.
Khi đánh giá bài học sinh, giáo viên cần đánh giá đúng sẽ có tác động
khích lệ tinh thần học tập của các em. Không nên chê bai những bài vẽ yếu,
dẫn đến học sinh chán nản, không thích vẽ nữa. Những học sinh vẽ chưa đạt ta
chỉ nhắc nhở, động viên các em bài sau cố gắng vẽ tốt hơn hoặc cho học sinh vẽ
lại bài (ở nhà). Có như vậy mới tạo cho các em có hứng thú học tập, phát huy
được tính tích cực, chủ động sáng tạo, say mê thể hiện trong vẽ tranh.
3.6. Tổ chức các trò chơi, hội thi phù hợp.
Phân môn vẽ tranh cũng như các phân môn khác của Mĩ thuật với đặc
trưng là phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Từ kiến thức (cơ bản) chung
mỗi học sinh lại tạo cho mình một kết quả riêng không giống nhau về bố cục,
hình ảnh, màu sắc…chúng đều thuộc vào khả năng suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo và
cảm nhận, cảm xúc riêng về cái đẹp của mỗi em.

Từ cảm xúc
suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo
tạo ra cái đẹp.
Khi vẽ tranh, học sinh chủ yếu thực hành nên cần tổ chức sao cho giờ học
thoải mái, nhẹ nhàng “ học mà chơi, chơi mà học ” với nhiều cách thức tổ chức
như: lồng ghép trò chơi, thi vẽ tranh, triển lãm tranh tại trường hay tổ chức cho
học sinh tham quan cảnh đẹp quê hương…những hoạt động học này không chỉ
thu hút, kích thích học sinh hoạt động mà còn giúp các em phát triển trí nhớ, trí
tưởng tượng, tư duy lô gic, nếp làm việc khoa học, tư duy sáng tạo thông qua
việc tái tạo nội dung, hình tượng, tiếng kêu, tiếng động…để xây dựng hình ảnh
cho bài vẽ đẹp, sinh động.
Giáo viên tùy vào mục tiêu, yêu cầu đề tài mỗi bài vẽ khác nhau mà có
hình thức tổ chức lồng ghép trò chơi cho phù hợp; và dựa vào nội dung từng
hoạt động mà chọn trò chơi hợp lí thu hút học sinh vào hoạt động học. Ví dụ: Có
thể tổ chức trò chơi thi ghép tranh, cho học sinh hát bài hát có liên quan tới nội
dung bài học, đi tìm búc tranh bí ẩn, …vào phần giới thiệu bài học để phát huy
trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh trước khi vào hoạt động khám phá tri thức
14


mới. Cũng có thể cho học sinh chơi ở phần hướng dẫn với trò chơi “ Nhanh tay
nối chữ số” – nối các số tương ứng trình tự các bước vẽ tranh; từ đó các em nhận
biết kĩ và khắc sâu qui trình của cách vẽ tranh, tạo không khí học tập thật nhẹ
nhàng, thoải mái. Và có thể lồng ghép trò chơi vào cuối hoạt động nhận xét,
đánh giá để củng cố lại nội dung kiết thức bài học, giáo dục thái độ tình cảm cho
học sinh ở mỗi chủ đề học như: giáo dục ý thức chấp hành tốt luật giao thông;
giáo dục học sinh cần bảo vệ môi trường, xây dựng môi sống trường xanh – sạch
– đẹp; xây dựng tình cảm yêu thương trong các em … Cho các em chơi trò chơi
như: đuổi hình bắt chữ, đuổi chữ tìm hình…
Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh thể hiện tài năng bằng những cuộc

thi vẽ tranh tham gia triển lãm tại trường, tại lớp học, trưng bày sản phẩm
(những bài vẽ đẹp trong năm của học sinh). Từ đó, các em nhìn thấy được thành
quả học tập của mình, sẽ thấy tự hào, kiêu hãnh và tự tin hơn, chủ động, tích cực
hơn trong học tập cũng như trong cuộc sống thường ngày.
4. Kết quả đạt được và chất lượng khảo sát sau khi thực nghiệm đề tài.
a. Kết quả đạt được
Học sinh đã tích cực đọc và tham khảo, tìm kiếm thông tin trước mỗi bài
học vẽ tranh nói riêng và Mĩ thuật nói chung. Và chủ động sưu tầm tranh, ảnh có
liên quan tới nội dung đề tài của bài học.
Với hình thức tạo tình huống, lồng ghép trò chơi thì thu hút sự chú tâm,
tạo được hứng thú, phát huy được tính chủ động tích cực trong phát biểu, xây
dựng ý kiến, tính sáng tạo trong khi làm bài của học sinh.
Hầu hết học sinh đều đã nắm được qui trình cách làm bài chung của một
bài vẽ tranh, các em đã tạo được nếp làm việc nhanh, khoa học, lô gíc trong hoạt
động thực hành, cũng như nếp học ở những môn học khác.
Học sinh ở độ tuổi học lớp 6 các em đã được tiếp xúc nhiều đề tài nên
những tiết học vẽ học sinh vẽ thường nhanh hơn, đã có ý thức trong sắp xếp hình
ảnh bố cục trên tranh, nét vẽ chi tiết hơn, không còn chung chung, sơ sài. Cách
sắp xếp hình ảnh đã có những khoảng hình che khuất, những khoảng rời hợp lí,
thể hiện nhóm chính, nhóm phụ trong tranh. Hình vẽ sinh động hơn với nhiều
dáng hoạt động thay đổi nhịp nhàng, màu sắc hài hòa, nỗi rõ trọng tâm bài vẽ.
Thể hiện thao tác quan sát nhận biết hình ảnh, màu sắc…cũng như cách
cầm bút vẽ, màu vẽ để vẽ hình vẽ nét đã đi vào nề nếp thuần thục hơn.
Tranh vẽ hình rõ ràng, gần gủi với hiện thực, nhiều chi tiết hợp lí, sinh
động.
Ý tưởng khai thác đề tài vừa có bề rộng, vừa có ý sâu xa dí dỏm, tạo cho
tranh thêm phong phú đa dạng. Hiện tượng sao chép tranh không còn, các em
chủ động làm bài, sáng tạo bài vẽ theo khả năng, cảm xúc của mình. Vẫn có
những bài chưa đẹp về hình (hình chưa sinh động, ít tạo được dáng thay đổi…)
song lại thể hiện được tình cảm, cảm xúc trân thành, vừa gây thơ, vừa đáng yêu

của các em.
b. Chất lượng khảo sát.
Qua việc vận dụng các phương pháp trên, tôi thấy học sinh đã vẽ khá hơn .
Nhìn chung học sinh có hứng thú và hăng hái hơn đối với phân môn Vẽ tranh.
Vì giáo viên đã tạo ra được động lực cho sự chủ động, tích cực của người học,
15


người học được phép sáng tạo, phát hiện cái mới, được thể hiện chính kiến và
chia sẻ kinh nghiệm trong mối quan hệ hợp tác, thân thiện. Từ đó thúc đẩy kết
quả dạy học ngày càng tốt hơn. Cụ thể số liệu khảo sát như sau:
Lớp
6A
6B
6C

Sĩ số
Đ
%

%
30
30
100
0
0
32
32
100
0

0
30
30
100
0
0
Như vậy qua các giải pháp cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo ở học sinh khối 6 trong dạy – học vẽ tranh, bên canh đó việc tổ chức
chơi các trò chơi vẽ tranh đã giúp các em quên đi mệt mỏi, thấy hứng thú hơn
với môn học, tạo được không khí đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm lẫn
nhau. Đồng thời giúp các em nhớ lâu hơn các kiến thức đã được học. Thông qua
quá trình chơi, các em cũng thấy cái hay của bố cục, tạo hình và màu sắc, việc
cần thiết phải làm đúng trình tự các bước đã được học
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của
quá trình dạy học. Cùng một nội dung như nhau nhưng học sinh học tập có hứng
thú, có tích cực hay không, giờ học có phát huy được trí sáng tạo của trẻ hay
không, có để lại những dấu ấn sâu sắc và khơi dậy những tình cảm trong sáng,
lành mạnh trong tâm hồn các em hay không... phần lớn đều phụ thuộc vào
phương pháp dạy học của người giáo viên.
Vì vậy, để dạy học phân môn vẽ tranh trong môn Mỹ thuật ở trung học cơ
sở có chất lượng cao, người giáo viên mỹ thuật phải có những hiểu biết sâu rộng
về nghệ thuật vẽ tranh và phương pháp dạy học phân môn vẽ tranh, quy trình lên
lớp một tiết dạy học vẽ tranh, vận dụng nó vào trong quá trình giảng dạy để
chuyển tải những kiến thức của mình đến cho học sinh.
- Để đáp ứng được sự phát triển của xã hội hiện nay, trong quá trình học
tập học sinh phải tích cực, chủ động tìm tòi để phát hiện ra tri thức. Hay nói
cách khác, dạy học chính là quá trình tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức.
Vai trò của học sinh là chủ động, phải làm ra các "sản phẩm học tập" bằng

chính sự tìm tòi, sáng tạo của bản thân dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo
viên. Mà dạy học phân môn vẽ tranh là quá trình rèn luyện cho học sinh nếp
nghĩ, phương pháp làm việc khoa học - tư duy khoa học, tư duy sáng tạo và giáo
dục thẩm mỹ cho học sinh. Học sinh chỉ đạt được điều này khi các em hứng thú,
tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập. Chính vì vậy mà người giáo
viên mỹ thuật phải am hiểu phương pháp dạy học phân môn vẽ tranh và vận
dụng nó theo hướng phát huy tính độc lập, tính tích cực suy nghĩ, tìm tòi, sáng
tạo tri thức.
Tiếp thu những thành tựu về lý luận phương pháp dạy học, về tâm lý học
lứa tuổi và tìm hiểu thực trạng dạy học mỹ thuật và dạy học phân môn vẽ tranh,
tiểu luận đã làm sáng tỏ được một số vấn đề về dạy - học phân môn vẽ tranh
khối 6.
16


Sau thời gian nghiên cứu và vận dụng đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi đã
rút ra được một số bài học kinh nghiêm như sau:
- Giáo viên phải hiểu biết sâu sắc những kiến thức cơ bản của môn Mĩ
thuật, cũng như kiến thức cụ thể của mỗi phân môn, nhất là về mục tiêu, yêu cầu
ở mỗi bài vẽ tranh. Đồng thời bổ sung vốn kiến thức của mình thường xuyên,
phải nắm vững bản chất đặc điểm tâm lí, ngôn ngữ tạo hình của từng đối tượng
học sinh để tìm, chọn và vận dụng các hình thức tổ chức với các phương pháp
dạy- học phù hợp, tạo không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng.
- Luyện tập, phát triển kĩ năng vẽ tranh, khả năng tổng hợp, tổ chức , nâng
cao và phát huy vai trò của giáo viên trong hoạt động dạy – học.
- Tham khảo, lấy ý kiến đóng góp từ đồng nghiệp và cần tham khảo, tìm
kiếm thông tin ở những tài liệu có liên quan tới chuyên môn.
- Giáo viên gặp gỡ học sinh ngoài giờ, thăm hỏi, tìm hiểu hoàn cảnh các
em để tạo sự gần gủi cũng như có phương pháp tổ chức phát huy tính chủ động
tích cực học tập của học sinh.

- Phối hợp với nhà trường, hội phụ huynh tạo điều kiện về cơ sở vật chất,
tư liệu, phương tiện dạy học phục tốt cho việc dạy – học vẽ tranh, nhất là tạo
điều kiện tốt cho việc tổ chức thi vẽ tranh cấp trường, cấp huyện đạt kết quả
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được trong quá trình
giảng dạy, chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu xót. Tôi rất mong được sự góp ý của
hội đồng khoa học Giáo dục các cấp để đề tài được tốt hơn. Và tôi cũng hy vọng
với kết quả đạt được ở trên sẽ góp một phần nào đó vào quá trình đổi mới
phương pháp giảng dạy, phát huy được vai trò của giáo viên cũng như phát huy
tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học Mĩ thuật nói chung và trong
phân môn vẽ tranh nói riêng.
2. Kiến nghị:
Tôi mong các cấp lãnh đạo luôn quan tâm đến việc dạy và học môn Mĩ thuật.
Trang bị cho chúng tôi những đồ dùng, phương tiện dạy học thiết yếu như tranh,
ảnh tư liệu để phục vụ các tiết lên lớp (hiện đang thiếu tranh MT lớp 6,7,8 và
MT 9). Cung cấp những tài liệu tham khảo về nội dung và phương pháp dạy Mĩ
thuật THCS. Và nếu có phòng học riêng cho bộ môn Mĩ thuật, chắc chắn sẽ
thuận lợi rất nhiều cho cả giáo viên và học sinh trong dạy và học Mĩ thuật nói
chung và phân môn Vẽ tranh nói riêng.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cẩm Bình, ngày 05tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Trần Thị Duyên

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuấn Nguyên Bình (chủ biên) (2007), Giáo trình mĩ thuật và phương
pháp dạy học mĩ thuật.
2. Duy Lập (dịch), (2008), Phát triển trí tưởng tượng và sáng tạo của trẻ
em, Nxb Thanh Niên
3. Đàm Luyện (chủ biên), Một số vấn đề cơ bản về giáo dục và phương
pháp dạy học Mĩ thuật
4. Nguyễn Thị Ngọc (chủ biên), Giáo trình Mĩ thuật và phương pháp dạy
học mĩ thuật.
5. Giáo trình mỹ thuật, (1998), nhiều tác giả, NXB Giáo dục,
6. Nhóm tác giả của Trường ĐHSP Hà Nội, (2012), Giáo trình Đổi mới
phương pháp dạy học ở trung học cơ sở, Nxb đại học Sư phạm.
7. Phan Thị Vân Tuyến, Trường tiểu học Tràm Chim 3, 2013-2014,
SKKN “Nâng cao chất lượng phân môn vẽ tranh ở trường trung học cơ sở”
8. Nguyễn Văn Tỵ Bước đầu học vẽ, , Nxb Văn Hóa, 1983

18


MỤC LỤC
Danh mục các phần
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng vấn đề

3. Các giải pháp
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỘT SỐ BÀI VẼ CỦA HỌC SINH

Trang
1
1
1
1
2
2
2
3
4
14
15
15
17
18
19

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP TỪ LOẠI C TRỞ LÊN.
Họ và tên : Trần Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Cẩm Bình.
TT

1
2

3

Tên đề tài
SKKN

Hướng dẫn học sinh vẽ
màu trong tranh đề tài
Tìm hiểu ngôn ngữ tạo
hình của học sinh THCS
để có phương pháp dạy
tốt phân môn vẽ tranh
môn mỹ thuật 6
Phát huy tính tích cực,
sáng tạo ở học sinh khối
6 trong dạy – học vẽ
tranh .

Cấp đánh giá xếp
loại(phòng, sở,tỉnh...)


Kết quả đánh
giá xếp loại(A,
B hoặc C)

Năm học đánh
giá xếp loại

Phòng GD&ĐT
huyện Lang Chánh
Phòng GD&ĐT
huyện Cẩm Thủy

B

2009-2010

B

2013-2014

Phòng GD&ĐT
huyện Cẩm Thủy

A

2016-2017

20



MỘT SỐ BÀI VẼ CỦA HỌC SINH

21


22


23


24



×