Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn luyện các kĩ năng cơ bản trong phân môn vẽ tranh, môn mĩ thuật ở trường THTHCS vĩnh tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 21 trang )

MỤC LỤC

Nội dung
I. MỞ ĐẦU

Trang
2

1. Lý do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Đối tượng nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

4

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận

4
4

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm


3. Các giải pháp đã thực hiện
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

5
7
16
17

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:

1


Mĩ thuật là một trong những môn học có vai trò quan trọng trong ch ương trình
giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh biết cảm nhận cái đẹp, yêu quý cái đẹp,
từ đó biết cách rèn luyện đôi bàn tay trí óc để tạo ra cái đẹp.
Thực tế chúng ta nhận thấy học sinh rất ham thích học vẽ. Nếu như chúng ta xây
dựng cho các em ý thức học tập tốt, tạo ra không khí thoải mái khi học thì sẽ đạt được
hiệu quả tốt nhất.
Nhưng tùy theo trình độ nhận thức và năng khiếu của từng em, từng độ tuổi khác
nhau mà giáo viên nhận ra quá trình nhận thức diễn ra ở từng em. Như vậy không thể
tác động đến quá trình nhận thức của các cá nhân bằng một biện pháp như nhau.Có
học sinh ta phải tác động từ từ, có học sinh vừa phải trực tiếp vừa gián tiếp ở nhiều
phía mới nắm bắt được. Có học sinh chỉ cần tác động ít đã nắm bắt được ngay nội
dung bài học. Nếu như không có sự gợi mở gây hứng thú của giáo viên thì học sinh
không có sự ham thích tìm tòi học tập.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy của đồng nghiệp và cùng với quá trình giảng dạy
của bản thân, đặc biệt là việc từng bước đổi mới phương pháp dạy học, tôi luôn đặt

cho mình mục tiêu là: “Phải làm gì để thực hiện yêu cầu đổi mới nhằm nâng cao chất
lượng bài dạy của mình” để các em học sinh cảm nhận được một cách sâu sắc về vẻ
đẹp của con người, thiên nhiên xung quanh mình qua đó phát huy được trí tưởng
tượng và óc sáng tạo, hình thành thị hiếu thẩm mĩ, hoàn thiện nhân cách thông qua
nội dung các bài học mĩ thuật.
Là một bộ môn năng khiếu, khả năng diễn đạt những suy nghĩ, sáng tạo của học
sinh bằng nét vẽ rất khó khăn. Đặc biệt là phân môn Vẽ tranh. Vì thế khi học và khi
thực hành rất dễ gây ra tình trạng chán nản, mất hứng thú vì phân môn vẽ tranh đòi
hỏi sự sáng tạo, tìm tòi...đưa ra ý tưởng của mình như thế nào cho hợp lí.
Để khơi dậy cho học sinh khả năng trong giờ học vẽ tranh đòi hỏi người giáo
viên cần phải thực sự say mê giảng dạy và tạo được cho học sinh sự lôi cuốn, đam mê
trong giờ học mĩ thuật mà cụ thể là cách: “Rèn luyện các kĩ năng cơ bản trong phân
môn vẽ tranh, môn mĩ thuật ở trường TH & THCS Vĩnh Tiến ”. Tôi hy vọng với
2


những nghiên cứu này của mình sẽ cung cấp các kĩ năng cho học sinh, giúp các em
phát triển toàn diện nhân cách con người, tạo hứng thú tiếp thu bài học nhẹ nhàng và
hiệu quả hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đối với học sinh:
+ Biết quan sát và chọn nội dung đề tài để đưa vào trong các bài vẽ tranh. Hình
thành được thói quen trước khi vẽ bài phải thực hiện làm phác thảo đen trắng.
+ Biết cách sắp xếp bố cục, có chính có phụ. Vẽ được những dáng nhân vật đẹp
trong các mảng đã sắp xếp.
+ Vẽ được những màu đẹp, có sáng tạo và phân biệt được nhóm chính, phụ cho
bài vẽ.
+ Cảm nhận được cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày.
- Đối với giáo viên:
+ Giúp học sinh biết thứ tự các cách thực hiện thông qua các bước nhỏ của một

bài vẽ tranh, hướng dẫn học sinh rèn luyện các kỹ năng cơ bản trong phân môn vẽ
tranh.
+ Mỗi bài dạy vẽ tranh phải đảm bảo đúng kiến thức cơ bản, có trọng tâm, mang
đặc trưng môn học. Từ đó, các em có thể vận dụng trong đời sống hàng ngày.
+ Biết mở rộng kiến thức trong mỗi bài vẽ tranh bằng sự hướng dẫn học sinh tìm
tòi, sáng tạo (tìm ra nội dung đề tài, tìm bố cục, tìm màu cho hài hòa). Hướng dẫn
làm bài vẽ tranh cho phù hợp, góp ý chỉnh sửa, nhận xét cho từng học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh khối 6 trường TH và THCS Vĩnh Tiến – Vĩnh Lộc – Thanh Hóa, các
em ở độ tuổi làm quen với chương trình học năng khiếu ngành mĩ thuật.

4. Phương pháp nghiên cứu:

3


- Phương pháp điều tra: nhận thấy các kỹ năng phát triển tốt và kỹ năng chưa
phát triển ở học sinh để có biện pháp bổ sung.
- Phương pháp đánh giá: được tôi sử dụng thường xuyên ngoài những đánh giá
các bài vẽ trên lớp, tôi thường xuyên ra bài tập về nhà cho học sinh. Tổ chức thu và
chấm bài, trả bài tại lớp. Tạo điều kiện cho học sinh đựơc rèn luyện kỹ năng nhận xét
và kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ.
- Phương pháp nghiên cứu: tự nghiên cứu trau dồi kiến thức để giải trình các câu
hỏi của học sinh đưa ra khi gặp những khó khăn khi vẽ.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết dạy và học Mĩ thuật ở trường trung học cơ sở không nhằm
đào tạo họa sĩ hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học
sinh, chủ yếu tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc làm quen và thưởng thức cái đẹp,
tập tạo ra cái đẹp, vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày.

Là giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật, tôi tự nhận thấy ở những học sinh có
kết quả tốt không hoàn toàn là những em có năng khiếu. Có nhiều học sinh, khi bước
đầu học bộ môn thường cảm thấy rất khó khăn, bài vẽ chậm và xấu làm cho các em
này tỏ ra chán nản không có hứng thú vẽ, vì nghĩ rằng mình không có năng khiếu.
Nhưng sau một thời gian học tập, khi học sinh đã nắm được trọng tâm kiến thức và
các kỹ năng cơ bản của bộ môn thì các em đã ham thích, đam mê và đạt được kết quả
bất ngờ. Tôi tự nhận định môn học Mĩ thuật ở trường phổ thông không đòi hỏi ở
người học những khả năng bẩm sinh mà đòi hỏi ở học sinh khả năng tiếp thu kiến
thức, niềm đam mê, tính tích cực chịu khó. Vì vậy việc rèn luyện và phát triển những
kỹ năng cho học sinh để các em có thể học tốt bộ môn Mĩ thuật và tạo hưng phấn
trong các môn học khác là tất yếu và cần thiết.
Để đạt được mục tiêu trên học sinh phải được hình thành và phát huy những kỹ
năng cần thiết khi học những giờ học của môn Mĩ thuật đó là:
4


- Kỹ năng quan sát
- Kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ
- Kỹ năng tư duy hình tượng
- Kỹ năng thực hành
- Kỹ năng đánh giá
- Kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn
Qua thực tế giảng dạy môn Mĩ thuật ở trường TH &THCS Vĩnh Tiến –Vĩnh Lộc
– Thanh Hóa, do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu mẫu vẽ, tranh ảnh
và phòng thực hành riêng, nên khi giảng dạy phân môn Vẽ tranh tôi thấy học sinh còn
gặp nhiều khó khăn , các em còn sơ sài trong lựa chọn nội dung đề tài, hình vẽ nhàm
chán, đơn điệu, bố cục rời rạc, chưa xác định nhóm chính phụ rõ ràng, màu sắc mờ
nhạt… nên nhiều bài vẽ của học sinh đạt kết quả chưa cao.
2: Thực trạng của vấn đề:
* Từ học sinh:

Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lứa tuổi trung học cơ sở (khối lớp 6 chưa
quen với nếp học cấp II, khối 7, 8, 9 đang trong giai đoạn tập làm người lớn nên
thường thích làm theo ý mình).
Đa số các em vẫn làm theo cảm tính( vẽ theo ý mình mặc dù giáo viên hướng
dẫn rất kĩ, nhưng vẫn làm khác với yêu cầu của giáo viên).
Một số em khi làm bài thường sao chép từ sách giáo khoa, rập khuôn, máy móc.
* Từ nhà trường
Chưa có phòng học riêng cho môn mĩ Thuật, mỗi tiết học vẫn bị gò bó về kỉ luật
trật tự, gò bó về tầm nhìn, về môi trường thẩm mĩ.
Chưa thấy rõ được vai trò, tác dụng của bộ môn nên chưa có hướng để bộ môn
phát huy.
* Từ nhận thức của người dân địa phương

5


Chưa thấy rõ vai trò của bộ môn trong việc bổ trợ cho các môn học khác nên
chưa quan tâm, đầu tư cho con em học môn Mĩ Thuật trong nhà trường.
* Từ chương trình học
Bộ môn Mĩ thuật gồm 4 phân môn:
- Vẽ trang trí.
- Vẽ tranh.
- Vẽ theo mẫu.
- Thường thức mĩ thuật.
Trong cấp học gồm 4 khối (6, 7, 8,9) phân môn vẽ tranh có thời lượng 2 tiết/ bài,
có bài chỉ có thời lượng 1 tiết/ bài nên hạn chế khả năng sáng tạo của các em.
Kết quả của thực trạng trên:
Qua việc dạy học và kiểm tra, thống kê kết quả học tập của học sinh khối 6 tại
trường sở tại như sau:
Khối

Lớp
6A

dung Bố cục hợp lí

Màu sắc

Số

Học sinh vẽ Nội

học

đạt yêu cầu

chính xác

sinh

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

33

15

45,5

10

30,3

8

24,2

8

24,2

hài hòa

Từ kết quả khảo sát trên và quá trình theo dõi hoạt động học tập của học sinh tôi
thấy kết quả khảo sát của các lớp đều rất thấp. Phần lớn các em thường cảm thấy
nhàm chán, không thích học hoặc nếu có học thì tỏ ra uể oải và đối phó.
Vấn đề đặt ra trước mắt và lâu dài là làm thế nào để học sinh học tốt hơn phân
môn vẽ tranh. Theo tôi phải tìm tòi, nghiên cứu trong nhiều năm, trao đổi với đồng

nghiệp tìm ra cái gì mình làm được, cái gì còn thiếu sót, điều quan trọng là phương
pháp dạy học của giáo viên, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương
pháp, thường xuyên đổi mới phương pháp hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc
điểm nhận thức của học sinh; tiếp cận gần gũi với học sinh, tìm hiểu ý nghĩ và khó
6


khăn của các em để cùng các em giải quyết. Đồng thời giáo viên cần biết sưu tầm và
sử dụng đồ dùng dạy học để khai thác trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh, nhằm gây
niềm tin cho các em khi bắt tay vào bài học.
3. Các giải pháp đã sử dụng:
3.1. Các giải pháp:
- Xác định mục tiêu cần đạt trong tiến trình dạy học.
- Chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng dạy – học khoa học, hợp lí, xây dựng kế hoạch
dạy học rõ ràng, có trọng tâm.
- Vận dụng kĩ năng dạy học linh hoạt áp dụng cho phân môn vẽ tranh.
- Ứng dụng một cách khoa học công nghệ thông tin vào bài giảng.
- Hiểu và nắm vững tâm lí học sinh trong độ tuổi.
3.2. Các biện pháp thực hiện:
a. Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát:
* Hướng dẫn học sinh quan sát thực tế ngoài thiên nhiên: Hoa lá, cây cỏ, con
vật, các hoạt động của con người.
Giáo viên đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với học sinh khi quan sát:
- Quan sát về đặc điểm, hình dáng, cấu tạo, tỉ lệ, màu sắc...
- Học sinh quan sát để hiểu được đối tượng, tìm ra vẻ đẹp của đối tượng.
- Biết chọn góc nhìn đẹp, xác định trọng tầm quan sát cho mỗi bài học.
- Không yêu cầu quan sát đúng, chính xác 100%.
Ví dụ: Khi dạy bài 5 Vẽ tranh đề tài chủ đề Học tập ( Tiết 6,7- Mĩ thuật 6) Giáo
viên đưa ra những tranh, ảnh thực tế (học nhóm, học ở nhà, học trên lớp, chăn trâu
học bài…) cho học sinh quan sát và đặt câu hỏi để hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ

năng quan sát, như:
- Bức tranh( ảnh) có nội dung gì?
- Bố cục trong tranh?
- Em có nhận xét gì về các hình vẽ trong tranh?
- Màu sắc của tranh như thế nào?
7


-Em hãy chọn một nội dung khi thể hiện bài vẽ tranh về đề tài này?
Từ những hướng dẫn trên học sinh có những cảm nhận bước đầu về nội dung đề
tài, biết chọn những nội dung phù hợp, dễ dàng đưa ra nhận xét chính xác về đặc
điểm, hình dáng, cấu tạo, màu sắc… của hình dáng nhân vật, kỹ năng quan sát của
học sinh đựơc nâng cao và làm nền tảng cho kỹ năng khác phát triển.
* Hướng dẫn học sinh quan sát tranh ảnh, bài vẽ mẫu
Khi dạy về vẽ tranh giáo viên cần cho học sinh quan sát tranh ảnh, bài vẽ mẫu
(cả bài vẽ đẹp và chưa đẹp) và yêu cầu học sinh so sánh, đối chiếu về bố cục, hình vẽ,
màu sắc… qua các câu hỏi, ví dụ:
-Trong những bài vẽ này, bài nào có bố cục chặt chẽ, hài hòa?
-Bài vẽ nào có sự phối hợp hợp lý về màu sắc?
-Bài vẽ nào em cho là chưa đẹp? vì sao?
-Em có nhận xét gì về nội dung trong thực tế và nội dung đó trong bài vẽ?
Qua việc hướng dẫn học sinh quan sát tranh ảnh, bài vẽ mẫu kết hợp với phương
pháp dạy học vấn đáp, giáo viên giúp học sinh:
- Nhận ra những ưu điểm, nhược điểm của các bài vẽ để vận dụng cho việc làm
bài tốt hơn.
- Học sinh biết so sánh, đối chiếu giữa các bài vẽ
- Tập cho học sinh có thói quen quan sát, so sánh, phân tích.
b. Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ:
Khi giáo viên đã rèn luyện được cho học sinh có kỹ năng quan sát tức là học
sinh đã có khả năng nhận biết cái đẹp.

Tuy nhiên mỗi học sinh có cảm nhận riêng về cái đẹp, giáo viên giảng dạy cần
hướng cho học sinh cách cảm thụ cái đẹp một cách cơ bản. Cái đẹp ở đây bao gồm cả
hình thức và nội dung, hình thức thể hiện được nội dung, cái đẹp của nghệ thuật phải
bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống.
Học sinh phải biết chắt lọc lựa chọn hình tượng đẹp để phản ánh trong “tác
phẩm” của mình. Học sinh biết rung động, cảm nhận được những vẻ đẹp của cuộc
8


sống , từ đó các em biết trân trọng và giữ gìn những cái đẹp của bản thân và của xã
hội, có ý thức vươn tới giá trị “chân, thiện, mỹ”.
c. Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng tư duy hình tượng:
Giáo viên sử dụng phương pháp gợi mở, liên hệ thực tiễn, tổ chức cho học sinh
đi dã ngoại, trải nghiệm thực tế trên các làng nghề ở địa phương. Từ đó các em tư duy
có sự vận dụng thực tế vào bài vẽ.
Ví dụ: Cho các em học sinh kí họa để các em cảm nhận được vẻ đẹp của những
hình ảnh quen thuộc, sau đó biết vận dụng áp dụng vào các bài vẽ tranh.
Giáo viên cần sưu tầm thêm nhiều bài vẽ tranh đẹp của các học sinh khóa trước
và của các họa sĩ để học sinh cảm thụ và biết vận dụng cho bài vẽ của mình.
d. Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành:
Là khả năng vận dụng những hiểu biết thông qua quan sát, so sánh vào trong bài
học để có thể sắp xếp bố cục, vẽ nét, vẽ hình, vẽ màu... Khả năng tự học, tự nghiên
cứu sưu tầm tài liệu, trình bày sản phẩm học tập. Để học sinh thực hiện có hiệu quả
kỹ năng thực hành trong bài vẽ tranh, người giáo viên nên hướng dẫn học sinh theo
các bước sau:
* Hướng dẫn học sinh tìm bố cục:
Sau khi cho học sinh lựa chọn nội dung đề tài, giáo viên yêu cầu học sinh tìm
bố cục, các mảng hình chính, phụ.
Giáo viên vẽ thị phạm trên bảng cụ thể từng bước tìm nét và hình, để học sinh
quan sát và thấy được kỹ năng của thầy, sự hào hứng khi biết vẽ thì sẽ làm được

những sản phẩm đẹp, và các em có hứng thú làm bài.
Tạo thói quen cho học sinh suy nghĩ trước khi tìm hình,hướng dẫn các em phân
mảng chính, phụ một cách rõ ràng bằng cách sắp xếp nhóm chính theo hình tròn,
vuông, hình chữ nhật hoặc tam giác và thường đặt giữa tranh, nhóm phụ nhỏ hơn, hỗ
trợ cho nhóm chính, nhằm tạo ra một bố cục hợp lý. Sau đây là các bước phân mảng,
tìm hình

9


Hình 1: Tìm bố cục:
Ở bước này giáo viên lưu ý học sinh tránh một số lỗi: bố cục nặng nề ( mảng to quá,
nhỏ quá) hoặc bố cục dàn trải rời rạc nhau.
Ví dụ:

Hình 2: Một số bố cục nặng nề, dàn trải không đều nhau.

10


Ở bước này hầu hết học sinh thường bỏ qua và các em chỉ tập trung để vẽ hình.Vì thế
giáo viên cần tập cho các em thói quen xác định mảng hình để xây dụng cho bài vẽ
một bố cục cân đối và hài hòa
* Hướng dẫn học sinh tìm hình:
Dựa vào các mảng hình đã sắp xếp trong bố cục để vẽ các dáng hình cụ thể ( con
người, cảnh vật...). Hình dáng nhân vật cần có sự khác nhau, có dáng tĩnh, dáng
động,các nhân vật trong tranh cần ăn nhập với nhau, hợp lí, nhất quán giữa hình vẽ
với nội dung tư tưởng.

Hình 3: Tìm hình

Ví dụ: Bài 31 Vẽ tranh đề tài Mẹ của em (Mĩ thuật 6). Giáo viên hướng dẫn học
sinh thực hiện như sau:
+ Xác định được nội dung đề tài
+ Xác định bố cục ( nhóm chính, nhóm phụ)
+ Xác định mảng chính: mảng hình thoi hoặc hình tròn, hình vuông…
+ Xắp xếp hình mảng không lặp lại,không đều nhau,cần có các mảng trống( như
nền trời, đất) sao cho bố cục không bị chật chội hoặc quá trống hay dàn trải, cần có
gần, có xa.
+ Tìm hình: các hình dáng phải phù hợp với nội dung đề tài, xác định mảng
chính, mảng phụ.
* Hướng dẫn học sinh vẽ màu:
Hướng dẫn học sinh vẽ màu cho phù hợp, có thể hướng các em vẽ màu theo hòa
sắc nóng, lạnh hay màu trầm. Trong bài vẽ tranh học sinh cần sử dụng màu sắc hài
11


hòa, làm bật nổi màu nhóm chính, màu sắc nhóm phụ hỗ trợ cho nhóm chính nên sử
dụng màu nhạt hơn.
Trên thực tế học sinh thường sử dụng bút dạ, màu sáp là chủ yếu, chính các chất
liệu này trong khi các em sử dụng thường hay ngẫu hứng vẽ màu theo ý thích do vậy
nhiều em thường hay mắc phải những lỗi như: vẽ màu chưa hợp, không rõ đậm nhạt,
chưa biết chạy màu trong một bài vẽ, chưa phân biệt được sắc màu, cách đưa nét vẽ
màu chưa hợp lý.
Để khắc phục những vấn đề trên giáo viên yêu cầu học sinh vẽ màu phải đủ
đậm. Phải biết so sánh và chạy màu, ở hình nhóm chính có đỏ thì phải chạy ra hình
nhóm phụ có đỏ nhưng sắc độ có sự khác nhau, hình nhóm chính bao giờ cũng sáng
và rõ hơn hình nhóm phụ.
Đôi khi vẽ bài các mảng hình lẫn nhau, ta có thể dùng bút dạ đi nét cho tách
mảnh hình, đặc biệt là hình nhóm chính.
Chú trọng tới chiều hướng khi đưa màu,có thể sử dụng những nét ngang, dọc tùy

thuộc vào mỗi mảng hình khác nhau để tạo cho bài vẽ sinh động.
Ngoài những chất liệu hay sử dụng các em có thể tìm tòi và sử dụng những chất
liệu màu cao hơn, màu nước, màu bột, sơn dầu…
Ví dụ:
 Các bài vẽ màu chưa đẹp của học sinh:

12


Các bài vẽ trên có màu sắc mờ nhạt, không rõ ràng, vẽ màu còn ẩu, nhóm phụ chưa
hợp lý có sự tranh chấp với nhóm chính.
 Các bài vẽ màu đẹp của học sinh:

13


* Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng đánh giá
Ở mỗi bước của bài vẽ tranh, giáo viên đều có thể hướng dẫn học sinh tự đánh
giá những chỗ hợp lý, đúng sai, đẹp và chưa đẹp về hình dáng, cấu trúc, tỉ lệ, màu
sắc, đậm nhạt của sản phẩm. Qua đó giúp cho học sinh hiểu được những giá trị của
nghệ thuật, từ đó biết phát huy sở trường, tích cực sáng tạo trong học tập.
Ví dụ: Học sinh nêu nhận xét về bố cục dàn trải hoặc nặng nề do cách sắp xếp
mảng hình không hợp lí.

Học sinh tự nhận xét theo cảm nhận riêng của mình, tự đánh giá theo cách hiểu của
mình để từ đó khắc sâu kiến thức, hiểu được yêu cầu bài học và rút kinh nghiệm cho
bài học sau.
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét, giáo viên có thể sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực: Phương pháp hoạt động hợp tác theo nhóm, phương
pháp vấn đáp hoặc phương pháp trò chơi để học sinh phát hiện những điểm đạt, chưa

đạt, hợp lý, chưa hợp lý… của từng bài về bố cục, hình vẽ, màu sắc để từ đó áp dụng
vào bài vẽ của mình.
- Khi học sinh đã hoàn thành bài vẽ: giáo viên cần gợi ý giúp học sinh biết tự
đánh giá sản phẩm của mình và của bạn, chỉ ra được những điểm đạt và chưa đạt của

14


từng bài, qua đó nhằm động viên, khích lệ kịp thời cho các em học sinh có kết quả
học tập tiến bộ.
Ví dụ: Cuối tiết dạy giáo viên dành khoảng 5 đến 7 phút cho học sinh tự đánh
giá kết quả thực hành của mình và của bạn. Giáo viên lựa chọn một số bài vẽ đẹp và
một số bài chưa hoàn thiện để học sinh tự đánh giá, với hệ thống câu hỏi đánh giá
như:
- Bài vẽ đúng nội dung chủ đề hay chưa?
- Bài vẽ a, b, c… sắp xếp bố cục đã hợp lý chưa, hình vẽ phù hợp chưa? Vì
sao?
- Màu sắc của bài vẽ trên sử dụng gam màu gì?
- Các bài vẽ trên, em thấy bài vẽ nào đẹp nhất?....
Học sinh tự đánh giá theo cảm nhận riêng của mình, sau đó giáo viên đưa ra
nhận xét, đánh giá chuẩn kiến thức (giáo viên không nên chê những bài vẽ xấu mà
nên động viên học sinh, chỉ ra những lỗi học sinh mắc phải để các em khắc phục).
*Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn:
+ Vận dụng kiến thức môn Mĩ thuật vào cuộc sống.
Vẽ tranh bắt nguồn từ thực tế đời sống xã hội, tranh vẽ truyền tải những nội
dung, hoạt động của cuộc sống thông qua cảm xúc của người vẽ và làm đẹp hơn cái
vốn có ban đầu. Nhiệm vụ của người giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết vận
dụng sự hiểu biết về cái đẹp để làm đẹp cuộc sống xung quanh, làm đẹp cho gia đ ình
và làm đẹp cho chính mình.
- Học sinh cảm thụ và nhận biết những biểu hiện của các hoạt động trong đời

sống xã hội như: lao động, học tập, rèn luyện, vui chơi, lễ hội, có lối sống theo hướng
tích cực.
+ Vận dụng kiến thức môn Mĩ thuật với các môn học khác.
Để học sinh hệ thống được kiến thức, có sự liên hệ giữa các môn học nhằm bổ
sung, hỗ trợ cho nhau, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức môn Mĩ
thuật vào học các môn học khác, như: Âm nhạc, Ngữ văn, Lịch sử.
15


. Đối với môn Âm nhạc, Ngữ văn: Khi học sinh đã rèn luyện được kỹ năng
quan sát, kỹ năng cảm thụ thẩm mỹ và tư duy hình tượng sẽ dễ dàng cảm thụ được
vẻ đẹp lãng mạn của thơ văn, của những bài hát trữ tình và ngược lại những bài hát ca
ngợi về cuộc sống, con người, cảnh đẹp quê hương, đất nước trong chương trình bậc
THCS (Khúc hát chim Sơn ca, Tiếng ve gọi hè, các bài dân ca…) những bài thơ,
truyện có nhạc, có họa (Mùa xuân nho nhỏ, Truyện Kiều…) cũng góp tạo cảm hứng
cho học sinh thể hiện sự sáng tạo khi chọn các hình vẽ thực tế để đưa vào các bài vẽ
của mình.
. Đối với môn Lịch sử: Dựa vào các hoa văn trang trí cổ của các triều đại như:
Lý, Trần, Lê sơ… các họa tiết hoa văn: Hoa cúc, hoa sen, mây, sóng nước và các hình
rồng… học sinh sẽ hiểu hơn văn hóa các triều đại trong lịch sử Việt Nam thời Lý,
Trần, Lê sơ...
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua thực nghiệm bài dạy, đồng thời lấy ý kiến của học sinh để thấy được thái độ của các em
đối với phân môn tôi thu được kết quả như sau:

Khối
Lớp
6A


Số

Học sinh vẽ Nội

học
sinh

đạt yêu cầu
SL
%

chính xác
SL
%

đối
SL

33

27

28

27

81.8

dung Bố cục cân Màu sắc


84.8

%
81.
8

hài hòa
SL
%
26

78.8

Đợt khảo sát lần này đối chiếu với kết quả trước khi áp dụng sáng kiến tôi nhận
thấy:
Chất lượng học tập của các lớp đều tiến bộ rõ rệt, các thói quen và nề nếp học
tập phân môn vẽ tranh đã được củng cố và ổn định.
Tuy nhiên vẫn còn một số học sinh thao tác còn chậm, còn lúng túng,và một số
em còn chưa thực sự hứng thú học tập. Không có phương pháp nào là vạn năng, thế
nên để khắc phục một số yếu điểm đó, sau một thời gian giảng dạy tại trường TH
16


&THCS Vĩnh Tiến, tôi vẫn tiếp tục theo dõi của các em đặc biệt là trong các giờ học
phân môn vẽ tranh.
Sau khi thu được kết quả này tôi thực sự phấn khởi vì các em tiến bộ nhanh và
kết quả đạt được ngày càng cao, tỉ lệ học sinh không thích học giảm so với năm học
trước, số học sinh ưa thích phân môn cũng tăng lên. Tôi cho rằng đấy là những thành
công ban đầu của mình và tiếp tục vạch ra hướng nghiên cứu để khắc phục tối đa
những điểm cần hạn chế và phát huy hết mức những ưu điểm của phương pháp đổi

mới vào giảng dạy.
Sáng kiến này có thể áp dụng với các bài vẽ tranh đề tài, tranh phong cảnh. Có
thể thực hiện trên tất cả các khối lớp, từ khối lớp 6 tới khối lớp 9. Thông qua các kỹ
năng trên ở mỗi bài vẽ tranh đều có thể giúp học sinh có cách nhìn, cách cảm về bố
cục đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt.Trên cơ sở đó học sinh có thể tạo ra
các bố cục đẹp, các hình vẽ sinh động, bài vẽ tranh đẹp, đồng thời cảm thụ được vẻ
đẹp của sản phẩm mĩ thuật.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Theo tôi đối với phân môn vẽ tranh, môn Mĩ thuật bậc THCS thì việc rèn luyện
và phát triển các kỹ năng cơ bản cho học sinh là rất cần thiết. Môn Mĩ thuật cũng như
các môn học khác đòi hỏi ở người học phải có kiến thức, sự đam mê ham thích. Để
học tốt được bộ môn này không phải là sự phụ thuộc vào những năng khiếu bẩm sinh
mà phải trải qua học tập và rèn luyện. Với đặc trưng bộ môn những kỹ năng cơ bản là
cốt lõi dẫn đến thành công cho môn học.
Đây là những kỹ năng chủ yếu mà học sinh cần được rèn luyện và phát triển
trong môn Mỹ thuật. Với những kỹ năng đó thì kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, được coi là mới trong nội dung chương trình và đổi mới phương pháp dạy học.
Đây cũng là những kỹ năng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong giờ học
của học sinh. Học sinh cũng có vai trò tham gia đánh giá kết quả học tập của mình, để
tiếp tục khám phá những kiến thức mới một cách chủ động chứ không thụ động là
17


lắng nghe và tiếp thu kiến thức từ giáo viên. Mặt khác sự tích cực chủ động trong học
tập sẽ giúp học sinh chủ động sáng tạo vận dụng kiến thức vào thực tiễn một cách tích
cực hơn.
Qua việc vận dụng của bản thân, tôi thấy giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn. Học
sinh rất thích học bộ môn, nắm vững kiến thức, phát triển các kỹ năng và vẽ đẹp hơn.
Việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm vào trong giảng dạy đã mang nhiều hiệu quả

tích cực trong học sinh. Tiếp đến trong những năm học tới bản thân tôi sẽ cố gắng áp
dụng sáng kiến “Rèn luyện các kỹ năng cơ bản trong phân môn vẽ tranh, môn Mỹ
thuật ở trường TH và THCS Vĩnh Tiến” sang các phân môn vẽ theo mẫu, vẽ trang trí.
2. Kiến nghị:
Trong khi thực hiện sáng kiến cùng với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm của
mình, tôi xin có một số đề xuất như sau:
- Nhà trường cần phải có phòng chuyên môn mĩ thuật riêng, cần bổ sung cung
cấp thêm tranh ảnh và mẫu vẽ cho môn Mĩ thuật.
- Phòng GD&ĐT Vĩnh Lộc, Sở GD&ĐT Thanh Hóa nên tổ chức các chuyên đề,
các buổi tọa đàm để tạo điều kiện cho giáo viên giảng dạy môn Mỹ thuật ở các trường
trao đổi học hỏi kinh nghiệm chuyên môn.

XÁC NHẬN
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Vĩnh Tiến, ngày

tháng 10 năm

2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

18


Hoàng Thị Thu Hảo
Tài liệu tham khảo

 Nghiên cứu tổng hợp chương trình Mĩ Thuật bậc THCS ở chương trình sách
giáo khoa mới của Nguyễn Quốc Toản.
 Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Mĩ Thuật trung học cơ sở
của Đàm Luyện, Bạch Ngọc Diệp và Nguyễn Quốc Toản.
 Sách giáo khoa mĩ thuật 6, 7, 8, 9.
 Sách giáo viên mĩ thuật 6, 7, 8, 9.
 Mĩ thuật và phương pháp dạy học của Trịnh Thiệp và Ưng Thị Châu.

19


Danh mục các đề tài SKKN đã được Hội đồng SKKN ngành GD huyện,
cấp Tỉnh và các cấp cao hơn đánh giá.
TT
1

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá

Một số biện pháp giúp học sinh THCS C cấp huyện

Năm
đánh giá
2008 - 2009

học tốt phân môn Vẽ Theo Mẫu, môn
2

Mĩ Thuật ở trường THCS Vĩnh Tiến.

Rèn luyện kĩ năng vẽ theo mẫu cho B cấp huyện.

2011 – 2012.

học sinh lớp 6, môn Mĩ Thuật trường
3

THCS Vĩnh Tiến.
Rèn luyện các kĩ năng cơ bản trong A cấp huyện

2015 - 2016

phân môn vẽ trang trí, môn mĩ thuật ở
4

trường THCS Vĩnh Tiến
Rèn luyện các kĩ năng cơ bản trong B cấp tỉnh

2015 – 2016.

phân môn vẽ trang trí, môn mĩ thuật ở
trường THCS Vĩnh Tiến

20


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH LỘC

TRƯỜNG TH&THCS VĨNH TIẾN


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN
TRONG PHÂN MÔN VẼ TRANH,MÔN MỸ THUẬT
Ở TRƯỜNG TH&THCS VĨNH TIẾN

Người thực hiện: Hoàng Thị Thu Hảo
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH&THCS Vĩnh Tiến
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Mỹ Thuật

VĨNH LỘC, NĂM 2019

21



×