MỤC LỤC.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Nội dung
1. Phần mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Phần nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục
3. Phần kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Trang
02
02
01
01
01
17
05
02
11
02
02
02
02
1
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học là vấn đề trọng tâm và luôn được đặt lên hàng đầu. Chúng ta phải
luôn nhận thấy rằng: Chỉ có đổi mới phương pháp dạy học thì mới thật sự đổi
mới trong giáo dục, mới tạo ra con người năng động, sáng tạo và hội nhập.
Có thể nói, đổi mới dạy học hiện nay là hướng tới hoạt động học tập chủ
động, chống và xoá bỏ thói quen học tập thụ động truyền thống để đào tạo ra
những con người trong xã hội có năng lực thực hành. Đổi mới phương pháp dạy
học được vận dụng ở tất cả các mơn học nói chung và bộ mơn Ngữ văn nói
riêng. Đối với mơn Ngữ văn là một môn học đã và đang thực hiện việc đổi mới
một cách triệt để. Đổi mới về nội dung, phương pháp, phương tiện,... Đổi mới ở
các phân môn: Đọc - hiểu văn bản, phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn.
Đối với phân mơn Tập làm văn thì rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản, kỹ
năng xây dựng đoạn văn nằm trong phạm vi đổi mới phương pháp dạy học. Đặc
biệt, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh là vấn đề hết sức quan trọng
và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức
và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em. Qua việc rèn luyện kĩ năng
viết đoạn văn, học sinh có được ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng
gia đình, bè bạn, có lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những
tình cảm cao đẹp. Cũng rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu
có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật và trong đời
sống, trước hết là trong văn học để có năng lực thực hành và năng lực sử dụng
Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Trong năm học 2018 – 2019, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ Văn
lớp 8. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: đối với phần lớn học sinh thì phân
mơn Tập làm văn, mà nhất là phần văn Nghị luận rất khó và trừu tượng nên kết
quả học tập của học sinh chưa cao. Vì thế, để viết được một bài văn nghị luận
đúng và hay học sinh cần phải rèn luyện rất nhiều kĩ năng. Một trong những yếu
tố làm nên sức hấp dẫn của văn nghị luận đó là những đoạn văn hay. Có nhiều
đoạn văn hay trong bài sẽ tạo ra một bài văn hay bởi đoạn văn là một bộ phận
của văn bản. Mỗi đoạn văn của một văn bản có tính độc lập tương đối. Nếu tách
đoạn văn ra khỏi văn bản thì đoạn văn đó có tư cách như một văn bản nhỏ; cịn
đoạn văn nằm trong văn bản thì từng đoạn văn vẫn ln ln có sự liên kết chặt
chẽ với các đoạn văn khác. Rèn tốt được kĩ năng viết đoạn văn nói chung và viết
đoạn văn trong văn bản nghị luận nói riêng, học sinh cần có sự hướng dẫn tỉ mỉ,
kĩ càng của giáo viên.
Từ những lí do đã nêu ở phần trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: Một số
giải pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 8 ở
trường Phổ thông Cấp 2 Dân tộc Nội trú Ngọc Lặc để nghiên cứu và thử
nghiệm. Bài viết là những kinh nghiệm của cá nhân tơi trong q trình giảng dạy
bộ mơn Ngữ Văn 8 tại nhà trường.
2
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để làm rõ các trường hợp học sinh chưa biết cách viết đoạn văn
nghị luận, trên cơ sở đó có biện pháp dạy học phù hợp với đối tượng là học sinh
trong trường nói chung và trong khối, lớp mình phụ trách nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng mà tôi lựa chọn nghiên cứu, thử nghiệm cho đề tài của mình là
học sinh lớp 8A, 8B trường Phổ thông Cấp 2 Dân tộc Nội trú Ngọc Lặc, huyện
Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm tôi đã sử dụng các
phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: tìm hiểu các vấn đề liên quan đến đề tài
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trong thời gian giảng dạy tôi đã tổng
kết được một số kinh nghiệm áp dụng vào việc phục vụ cho nội dung đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Tôi đã sử dung phương pháp này đối với học
sinh lớp 8A, 8B trường Phổ thông Cấp 2 Dân tộc Nội trú Ngọc Lặc đạt hiệu quả
tốt.
1.5. Những điểm mới của SKKN:
Rèn kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận là một thao tác quan trọng trong
việc tạo lập văn bản. Từ việc xây dựng đoạn văn, học sinh có thể bộc lộ trực tiếp
tư tưởng, quan điểm, chính kiến của mình và lập luận để bảo vệ quan điểm,
chính kiến mà mình đưa ra. Học sinh tự quyết định cách viết đoạn văn theo các
phương pháp khác nhau (diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích). Đồng thời
rèn luyện kỹ năng làm bài kiểm tra theo cấu trúc đề mới dạng bài 200 chữ đến
bài 300 chữ.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của văn nghị luận:
Nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những ý kiến
của mình bằng càch dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ một
vấn đề về chân lí nhằm làm cho người đọc (người nghe) hiểu, tin, đồng tình với
những ý kiến của mình và hành động theo những điều mình đề xuất.
Văn nghị luận được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư
tưởng, một quan điểm nào đó. Vì thế nó thường có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ,
dẫn chứng thuyết phục. Và trong bài văn, đoạn văn nghị luận thường có bốn đặc
điểm cơ bản sau:
a. “Vấn đề có ý nghĩa xã hội” là nội dung nghị luận:
Thuật ngữ “ vấn đề” được nảy sinh trong quan hệ giữa cái quen thuộc, đã
biết và cái xa lạ, chưa biết, “vấn đề” xuất hiện do nhu cầu thực tiễn và lí luận.
Tìm hiểu vấn đề, xác định rõ vấn đề, phân tích, lí giải vấn đề và giải quyết
vấn đề một cách khách quan, khoa học là tính chất nghiên cứu của quá trình
nghị luận.
3
Chúng ta đều biết là “vấn đề” chỉ có thể trở thành trọng tâm bàn bạc, thảo
luận khi nào vấn đề ấy chứa đựng ý nghĩa xã hội. Nó phải là vấn đề được nhiều
người quan tâm, giải quyết. Với cách hiểu vấn đề như thế sẽ thấy rõ tính chất
phong phú của ý kiến, thấy rõ sự khác nhau của các chiều hướng bàn luận. Biết
đặt vấn đề cũng có nghĩa là lúc mở ra con đường giải quyết nó.
Giải quyết vấn đề là khám phá những tri thức bên ngồi hệ thống kiến thức
đã được phát hiện. Cịn trả lời những câu hỏi đặt ra chỉ là việc tìm kiếm thơng
tin trong hệ thống kiến thức thời đại. Nội dung câu hỏi đơn giản hơn nội dung
vấn đề. Trả lời hệ thống câu hỏi quyết định tính chất cụ thể của việc giải quyết
vấn đề. Thực tiễn tuy là tiêu chuẩn kiểm nghiệm đầu tiên giá trị chân lí của vấn
đề, nhưng khơng phải là tiêu chuẩn duy nhất mà còn phải được bổ sung bằng
tiêu chuẩn khoa học và trình độ giải quyết vấn đề bằng sự phát triển lí luận.
Như vậy vấn đề có ý nghĩa xã hội như đã trình bày ở trên là nội dung hiện thực
của văn nghị luận. Vì thế văn nghị luận mang đậm tính chất nghiên cứu và có
tính chất lí luận cao.
b. Tính chất lơgíc của văn nghị luận:
Tính chất lôgic trong văn nghị luận thể hiện trong việc hồn thiện hệ thống
ngun tắc chuẩn mực của ngơn ngữ, hướng lời nói và viết những chuẩn mực đó
một cách có suy nghĩ. Ngồi cú pháp đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ của suy nghĩ
để con người hiểu nhau trong cuộc sống giao tiếp, văn nghị luận còn phải vận
dụng phép tu từ chuyển nghĩa để diễn đạt đầy đủ ý tứ tạo nên phong cách tinh tế,
uyển chuyển và lí thú.
Việc vận dụng cú pháp và tu từ trong văn nghị luận khơng được phép xa rời
tính chất chất logic để việc trình bày tư tưởng, suy nghĩ dễ hiểu, trong sáng, hợp
lí hơn.
Trong văn nghị luận, tư duy ngơn ngữ và lơ gic có quan hệ chặt chẽ và gắn
bó mật thiết với nhau trong q trình hình thành văn bản.
c. Tính chỉnh thể trong cấu trúc nghị luận:
Dưới ánh sáng của phong cách học văn bản, tính chỉnh thể là đặc trưng cơ
bản của bất kì một kiểu loại văn bản nào, nó thể hiện trọn vẹn nội dung và
hồn chỉnh về hình thức. Tính chỉnh thể của văn bản nghị luận thể hiện ở mối
quan hệ giữa các vấn đề đặt ra và cách giải quyết vấn đề giữa nội dung và
hình thức, giữa tư duy và ngơn ngữ, giữa mục đích nghị luận và phong cách
nghị luận.
Nói khác đi, bài văn nghị luận đạt tới chỉnh thể cao nếu người viết hiểu một
cách tường tận vấn đề, nắm vững mục đích nghị luận và có phương tiện ngơn
ngữ, thao tác phù hợp, thấu tình đạt lí, tác động mạnh mẽ vào trí tuệ và tình cảm,
trái tim người đọc, người nghe.
d. Tính chất đối thoại trong văn nghị luận:
Đối thoại là đặc điểm quan trọng của văn nghị luận. Sự “ ẩn hiện” của người
cùng đối thoại sau câu chữ và văn nghị luận sẽ cuốn hút đối tượng, tạo nên
những tình huống đối thoại giả định và sự “phản biện ngầm” của người đối
thoại mà chủ thể nghị luận cần phải hình dung ra, dự kiến trước để tạo nên sự
4
tập trung tâm lí cao độ và thái độ kiên trì mục đích cũng như nghệ thuật hùng
biện.
Có thể nói ngắn gọn, đối thoại trong văn nghị luận làm cho ý tưởng bài văn
phong phú, làm cho phương án trình bày có khả năng nảy sinh để dự đốn
những tình huống tranh luận có thể sảy ra, tạo nên sự căng thẳng hấp dẫn của
cuộc đối thoại ngầm. Đối thoại huy động tối đa ngăng lực cá nhân biết tự đặt
mình vào người khác, tâm lí khác và tình huống cụ thể để xem xét, luận giải vấn
đề toàn vẹn, đem lại hiệu quả thuyết phục cao của văn nghị luận.
2.1.2. Đoạn văn và đoạn văn nghị luận:
a. Khái niệm đoạn văn và các kiểu kết cấu đoạn văn:
Văn nghị luận cũng như các loại văn bản nói chung, đều phải do nhiều đoạn
văn tạo thành. Đoạn văn là một phần của văn bản, đơn vị trực tiếp tạo nên văn
bản. Vậy đoạn văn là gì? Sách giáo khoa Ngữ văn 8 (tập1) định nghĩa: “ Đoạn
văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết
thúc bằng dấu chấm xuống dịng và thường biểu đạt một ý tương đối hồn
chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành”.
Như vậy, về hình thức, đoạn văn được quy định từ chữ đầu đoạn văn phải
viết hoa và lùi vào một chữ. Về nội dung thường biểu đạt một ý tương đối trọn
vẹn. Đoạn văn thường phải có câu chủ đề. Câu chủ đề mang nội dung khái quát,
lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ. Câu chủ đề
có thể đứng ở đầu đoạn hoặc cuối đoạn. Nếu câu chủ đề đứng đầu đoạn tức đoạn
văn được trình bày nội dung theo cách diễn dịch; nếu câu chủ đề đứng ở cuối
đoạn tức nội dung được trình bày theo cách quy nạp. Các câu trong đoạn văn có
mối quan hệ ý nghĩa chặt chẽ với nhau. Chúng có thể bổ sung ý nghĩa cho nhau
hoặc bình đẳng nhau về ý nghĩa. Các câu trong đoạn văn liên kết với nhau về
mặt nội dung nhằm duy trì đối tượng biểu đạt nhờ vào các từ ngữ chủ đề. Từ
ngữ chủ đề là từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ lặp lại nhiều lần
trong đoạn văn.
Ngồi hai cách trình bày nội dung như vừa nói trên, thì đoạn văn cịn có cách
trình bày nội dung theo cách song hành, móc xích, tổng phân hợp.
Đoạn văn trình bày nội dung theo cách diễn dịch là cách thức trình bày từ ý
chung, khái quát đến các ý cụ thể, chi tiết. Do đó câu chủ đề phải đứng ở đầu
đoạn.
Ví dụ: “Tình u thiên nhiên là một tình cảm đẹp in đậm trong thơ Nguyễn
Trãi. Thế giới các loài hoa như nhài, sen, mẫu đơn, mai, lan, cúc,…được ơng nói
đến với bao tình nâng niu q mến. Ơng cần mẫn “ Đìa thanh phát cỏ ương sen”.
Ông thao thức “ Hé cửa đêm chờ hương quế lọt”. Cửa sổ nhà ông, án sách của
ông ngào ngạt hương hoa, cái ao trong đầy ánh trăng: “ Song có hoa mai, trì có
nguyệt - Án cịn phiến sách, triện còn hương”. Cây niềng niễng, lảnh mồng tơi,
bè rau muống, cây xoan, vườn chuối,…bình dị như đã ơm trọn hồn Ức Trai”
( Dẫn theo Nâng cao Ngữ văn THCS, NXB Hà Nội 2004).
Đoạn văn trình bày nội dung theo cách quy nạp là cách thức trình bày từ ý cụ
thể, chi tiết đến ý chung, khái quát. Do đó câu chủ đề phải đứng ở cuối đoạn.
5
Ví dụ: “Tình bạn phải chân thành, tơn trọng nhau, hết lòng yêu thương, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ. Lúc vui, lúc buồn, khi thành đạt, khi khó khăn, bạn bè phải
san sẻ cùng nhau. Có bạn chí thiết, có bạn tri âm, tri kỉ,…Nhân dân ta có nhiều
câu tục ngữ rất hay nói về tình bạn như: “ Giàu vì bạn, sang vì vợ ”, hay: “Học
thầy khơng tày học bạn ”. Nhà thơ Nguyễn Khuyến có bài “ Bạn đến chơi nhà”
được nhiều người yêu thích.Trong đời người, hầu hết ai cũng có bạn. Bạn học
thời tuổi thơ, thời cắp sách là trong sáng nhất, hồn nhiên nhất. Thật vậy, tình bạn
là một trong những tình cảm cao đẹp của chúng ta” (Dẫn theo nâng cao Ngữ văn
THCS, NXB Hà Nội 2004).
Đoạn văn trình bày nội dung theo cách móc xích là cách thức trình bày ý nọ
tiếp nối ý kia theo lối móc nối vào ý trước (qua những từ ngữ cụ thể) để bổ sung,
giải thích cho ý trước. Ví dụ:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia
sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật cải tiến thì
phải có văn hố. Vậy, việc bổ túc văn hố là cực kì cần thiết” ( Hồ Chí Minh).
Đoạn văn trình bày nội dung theo cách song hành là cách thức trình bày các ý
ngang nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp nhau để biểu đạt ý chung.
Ví dụ: “Đi giữa Hạ Long vào mùa sương, ta cảm thấy những hòn đảo vừa xa
lạ, vừa quen thuộc, mờ mờ, ảo ảo. Chung quanh ta, sương bng trắng xố. Con
thuyền bơi trong sương như bơi trong mây. Tiếng sóng vỗ long bong trên mạn
thuyền. Tiếng gõ thuyền lộc cộc của bạn chài săn cá, âm vang mặt vịnh. Thỉnh
thoảng mấy con hải âu đột ngột hiện ra trong màn sương” (Thi Sảnh, trích theo
“108 Bài tập tiếng Việt” của Tạ Đức Hiền, NXB Hải Phịng, 1998 ).
Đoạn văn trình bày nội dung theo cách tổng phân hợp là cách thức trình bày
theo phép suy lí, trình bày từ chân lí khái qt đến chân lí cụ thể rồi được khẳng
định.
Ví dụ: Mọi kiệt tác văn nghệ sống mãi trong thời gian và hồn người.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam.
Tuyện Kiều và tên tuổi thi hào Nguyễn Du trường tồn với đất nước ta, nhân dân
ta:
Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
b. Đoạn văn nghị luận:
Đoạn văn nghị luận cũng như đoạn văn nói chung, bao giờ cũng có dấu hiệu
hình thức được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm qua dòng và
thường biểu đạt một ý tương đối trọn vẹn. Nhưng ở đoạn văn nghị luận “ một ý
“ được gọi là một luận điểm. Câu chủ đề chính là câu mang luận điểm. Cách
trình bày nội dung cũng có 5 cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành,
tổng phân hợp.
Tuy nhiên, việc trình bày nội dung trong từng cách đó có khác nhiều so với
đoạn văn miêu tả, tự sự, biểu cảm,…bởi do đặc trưng của văn nghị luận là tính
6
triết lí, tính biện luận, tính thuyết phục; đặc điểm của nghị luận là có luận điểm,
luận cứ, lập luận cũng như trình bày luận điểm người ta sử dụng các yếu biểu
cảm, tự sự, miêu tả, thuyết minh để nâng cao tính thuyết phục, tính cụ thể cho
luận điểm. Bởi phương thức biểu đạt chính của văn nghị luận là lập luận.
Đoạn văn có câu mang luận điểm, trình bày luận điểm (tức trình bày nội
dung) trong văn nghị luận là cả một nghệ thuật. Nó có ý nghĩa to lớn trong việc
biểu đạt một tư tưởng, quan điểm, một chân lí, một sự thực một cách đứng đắn,
chân thật, chính xác. Có thể kể một câu chuyện rồi rút ra luận điểm, miêu tả để
rút ra luận điểm, dẫn dắt rồi nêu ra luận điểm, quy nạp các hiện tượng mà rút ra
luận điểm, từ việc trình bày bối cảnh để rút ra luận điểm, đặt câu hỏi để tìm ra
luận điểm, dẫn danh ngơn cũng rút ra luận điểm, đối chiếu, so sánh để đi đến
một luận điểm, phân tích để rút ra luận điểm, v.v…
Đoạn văn khơng có câu mang luận điểm đó là những đoạn văn được trình
bày nội dung theo phép lập luận móc xích, song hành. Kiểu đoạn văn này trong
văn nghị luận tuy xuất hiện ít nhưng khơng phải là khơng có hiệu quả
trong lập luận của văn nghị luận. Nó góp phần làm tăng hiệu quả diễn đạt và
phong phú nghệ thuật viết văn nghị luận.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Từ thực tế dạy học bộ môn Ngữ Văn 8 tại trường Phổ thông Cấp 2 Dân tộc
Nội trú Ngọc Lặc, tôi nhận thấy trong phân môn Tập làm văn, đặc biệt là phần
văn nghị luận, số đông học sinh rất ngại học, không hứng thú học bởi đặc trưng
mơn khó, khơ và trừu tượng. Hơn nữa phân mơn này địi hỏi học sinh phải vận
dụng ở mức độ cao để tạo lập văn bản. Nếu khơng nắm chắc lý thuyết cơ bản,
khơng có vốn hiểu biết thực tế sâu sắc, không được rèn luyện kĩ năng viết đoạn,
viết bài thường xuyên học sinh dễ sinh ra tâm lý lười học, lười suy nghĩ. Cũng vì
thế mà học sinh ỷ lại vào sách tham khảo, sách bài văn mẫu rất nhiều. Điều này
được kiểm chứng qua các bài kiểm tra của học sinh (bài 15 phút, 45 phút, bài
khảo sát chất lượng giữa kì I). Qua các bài kiểm tra tơi thấy có 3 mức đánh giá.
- Mức yếu kém: “Không viết được (chỉ là chuỗi câu văn lộn xộn)” là kết quả
những bài làm của học sinh khơng viết thành đoạn văn, nó chỉ là chuỗi câu lộn
xộn, chắp nối thiếu mạch lạc hoặc vơ nghĩa, hoặc thậm chí có học sinh bỏ trống
chẳng viết được chữ nào ( bài kiểm tra 15 phút – viết đoạn văn) hoặc viết sai thể
loại hoặc khơng hiểu đề, khơng có kiến thức mơn học.
- Mức trung bình: về cơ bản là biết viết đoạn văn nghị luận nhưng diễn đạt
còn lủng củng, đây là những bài làm của học sinh viết đúng nội dung đề bài
song cịn có chỗ diễn đạt yếu, trùng ý, lặp ý, lựa chọn từ ngữ thiếu chính xác, sai
chính tả, sai cú pháp…
- Mức khá, giỏi: “viết tốt”, đây là những bài thuộc đối tượng học sinh khá
giỏi, nhìn chung các em viết sắc bén, hiểu nội dung yêu cầu của đề bài và có
kiến thức về văn học, về tập làm văn, về Tiếng Việt. Nhìn chung, đây là những
học sinh có năng lực giao tiếp trong thực tiễn của đời sống; có “năng lực hành
động, năng lực thích ứng, năng lực cùng sống và làm việc, năng lực tự khẳng
định mình”.
7
Như vậy, qua các bài kiểm tra, tôi thấy rằng: những học sinh có kỹ năng
thành thạo, trơi chảy trong việc xây dựng đoạn văn nghị luận chỉ chiếm một số
lượng rất ít. Cịn những học sinh yếu về kỹ năng viết đoạn văn nghị luận và
những học sinh viết được song diễn đạt lủng củng lại chiếm số lượng nhiều hơn.
* Bảng kết quả khảo sát thực trạng của hc sinh:
Kết quả
Khố
Trung
SLHS
Giỏi
Khá
Yếu
i lớp
bình
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A
30
3
10%
8
27%
16
53%
3
10%
8B
30
3
10%
5
17%
15
50%
7
23%
T thc trng nờu trờn, tụi ngh là giáo viên chúng ta phải làm gì để
khắc phục tình trạng đó. Điều đó thực sự là nỗi trăn trở, mối quan tâm của
những giáo viên dạy văn tâm huyết. Vì vậy, tơi đã mạnh dạn đưa ra một vài giải
pháp rèn cho học sinh kĩ năng viết, xây dựng đoạn văn nghị luận. Tôi tin rằng đề
tài nghiên cứu mà tôi lựa chọn sẽ là chiếc cầu nối giúp các em học sinh đến gần
với đoạn văn nghị luận hay và sâu sắc hơn.
2.3. Các giải phápđã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Xây hệ thống bài tập viết đoạn văn nghị luận:
a. Nguyên tắc để xây dựng hệ thống bài tập viết đoạn văn nghị luận:
* Mục tiêu chương trình:
Mục tiêu chung của chương trình ngữ văn THCS đề ra là: học sinh có trình
độ học vấn THCS; hiểu biết ban đầu về kĩ thuật - hướng nghiệp; dạy chữ, dạy
người, dạy nghề; các kiến thức và kĩ năng thực hành được củng cố để tạo ra
được bốn năng lực chủ yếu: năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực
cùng sống và làm việc, năng lực tự khẳng định mình; phù hợp với bốn trụ cột
giáo dục thế giới thế kỉ XXI: học để biết, học để làm việc, học để làm người, học
để hồ nhập; tích cực hố hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của người thầy.
Như vậy, việc xây dựng hệ thống bài tập viết đoạn văn nghị luận không thể
không tuân thủ theo mục tiêu của chương trình. Hệ thống bài tập được vận dụng
trong quá trình thực nghiệm phải đảm bảo cho học sinh phát huy năng lực thực
hành, năng lực tự khẳng định mình, tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
trong hoạt động học của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của thầy. Cụ thể
của hệ thống bài tập đảm bảo giúp học sinh có năng lực tạo lập văn bản, xây
dựng đoạn văn trong văn bản.
* Tinh thần đổi mới:
Trong việc xây dựng hệ thống bài tập có tính chất sáng tạo của cá nhân được
đúc rút trong nhiều năm phải dựa trên tinh thần đổi mới giáo dục hiện nay.
Nghĩa là phải nắm chắc nội dung đổi mới của giáo dục để xây dựng hệ thống bài
tập phát triển kĩ năng viết đoạn văn nghị luận, viết văn nghị luận của học sinh
lớp 8. Bởi bản chất của hệ thống bài tập này là bài tập tự luận, trong khi đổi mới
giáo dục đang đổi mới cả cách đánh giá, kiểm tra chất lượng như đưa bài tập trắc
8
nghiệm khách quan vào bộ môn. Cho nên đề tài nghiên cứu khơng chú ý tới đổi
mới sẽ vơ tình đi ngược lại đổi mới.
* Đảm bảo tính vừa sức, khoa học:
Tính vừa sức, tính khoa học trong nội dung giáo dục là rất quan trọng và đã
được chú ý tới trong quá trình đổi mới. Chương trình và SGK Ngữ văn hiện nay
đã đảm bảo được tinh thần này. Tính vừa sức là đảm bảo kiến thức khơng q
khó, q dễ; khơng q tải phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh THCS. Tính
khoa học được hiểu như tính chính xác, tính hợp lí, phù hợp với thời đại, và tâm
lí lứa tuổi v.v…
Trên tinh thần ấy, trong quá trình xây dựng hệ thống bài tập của đề tài tôi
đã đặc biệt chú ý đến từng chi tiết nhỏ. Hệ thống bài tập không quá dễ cũng
không quá khó với mọi đối tượng học sinh, phải đảm bảo tính vừa sức, cân đối
và khoa học. Chú trọng tới kĩ năng sáng tạo của học sinh lại vừa đảm bảo nội
dung kiến thức của từng đơn vị bài học, vận dụng các kiến thức trong 3 phân
môn. Đảm bảo việc giảng dạy cho học sinh những tri thức và kĩ năng đặc thù
của phân môn tập làm văn trong nhà trường phổ thông.
b. Mô tả hệ thống bài tập:
Hệ thống bài tập, về bản chất là bài tập tự luận nhằm rèn luyện kĩ năng viết
văn nghị luận cho học sinh lớp 8 được xây dựng trên nguyên tắc đổi mới kiểm
tra đánh giá cho nên tôi xây dựng hệ thống bài tập được xét trên nhiều tiêu chí
khác nhau. Về tiêu chí thời gian, gồm các bài tập 5 phút, 10 phút và ở nhà. Đối
với loại 5 phút,10 phút bao gồm những bài tập trong hệ thống bài tập phần luyện
tập và bài tập của bài ôn tập, luyện tập. Về mặt nội dung, hệ thống bài tập được
chia ra theo phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Chẳng hạn trong phần
luyện tập của giờ tiếng Việt, nội dung bài tập chú trọng kiến thức của giờ tiếng
Việt đó nhưng địi hỏi học sinh phải tích hợp được cả văn học và tập làm văn. Ví
dụ: tiết học Tiếng Việt với bài “ Câu nghi vấn”, mặc dù SGK khơng có bài tập
sáng tạo này nhưng tôi vẫn đưa vào bài tập với nội dung như sau: “ Em hãy viết
đoạn văn ngắn có sử dụng câu nghi vấn nêu cảm nhận của em về bài thơ Quê
hương của Tế Hanh”. Về tiết kiểm tra, ngoài việc sử dụng hệ thống bài tập trắc
nghiệm khách quan, tôi vẫn đảm bảo bài tập tự luận để rèn luyện kĩ năng nói,
viết cho học sinh với thời lượng tối thiểu cho phần này là 10 phút.
Trong hệ thống bài tập tơi cịn dùng cả loại bài tập viết đoạn văn của cả tập
thể theo nhóm lớn hoặc cả tập thể lớp. Nếu cả lớp hoặc nhóm lớn, bài tập sau
khi giáo viên đưa ra mỗi học sinh trong lớp chỉ viết một câu theo kiểu trò chơi:
Em thứ nhất viết xong một câu lên bảng, sau vài chục giây đến một phút em
khác viết tiếp. Cứ như vậy cho đến khi hoàn chỉnh đoạn văn hoặc đến khi hết
thời gian quy định.
Như vậy, hệ thống bài tập có rất nhiều bài tập với những thời lượng khác
nhau; trong mỗi thời lượng khác nhau đó lại chia ra những bài tập ở nhiều phân
môn khác nhau. Và trong mỗi phân mơn lại có bài tập trong bài cung cấp tri
thức, bài tập trong bài ôn tập, luyện tập và bài tập trong tiết kiểm tra.
9
Ngoài ra, hệ thống bài được xây dựng theo hệ thống kiến thức về trình bày
nội dung trong đoạn văn như trình bày nội dung theo các diễn dịch, quy nạp,
móc xích, song hành, tổng phân hợp. Nhưng với các tiết học trước bài “Xây
dựng đoạn văn trong văn bản” tôi chưa áp dụng trong giảng dạy theo sáng kiến
này, hệ thống bài tập này chỉ áp dụng sau khi học sinh đã được học “Xây dựng
đoạn văn trong văn bản”.
Hệ thống bài tập dưới đây tôi đưa ra đã được áp dụng chứ không phải mô
phỏng. Tuy nhiên số lượng bài tập quá lớn tôi chỉ đưa vào đề tài mỗi loại một
vài bài để minh hoạ cho đề tài. Cũng để tiện cho việc theo dõi, dẫn lại khi cần
thiết tôi tạm thời đánh số từ 1 đến hết các bài tập.
c. Thiết kế hệ thống bài tập:
* Đoạn văn trình bày nội dung theo cách diễn dịch:
Bài tập 1: Cho câu chủ đề sau: “ Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy”.
Hãy triển khai câu chủ đề trên thành đoạn văn diễn dịch.
Bài tập 2: Em có suy nghĩ gì về giá trị của từ tượng hình, tượng thanh trong
truyện ngắn Lão Hạc? Hãy viết thành một đoạn văn ngắn trình bày nội dung
theo cách diễn dịch để trả lời cho câu hỏi trên.
Bài tập 3: Hãy hoàn thành nội dung đoạn văn sau và cho biết đoạn văn trên
đã trình bày nội dung theo cách nào?
“ Nhà văn An-đéc xen đã tạo nên hai nghịch cảnh một đêm giao thừa. Một
em bé đi bán diêm suốt một ngày mà chẳng bán được một bao diêm nào, “ bụng
đói cật rét” đi lang lang trên đương, chẳng được ai bố thí cho em một chút đỉnh!
Mái tóc và lưng em bám đầy tuyết. Trái lại,…..................................
…………………………………………………………………..…Câu chuyện
trở nên thấm vị đời cay đắng”.( Nâng cao ngữ văn THCS, trang 47).
* Đoạn văn trình bày nội dung theo cách quy nạp:
Bài tập 4: Sau khi học xong Cô bé bán diêm, em có cảm nhận gì về số phận
của những người nghèo như cô bé trong truyện của An-đéc-xen.
Hãy viết một đoạn văn trình bày nội dung cảm nhận của em theo phép lập
luận quy nạp.
Bài tập 5: Hãy viết một đoạn văn trình bày nội dung theo cách quy nạp, có
sử dụng trợ từ, thán từ để giải thích câu tục ngữ Gọi dạ bảo vâng.
Bài tập 6: Hãy sắp xếp các câu văn, đoạn thơ sau theo một trình tự hợp lí
trình bày cảm nhận của em về văn bản Hai cây phong.
- Trích đoạn Hai cây phong, tác giả đã kết hợp tự sự với miêu tả, nhắc lại kỉ
niệm tuổi thơ êm đềm (1).
-
“ Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sơng
Tơi đưa tay ơm nước vào lịng
Sơng mở nước ơm tơi vào dạ,…”
( Tế Hanh ) (4)
- Hồi niệm tuổi thơ về quê hương bao giờ cũng đằm thắm, thiết tha. (2)
10
- Con người Việt Nam chúng ta, mỗi lần đi xa nhớ quê là nhớ hương vị đậm đà
“ canh rau muống”, “cà dầm tương”, nhớ con đò, cây đa, bến nước, sân đình, và
nhớ dịng sơng q mẹ với bao kỉ niệm: (3)
* Đoạn văn trình bày nội dung theo cách móc xích:
Bài tập 7: Hãy sắp xếp các câu sau thành một đoạn văn và cho biết đoạn
văn nghị luận này đã trình bày nội dung theo cách nào về bài thơ Ngắm trăng
của Hồ Chí Minh?
- Trăng, hoa, tuyết,…và rượu tạo cảm hứng cho các thi sĩ làm thơ. (1)
- Nho sĩ xưa làm thơ phải có rượu và hoa. (3)
- Hoa và rượu khơng có mà Bác Hồ của chúng ta vẫn làm thơ. (4)
- Hồ Chí Minh của chúng ta vĩ đại là thế! (6)
- Làm thơ là cũng là thú ăn chơi của các bậc Nho sĩ xưa. (2)
- Làm thơ ngắm trăng trong ngục tù để cho khuây khoả “đợi ngày tự do” là một
cuộc vượt ngục tinh thần đầy lí thú của Hồ Chí Minh. (5)
Bài tập 8: Từ nội dung kiến thức đã học về đoạn văn, em hãy viết một đoạn
văn nghị luận trình bày nội dung theo cách móc xích nói lên cảm nhận của em
về bài thơ Khi con tú hú của Tố Hữu. Chú ý đoạn văn phải sử dụng các yếu tố
biểu cảm, tự sự hoặc miêu tả.
Bài tập 9: Hãy điền những từ ngữ vào đoạn văn cịn trống (được trình bày
nội dung theo cách móc xích) thể hiện nội dung đánh giá về truyện kí Việt Nam:
Đời sống là nguồn đề tài bất tận của văn học. Văn học có nhiệm vụ phản
ánh đời sống một cách trung thực. Trung thực khơng có nghĩa là phản ánh một
cách máy móc, bê nguyên si cuộc sống vào tác phẩm. Tác phẩm văn học có
quyền đươc hư cấu. Hư cấu lại không phải là bịa chuyện. Bịa chuyện khó có thể
làm nên những tác phẩm có giá trị như truyện kí Việt Nam. Truyện kí Việt Nam
đã phản ánh về đời sống hiện thực của xã hội Việt nam, về những kiếp người
lầm than, khổ cực như trong Tắt đèn, Lão Hạc.
( Những chữ in nghiêng trong đoạn văn trên được bỏ trống để học sinh tự
điền theo yêu cầu bài tập).
* Đoạn văn trình bày nội dung theo cách song hành:
Bài tập 10: Hãy sắp xếp các câu sau đây thành một đoạn văn trình bày nội
dung theo cách song hành đánh giá về bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:
“Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc. Thơ là
tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó
đã vượt qua một hành trình 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những
ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang
sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lịng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan
yêu đời, biết sống và hướng về một lí tưởng cao đẹp.” (Nâng cao Ngữ văn
THCS, đã dẫn ).
* Đoạn văn trình bày nội dung theo cách tổng phân hợp:
Bài tập 11: Hãy viết một đoạn văn trình bày nội dung theo phép lập luận
tổng phân hợp về một tác phẩm văn học mà em đã học.
2.3.2. Triển khai hệ thống bài tập viết đoạn văn nghị luận:
11
a. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận trong giờ dạy học Tập làm
văn:
Như trên đã trình bày, trong các tiết học thuộc phân môn Tập làm văn (trừ
các tiết không thuộc văn nghị luận) tôi đều thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh. Dù đó là tiết cung cấp tri thức hay
tiết ôn tập, luyện tập các em đều có cơ hội viết đoạn văn. Ở phân mơn Tập làm
văn chủ yếu tôi ra những bài tập viết đoạn văn nêu cảm nhận, suy nghĩ, chứng
minh, giải thích về các vấn đề trong các tác phẩm văn học mà học sinh đã học
nhưng theo quan điểm phải tích hợp đủ cả 3 phân mơn. Ví dụ trong tiết học tìm
hiểu về yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận tôi cho học sinh làm một bài tập
viết đoạn văn ngắn với thời gian 5 phút như sau:
Em hãy viết một đoạn văn, có sử dụng những câu văn cảm thán, chứng minh
cho luận điểm sau: Thơ Bác đầy trăng.
Như vậy, bài tập trên, đòi hỏi học sinh phải có được một phơng kiến thức về
văn học, về thơ Bác, về tiếng Việt mà vẫn đúng trọng tâm của tiết học là tìm
hiểu về yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận. Trong đó, yếu tố biểu cảm nằm
ngay trong câu cảm thán (Tiếng Việt).
Hay trong tiết học tìm hiểu yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận tôi
ra bài tập vào cuối giờ học (5 phút):
Em có nhận xét gì về bài thơ “ Khi con tu hú” ? Hãy viết một đoạn văn có
sử dụng những câu trần thuật kể, tả về nhận xét của em về bài thơ. Bài tập này
tôi sử dụng dạng bài tập viết tập thể. Cách viết như đã nói trong phần mơ tả bài
tập. Đây là bài tập khó, xong u cầu bài tập khơng bắt buộc các em phải viết
hoàn chỉnh mới đạt mục tiêu kiến thức mà chủ yếu phát triển và tạo tâm thế học
tập cho học sinh.
Dưới đây là một bài giảng hướng dẫn học sinh viết đoạn văn trình bày luận
điểm trong bài văn nghị luận mà tôi đã thực hiện.
Tiết 100: Tập làm văn:
VIẾT ĐOẠN VĂN TRÌNH BÀY LUẬN ĐIỂM
A. Mục tiêu cn t:
1. Kiến thức:
- Nhận biết, phân tích đợc cấu trúc của đoạn văn nghị luận.
- Biết cách viết đoạn văn trình bày một luận điểm theo hai
phơng pháp diễn dịch và quy nạp.
2. Kĩ năng:
- Viết đoạn văn diễn dịch, quy nạp.
- Lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt trong đoạn văn nghị luận.
- Viết đoạn văn nghị luận trình bày luận điểm có độ dài 90
chữ viết về một vấn đề chính trị hoặc xà hội.
3. Thái độ:
12
- Có ý thức tự giác chủ động trong học tập, vận dụng kiến thức
đà học vào phân môn văn- Tập làm văn.
B. phng phỏp v k thut dy hc:
- Phân tích qui np, nêu vn , phát vn m thoại, thực hành
luyện tập.
- Động n·o, đặt câu hỏi.
c. Chuẩn bị của GV và HS:
- GV: Chuẩn bị SGV- SGK; soạn gi¸o ¸n; tài liệu tham khảo.
- HS: Đọc, soạn bài theo câu hỏi trong SGK.
D. tổ chức các hoạt ng dy hc:
1. ổn đinh lớp:
2. Kiểm tra bài cũ:
? Em hãy nêu dàn ý của bài lập luận chứng minh ?
- Nhận xét, đánh giá, cho điểm.
3. Bài mới: GV giới thiệu bài: GV nêu mục tiêu bài học và giới thiệu vào bài mới.
Hoạt động của Thầy và Trị
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu lý thuyết:
Luận điểm là gì?
- Gợi ý: Luận điểm trong bài văn nghị
luận là những ý kiến, quan điểm, tư
tưởng mà người nói (người viết) nêu ra
để khẳng định một luận đề.
- GV cho HS đọc các đoạn văn trong
SGK trang 79, bài 1 (a, b)
- GV: Đoạn văn nghị luận thường có
câu chủ đề -> Thơng báo luận điểm
của đoạn văn.
?Tìm câu chủ đề trong đoạn văn a ?
Vị trí của câu chủ đề? Xác định đoạn
văn được trình bày theo cách nào ?
Nội dung cần đạt
I. Trình bày luận điểm thành một đoạn
văn nghị luận:
1) Ví dụ 1:
a. Đoạn trích “ Chiếu dời đô”
- Câu chủ đề: "Thật là chốn hội tụ…
muôn đời”
?Để nêu được luận điểm: ´Thành Đại - Vị trí: cuối đoạn
là trung tâm đất nước”. Người viết đã - Cách trình bày: Quy nạp
lập luận như thế nào ?
- Vốn kinh đơ cũ -> vị trí trung tâm của
đất trời-> thế đất quý hiếm -> dân cư
đông đúc, muôn vật phong phú tốt tươi
-> nơi thắng địa-> kết luận: xứng đáng
là kinh đô muôn đời.
?Nhận xét về cách nêu luận cứ (lí lẽ và
dẫn chứng) và cách lập luận của đoạn - Lập luận mạch lạc, chặt chẽ đầy sức
văn?
thuyết phục, lí lẽ, dẫn chứng tồn diện
13
- HS: Quan sát đoạn văn (b)
đầy đủ.
b. Đoạn văn trích trong: Tinh thần
Chỉ ra câu chủ đề của đoạn văn?
yêu nước của nhân dân ta.
- “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng - Câu chủ đề: “Đồng bào ta ngày nay
đáng với tổ tiên ta ngày trước”
cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày
?Vị trí của câu chủ đề?
trước”
Đoạn văn trình bày luận điểm gì ?
- Vị trí: đầu đoạn văn
- Tinh thần yêu nước nồng nàn của
?Đoạn văn được trình bày theo cách đồng bào ta ngày nay
nào?
-> Cách trình bày: Diễn dịch
Phân tích trình tự lập luận của đoạn
văn?
- Trình tự lập luận
+ Theo lứa tuổi: (cụ già, nhi đồng, trẻ
thơ)
+ Theo không gian vùng miền ( kiều
bào nước ngoài, vùng bị tạm chiếm,
miền ngược, miền xi)
+ Theo vị trí cơng tác, ngành nghề,
nhiệm vụ được giao: ( chiến sĩ ngồi
mặt trận, cơng tác ở hậu phương, phụ
nữ- bà mẹ; công nhân – nông dân- điền
Nhận xét về trình tự lập luận trên ?
chủ)
?Qua phân tích ví dụ 1 em rút ra nhận -> Tồn diện, đầy đủ, vừa khái quát,
xét gì về yêu cầu của luận điểm trong vừa cụ thể
câu chủ đề ?
->Nội dung của luận điểm được trình
( ý 1 ghi nhớ)
bày rõ ràng,chính xác trong câu chủ đề
GV: Yêu cầu HS thực hiện bài tập 1 theo 2 cách :qui nạp hoặc diễn dịch.
SGK phần luyện tập trang 81 : Đọc và
diễn đạt ý mỗi câu thành một luận điểm
ngắn gọn, rõ?
- GV hướng dẫn học sinh thực hiện:
(Gợi ý: tìm luận điểm chính, sau đó lựa
chọn từ ngữ diễn đạt thành một câu
ngắn gọn thể hiện rõ luận điểm (Câu
chủ đề nêu luận điểm)
- HS thực hiện viết, trình bày. GV sửa
lỗi nếu có. GV kết luận:
a. Tránh lối viết dài dịng làm người
xem khó hiểu. Hoặc: Cần viết gọn, dễ
hiểu.
b. Nguyên Hồng thích truyền nghề cho
bạn trẻ. Hoặc: Niềm say mê đào tạo
nhà văn trẻ của Nguyên Hồng
14
2. Đoạn văn của Nguyễn Tuân ( SGK
trang 80)
?Tái hiện lại kiến thức đã học ở lớp 7
cho biết lập luận là gì?
? Tìm luận điểm và cách lập luận trong
đoạn văn trên?
?Câu chủ đề? Vị trí của câu chủ đề ?
Cách trình bày đoạn văn?
?Cách lập luận trong đoạn văn trên có
làm rõ luận điểm khơng ?
- u cầu học sinh trả lời câu hỏi c
trong SGK trang 80
?Nếu thay đổi trật tự lập luận (luận cứ
ở dưới bị đảo lên trên, luận cứ ở trên
xuống dưới) sẽ ảnh hưởng đến đoạn
văn như thế nào?
?Như vậy việc tìm đủ luận cứ và tổ
chức lập luận theo một trình tự nhất
định có tác dụng gì trong đoạn văn
nghị luận ?
u cầu học sinh trả lời câu hỏi d sgk
trang 81.
?Những cụm từ “ Chuyện chó, giọng
chó, rước chó, chất chó đểu” được sắp
xếp cạnh nhau nhằm mục đích gì ?
? Từ ví dụ vừa phân tích em có nhận
xét gì về diễn đat? Trong đoạn văn nghị
luận ?
GV chốt:
Cách trình bày đoạn văn nghị luận,
nghĩa là cách lập luận cần phải trong
sáng, hấp dẫn, có thê dùng hình ảnh,
sắp xếp luận cứ lơ gíc đến mức khơng
thể đảo được. Như vậy luận điểm sẽ
càng vững chắc, đầy đủ sức thuyết
phục.
=>HS: Đọc tồn bộ ghi nhớ (Trang 81)
2. Ví dụ 2: SGK trang 80
a) - Lập luận là: Trình bày, sắp xếp các
ý theo một thứ tự hợp lý.
- Luận điểm: Bản chất giai cấp lừa lọc,
giả dối của vợ chồng Nghị Quế qua
việc mua chó.
- Câu chủ đề: “Cho thằng nhà giàu rước
chó vào nhà , nó mới càng hiện bản
chất chó đểu của giai cấp nó ra”
- Vị trí: cuối đoạn -> Cách trình bày:
quy nạp
b) Cách lập luận theo lối tương phản:
có tác dụng chứng minh làm rõ luận
điểm: bản chất chó má của giai cấp địa
chủ.
c) - Cách sắp xếp luận cứ của tác giả
rất chặt chẽ nên không thể đổi, đảo tuỳ
tiện. Nếu sắp xếp ngược lại sẽ làm cho
luận điểm mờ nhạt, lỏng lẻo hơn.
d) -Vừa xoáy sâu vào luận điểm (ý
chung), lại vừa làm lộ rõ bản chất thú
vật của bọn địa chủ
* Ghi nhớ ( ý 2)
->Tìm đủ luận cứ cần thiết và tổ chức
lập luận theo một trình tự hợp lí.
* Ghi nhớ ( ý 3)
- Diễn đạt trong sáng, hấp dẫn để sự
trình bày luận điểm có sức thuyết phục.
15
- GV hướng dẫn HS luyện tập
Bài 1 (Đã làm ở trên)
Bài 2: Học sinh đọc yêu cầu của bài
II- Lun tËp:
Hướng dẫn học sinh: Tìm câu chủ đề,
tìm luận điểm, luận cứ (lí lẽ, dẫn Bµi tËp 2 (trang 82):
chứng), nhận xét về trình tự sắp xếp.
- C©u chđ đề "Tôi thấy Tế
Hanh là một ngời tinh lắm
(Đầu ĐV)
- Luận điểm: Tế Hanh là một
nhà thơ tinh tế (Diễn dịch)
- Luận cứ 1: Thơ ông ghi đợc
đôi nét chốn quê hơng
- Luận cứ 2: Thơ ông đa ta
Bi 3: Hướng dẫn học sinh viết đoạn …… mê mê….
văn trình bày luận điểm cho sẵn theo => S¾p xÕp luận cứ theo TT
hai cỏch: din dch hoc quy np.
tăng tiến, càng sâu, cao càng
- Vit on vn (Din dch hoc quy tinh tế dần.
np).
Bài tập 3 (trang 82): Triển
- Xác định câu chủ đề (câu nêu luận khai luËn điểm:
im)
a) Học phải kết hợp với làm bài
- Xỏc nh v trớ cõu ch
tập thì mới hiểu. Làm bài tËp
- Xác định trình tự lập luận
chÝnh lµ thùc hµnh bµi häc lý
- Diễn đạt trong sáng, hấp dẫn
thuyÕt. Nã lµm cho kiÕn thøc
->GV cho học sinh viết bài
lý thuyÕt đợc nhận thức lại,
->Nhn xột, cha li
sâu hơn, bản chất hơn. Làm
->a ra mt cỏch tham kho
bài tập giúp cho viƯc nhí kiÕn
u cầu học sinh về nhà làm ý b
thức dễ dàng hơn. Làm bài tập
Bi 4: Tỡm hệ thống luận cứ:
là rèn luyện các kỹ năng của t
duy, đặc biệt là t duy phân
tích tổng hợp, so sánh, chứng
minh, tính toán. Vì vậy,
nhất thiết học phải kết hợp với
làm BT thì sự học mới đầy đủ
và vững chắc.
Bài 4 (trang 82): hệ thống
luận cứ:
- Mục đích của văn giải thích:
viết ra để ngời đọc hiểu rõ
hơn một vấn đề , một luận
điểm nào đó.
- Giải thích càng dễ hiĨu th×
16
ngời đọc càng dễ tiếp nhận ,
dễ nhớ, dễ làm theo.
- Ngợc lại giải thích khó hiểu
thì ngời viết càng ®Èy ngêi
®äc dêi xa mơc ®Ých ®· ®Ị
ra.
E. Cđng cè, dn dũ:
- Đọc lại ni dung của ghi nhớ.
- GV hệ thống tồn bài
- Häc, hiĨu kü nội dung ghi nhớ
- Xem lại các bài tập về luận điểm hon thành bài tập 3, ý b
- Đọc, chuẩn bị kĩ bài sau: Luyện tập xây dựng và trình bày luận điểm
b. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận trong giờ dạy học Đọc - hiểu
văn bản:
Đối với giờ Đọc hiểu - văn bản, sau phần ghi nhớ bao giờ tôi cũng cho học
sinh luyện tập với bài tập tự luận viết đoạn văn. Thông thường ở giờ đọc - hiểu
chủ yếu bài tập là cảm nhận hoặc suy nghĩ của học sinh về tác phẩm, đoạn trích.
Chẳng hạn sau khi học xong bài “ Nước Đại Việt ta “ (Trích Bình Ngơ đại cáo)
tơi đưa bài tập sau:
Em có suy nghĩ gì về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi qua đoạn trích “
Nước Đại Việt ta”? Hãy viết một đoạn văn từ 4 đến 5 câu có sử dụng câu cảm
thán hoặc câu nghi vấn trình bày suy nghĩ của em.
Hay ở giờ đọc - hiểu văn bản “ Thuế máu” tôi lại đưa ra bài tập viết đoạn
văn kiểu sắp xếp lại đoạn văn và cho học sinh làm việc theo nhóm lớn (cả lớp
chia 2 nhóm):
Bài tập: Hãy điền những từ ngữ thích hợp vào các câu sau thành đoạn văn
hồn chỉnh nội dung nói về Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc:
“Tác giả đã một mặt tố cáo, kết án đanh thép tội ác và bản chất của chủ
nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa qua chính sách bắt lính đơn
qn trong và sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Mặt khác, hoàn toàn đứng
về nhân các dân tộc bản xứ thuộc địa bị áp bức nặng nề, bị lừa bịp trắng trợn, bị
đẩy vào chỗ chết, tác giả vô cùng cảm thơng, thương xót họ, bước đầu vạch ra
con đường đấu tranh vì độc lập, tự do, con đường cách mạng của các dân tộc
thuộc địa. Tính chiến đấu, cách mạng rất cao của Thuế máu là ở đó” (Thiết kế
bài giảng Ngữ văn 8, tập 2, của Nguyễn Văn Đường, NXB Hà Nội, 2004).
Hoặc sau khi kết thúc bài đọc - hiểu văn bản: “Đi bộ ngao du” tôi lại đưa ra
một bài tập triển khai luận điểm:
Bài tập: Viết đoạn văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm triển khai luận
điểm sau theo cách quy nạp hoặc diễn dịch: Đi bộ ngao du rất có ích.
c. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận trong giờ dạy học Tiếng Việt:
Đối với giờ học Tiếng Việt, SGK rất ít có các bài tập viết đoạn văn. Vì vậy, ngay
sau khi học sinh đã học bài “ Xây dựng đoạn văn trong văn bản” đến bài “ Từ
17
tượng hình, từ tượng thanh” học sinh sẽ được viết đoạn văn nghị luận: Bài tập:
Hãy viết đoạn văn chứng minh nhận định sau: “Từ tượng hình, từ tượng thanh
trong “ Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đã góp phần làm nên khúc
nhạc lịng của nữ sĩ ”.
Hoặc trong bài: “ Trợ từ, thán từ” cho học sinh làm bài tập theo nhóm viết
đoạn văn: Hãy sắp xếp và điền trợ từ hoặc thán từ vào các câu sau thành đoạn
văn hồn chỉnh: “ Ơi, cịn gì xúc động và thương cho cuộc đời lão Hạc qua cách
kết thúc đặc sắc của nhà văn Nam Cao!(1) Ông đã để cho lão Hạc chết trong đau
đớn kéo dài “đến hai giờ đồng hồ” như cho ta một nỗi đau đồng loại, một nỗi
đau cần được sự cảm thông, sẻ chia để rồi hãy lên tiếng tố cáo cái tội ác của xã
hội nửa thực dân nửa phong kiến đương thời.(2) Một cái chết bất ngờ ngay đến
cả ông giáo cũng khơng ngờ tới đã làm nên cái chân lí thà chết trong còn hơn
sống đục”.(3) – chữ được gạch chân và các số trong ngoặc đơn là đáp án của bài
tập mà tôi đã đảo trật tự và để trống khi cho học sinh làm bài tập.
d. Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận trong bài tập về nhà:
Đối với các bài tập về nhà là những bài tập học sinh hồn tồn làm độc lập
nhưng vì ở nhà các em sẽ có thể chép lại đoạn văn ở đâu đó nên những bài tập
nhất thiết là những bài tập triển khai luận điểm cho sẵn hoặc viết đoạn văn móc
xích, song hành theo một nội dung cho sẵn. Tuy nhiên, để bắt buộc học sinh phải
làm bài tập tôi yêu cầu làm ra giấy và nộp để chấm điểm. Ở bài tập về nhà được
phân loại trình độ rõ rệt, với nhóm học sinh trung bình, khá, giỏi thì bài tập địi
hỏi phải có sự tích hợp với cả 3 phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn và các
bài học (tích hợp ngang và tích hợp dọc) còn với đối tượng học học sinh yếu
kém khơng có thêm u cầu tích hợp, chỉ là những đoạn văn đơn giản như diễn
dịch, quy nạp câu chủ đề cho sẵn.
Yêu cầu HS viết dạng đoạn văn nghị luận 200 chữ về các chủ đề, nội dung
khác nhau. Đây là dạng đề viết đoạn văn theo phương pháp mới hiện nay hay sử
dụng vào các đề thi học kỳ, đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn từ khối 7 đến khối
9 - THCS. Mục đích cho HS khắc sâu kiến thức và thành thạo kỹ năng viết đoạn
văn nghị luận.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Từ việc áp dụng những giải pháp nêu trên trong năm học 2018 – 2019 này,
việc dạy học viết văn nghị luận nói chung và việc rèn luyện kỹ năng xây dựng
đoạn văn nghị luận nói riêng cho học sinh lớp 8 trường Phổ thông Cấp 2 Dân tộc
Nội trú Ngọc Lặc đã tạo được bước chuyển biến khá rõ nét và đạt được hiệu quả
nhất định. Nhiều em đã có kỹ năng thuần thục trong việc xây dựng đoạn văn
nghị luận. Các em đã có được kỹ năng thành thạo, viết tốt, viết sắc bén, hiểu nội
dung yêu cầu của đề bài và có kiến thức về văn học, về tập làm văn, về tiếng
Việt. Nhìn chung, đây là những học sinh có năng lực giao tiếp trong thực tiễn
của đời sống; có “năng lực hành động, năng lực thích ứng, năng lực cùng sống
và làm việc, năng lực tự khẳng định mình”. Và số lượng học sinh ở mức độ viết
tốt như thế chiếm tỷ lệ nhiều hơn. Còn đối tượng học sinh yếu về kỹ năng viết
18
văn nghị luận đã giảm rất nhiều so với các năm học trước. Điều đó cho thấy rằng
việc áp dụng các giải pháp nêu trên đã đem lại hiệu quả cao trong việc rèn luyện
kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 8 trường THCS. Điều đó
được thể hiện rất rõ qua số liệu khảo sát dưới đây:
* Bảng kết quả ứng dụng SKKN của học sinh:
Khối
SLHS
lớp
8A
8B
30
30
Giỏi
SL
8
7
%
27%
23%
Kết quả
Trung
Khá
bình
SL
%
SL
%
12
40%
10
33%
10
33%
13
44%
Yếu
SL
0
0
%
0
0
T kt qu trờn, tụi rỳt ra bi hc kinh nghiệm cho mình trong q trình giảng
dạy, đó là: Người giáo phải viên gương mẫu, tâm huyết với nghề; trong dạy học
giáo viên cần linh hoạt, luôn đổi mới phương pháp, tìm tịi sáng tạo, phát huy
tính tích cực năng động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức nhanh,
hiểu bài sâu hơn; Học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp; tự bồi dưỡng kiến thức
nghiệp vụ; xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chi tiết, thực hiện nghiêm túc kế hoạch
đề ra; gần gũi, thân thiện với học sinh để tìm hiểu tâm lí, từ đó động viên giúp
đỡ, uốn nắn; lắng nghe ý kiến từ phía học sinh, phụ huynh để kết hợp cùng giáo
dục học sinh đạt kết quả. Đồng thời, tôi luôn căn dặn học sinh phải: thực hiện
đúng, đủ thời gian học tập. Trong lớp ghi chép bài đầy đủ, tích cực học hỏi ở
thầy cơ, bạn bè; đồn kết giúp đỡ nhau trong học tập, đầy đủ đồ dùng học tập.
Ngoài giờ lên lớp thì tận dụng thời gian làm bài tập mà thầy cô giao cho, bài tập
ở sách nâng cao; khi làm bài phải sáng tạo; lập luận ngắn gọn, lô gic,.. có như
vậy mới đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận cho học sinh lớp 8 là sáng
kiến kinh nghiệm được đúc rút trong nhiều năm, qua thực tế giảng dạy của bản
thân. Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi triển khai vấn đề theo hệ thống, từ cơ
sở lý luận của vấn đề về khái niệm, đặc điểm của văn bản nghị luận; đoạn văn,
các kiểu kết cấu đoạn văn; đoạn văn nghị luận và yêu cầu của đoạn văn nghị
luận, đến thực trạng của vấn đề xây dựng đoạn văn nghị luận, đề xuất và thực
nghiệm các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học làm văn nghị luận nói chung
và rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận nói riêng, nhằm hình thành
và phát triển tốt năng lực viết văn nghị luận cho học sinh lớp 8 ở trường Phổ
thông Cấp 2 Dân tộc Nội trú Ngọc Lặc. Từ những nội dung đã triển khai ở trên,
tôi thấy rằng, để học sinh có được kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận thuần
thục, yêu cầu các em phải nắm chắc lý thuyết làm văn nghị luận, về đoạn văn
19
nói chung và lý thuyết về đoạn văn nghị luận nói riêng. Từ việc nắm lý thuyết
một cách chắc chắn, kĩ càng thì các em mới bắt đầu biết viết đoạn văn nghị luận,
và từ đó được rèn luyện nhiều sẽ dần dần hình thành và phát triển thành kỹ năng,
kỹ xảo một cách thành thạo và nhuần nhuyễn.
Bên cạnh đó, việc đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa đòi hỏi
việc dạy và học làm văn nghị luận cũng cần phải đổi mới cả về tư duy lẫn
phương pháp. Điều giáo viên lúng túng nhất hiện nay vẫn là phương pháp, biện
pháp rèn các kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận, trong đó có kỹ năng xây dựng
đoạn văn nghị luận. Bởi lẽ văn nghị luận là loại văn nói bằng lý lẽ, là sản phẩm
của tư duy lo gic. Rèn tư duy lo gic cho học sinh trong bài văn nghị luận ở các
cấp độ từ đơn giản đến phức tạp như cách dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện
pháp tư từ từ vựng; cách giải thích, phân tích một vấn đề theo tiến trình lịch sử
hoặc trong mối liên hệ nội tại của vấn đề; cách tổ chức và triển khai một lập
luận,…Việc triển khai các vấn đế nghị luận trong một bài văn nghị luận phải
đảm bảo tính chất lo gic của vấn đề bàn luận. Như vậy hình thành và phát triển
tốt kỹ năng viết đoạn văn nghị luận là biện pháp đem lại hiệu quả cao trong dạy
học làm văn nghị luận cho học sinh lớp 8 do tôi phụ trách nói riêng và học sinh
THCS trong tồn trường nói chung.
3.2. Kiến nghị:
Từ những vấn đề nêu trên bản thân cũng mạnh dạn có đề xuất, kiến nghị như
sau: Đối với phân môn tập làm văn, tư duy lo gic và tư duy sáng tạo của học
sinh được rèn luyện và phát huy chủ yếu ở khâu vận dụng kiến thức để viết bài
văn hoặc dựng đoạn. Bởi vậy, sách giáo Ngữ văn 8 và Ngữ văn 9 cần bỏ bớt loại
bài tập nhận diện, tăng loại bài tập tạo lập, rèn các kỹ năng làm văn nghị luận
cho học sinh. Bởi vì, dạy làm văn chủ yếu phải bằng thực hành, thơng qua thực
hành học sinh mới có được kỹ năng thành thạo.
Nói tóm lại, đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy
học là đổi thay một hệ hình, một tập qn, do đó khơng hề là một điều dễ dàng ở
những bước đầu đối với cả người dạy và người học. Thực tế kiểm nghiệm đã
chứng tỏ tính khả thi của các giải pháp rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị
luận cho học sinh lớp 8 được nêu trong sáng kiến kinh nghiệm của bản thân.
Mặc dù vậy cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận
được sự góp ý chân thành từ phía các bạn đồng nghiệp để tơi ngày càng hồn
thiện hơn về phương pháp dạy học mơn Ngữ văn nói chung và phương pháp dạy
học phân môn Tập làm văn nói riêng, đặc biệt là dạng văn nghị luận - một kiểu
bài vơ cùng khó trong các kiểu bài Tập làm văn vốn có trong chương trình Ngữ
văn bậc THCS.
Ngọc Lặc, ngày 12 tháng 4 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
20
Người viết
Lương Thị Dung
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- SGK Ngữ văn 6, SGV Ngữ văn 6
- SGK Ngữ văn 7, SGV Ngữ văn 7
- SGK Ngữ văn 8, SGV Ngữ văn 8
- SGK Ngữ văn 9, SGV Ngữ văn 9
- Tiếng việt nâng cao lớp 7
- Nâng cao ngữ văn THCS (trang 47).
- Phương pháp dạy học Tập làm văn
- Một số tài liệu liên quan đến phân môn Tập làm văn 8,9.
- Một số tư liệu tham khảo trên mạng Internet.
21
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SKKN
STT
1
Ký hiệu
SKKN
Nội dung
Sáng kiến kinh nghiệm
2
GV
Giáo viên
3
HS
Học sinh
4
THCS
Trung học cơ sở
22
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CẤP
PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI
C TRỞ LÊN
TT
Tên đề tài
Cấp đánh
giá, xếp loại
(phịng, sở,..)
1
Xây dựng nội dung giảng dạy
tiết “Chương trình địa phương
phần văn lớp 9”
Một số biện pháp dạy thơ trữ
tình địa phương mơn Ngữ văn
Sở GD&ĐT
Phịng
GD&ĐT
A
2012
Một số biện pháp dạy thơ trữ
tình địa phương mơn Ngữ văn
Sở GD&ĐT
C
2012
2
3
Kết quả
Năm
đánh giá, đánh giá,
xếp loại
xếp loại
(A,B hoặc
C)
C
2007
23