Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

DẠY văn bản NHẬT DỤNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ văn 8 gắn với TÍNH cấp THIẾT của CUỘC SỐNG 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.54 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY VĂN BẢN NHẬT DỤNG
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8
GẮN VỚI TÍNH CẤP THIẾT CỦA CUỘC SỐNG

Người thực hiện: Trịnh Thị Hương
Chức vụ: Giáo Viên
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT THCS Thanh Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực : Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC

TT
1

Mục
1 Mở đầu

Nội dung

Trang
1

2


1.1 Lý do chọn đề tài

1

3

1.2 Mục đích đề tài

1

4

1.3 Đối tượng nghiên cứu

1

5

1.4 Phạm vi nghiên cứu

2

6

1.5 Phương pháp nghiên cứu

2

7


2 Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

8

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

9

2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2

10

2.2.1 Vài nét về tác phẩm trong chương trình sách giáo khoa cũ

2

11

2.2.2 Văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1

2

12


2.2.3 Một số đặc điểm về nội dung và hình thức của văn bản nhật
dụng ở chương trình Ngữ văn lớp 8
2.3 Các SKKN và giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3

4

15

2.3.1 Dạy bài: “Thông tin về ngày Trái Đất năm 2000” và vấn đề
môi trường, sức khỏe
2.3.2 Dạy bài: "Ôn dịch thuốc lá" và vấn đề sức khỏe

16

2.3.3 Dạy bài: "Bài toán dân số" và vấn đề dân số

9

17

2.3.4 Giáo án tiết dạy thực nghiệm

11

13
14

18

19
20

2.4 Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
3 Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận

4

7

15
16
16

21

3.1.1 Đối với giáo viên

17

22

3.1.2 Đối với học sinh

17

23

3.2 Kiến nghị


17



1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI với điểm tựa về khoa học kỹ thuật có nhiều
phát triển vượt bậc thần kỳ ở thế kỷ XX với nhiều lĩnh vực khoa học cơ bản. Sự
phát triển về khoa học kỹ thuật ấy đã giúp con người được giải phóng khỏi những
công việc nặng nhọc, nguy hiểm, sáng chế ra nhiều vật dụng tiện lợi cho đời sống
hàng ngày. Không ai phủ nhận được những thành tựu mà con người đã dày công
nghiên cứu qua nhiều năm bởi chính từ đó đã đưa loài người bước đến một tầm cao
mới, mở ra một kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật và sáng tạo không ngừng.
Thế nhưng, bên cạnh đó, loài người cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề
nan giải như: Môi trường, dân số, sức khỏe con người. Đó thực sự là những bài
toán chưa tìm được đáp số thỏa đáng và lời giải đó không phải chỉ của một cấp,
một ngành mà đặt ra cho tất cả chúng ta và thiết nghĩ giáo dục cũng là một trong
những cánh tay đắc lực phục vụ cho công việc đó.
Môn Ngữ văn trong chương trình THCS là một môn học góp phần hình thành
những con người có trình độ học vấn THCS, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời hoặc tiếp tục
học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu
thương quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết
hướng tới những tình cảm cao đẹp, lòng nhân ái, biết tôn trọng lẽ phải, căm ghét cái
xấu và bước đầu có năng lực cảm thụ giá trị chân - thiện - mỹ. Không những thế, tác
phẩm văn chương còn là một phương tiện thiết thực để tuyên truyền rộng rãi tới đông
đảo bạn đọc về những vấn đề bức thiết của con người.
Tác phẩm văn chương được đưa vào chương trình THCS bao gồm nhiều thể
loại, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ở mỗi thể loại có những đặc điểm nổi bật
riêng. Ví dụ: Văn biểu cảm chủ yếu là biểu lộ tình cảm, cảm xúc; Văn miêu tả là tái

hiện lại cảnh sắc, con người ... Nét nổi bật trong chương trình cải cách sách giáo
khoa từ năm 2002 trở lại đây là có thêm một thể loại văn học mới: Văn bản nhật
dụng. Đây cũng chính là thể loại văn học mà tôi muốn đề cập trong đề tài này bởi
tính cấp thiết, thiết thực, gắn với những vấn đề hàng ngày, hàng giờ diễn ra chưa có
biện pháp giải quyết thỏa đáng, không chỉ là vấn đề nan giải của nước ta mà còn
đặt ra cho toàn nhân loại.
Một trong số những vấn đề nan giải trên mà tôi muốn đề cập đó là: môi
trường, dân số và sức khỏe đã được cụ thể hóa bằng ba văn bản nhật dụng trong
chương trình Ngữ văn 8 tập 1.
Với tư cách là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 8, tôi xin
được đóng góp một ý kiến nhỏ về: Dạy văn bản nhật dụng trong chương trình
Ngữ văn 8 gắn với tính cấp thiết của cuộc sống.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra phương pháp dạy các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 8
tập 1 gắn với tính cấp thiết của cuộc sống đạt hiệu quả cao nhất.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1


Dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 8 gắn với tính cấp thiết
của đời sống. Học sinh khối lớp 8 Trường PTDTBT THCS Thanh Xuân
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu, thực nghiệm, khảo sát, đối chứng, nêu số liệu.
1.5. Những điểm mới trong sáng kiến
Xác định các vấn đề cấp thiết của cuộc sống đang diễn ra ở địa phương, đất
nước và thế giới. Gắn các vấn đề đó với những vấn đề được nêu trong văn bản nhật
dụng, đồng thời đưa ra những giải pháp để thực hiện gắn những vấn đề cấp bách
vào giảng dạy các văn bản nhật dụng ở chương trình học lớp 8.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

Đối với mỗi tác phẩm văn học nói chung, khi giảng bài, mục đích của người
giáo viên là cung cấp cho học sinh tri thức về nội dung, tư tưởng, nghệ thuật của
tác phẩm ấy, để rồi qua đó các em cảm nhận được gì, có suy nghĩ gì. Sẽ là không
thành công nếu như dạy văn học mà giáo viên quên đi yếu tố giáo dục. Thực ra,
tính cấp thiết là những vấn đề cần thiết, cần được giải quyết ngay. Nhưng nói rộng
ra, thiết nghĩ cấp thiết cũng còn có nghĩa là những vấn đề dẫu không là tâm điểm,
nhưng đâu đó trong xã hội vẫn còn nhức nhối như: quan hệ giữa con người với con
người, sự phân biệt giàu nghèo, đạo đức và lối sống... Trong chương trình cũ, dẫu
chưa có văn bản nhật dụng, nhưng một giáo viên dạy tốt là một giáo viên luôn nghĩ
qua văn bản đó mình giáo dục được gì cho các em, cho các em thấy được vấn đề
đó là cần thiết noi theo hay phê phán để rồi từ đó hoàn thiện nhân cách của mình.
Nói như vậy để ta nhận thấy rằng: sự cấp thiết không phải là một khái niệm xa xôi
mà thực ra chúng ta đã được tiếp cận, nhưng cái khác là trong chương trình cũ,
"cấp thiết" phần lớn là những vấn đề phản ánh cuộc sống của người xưa, còn "cấp
thiết mới" trong văn bản nhật dụng là những văn bản phản ánh cuộc sống trước
mắt của con người và cộng đồng xã hội hiện đại đang là tâm điểm của sự chú ý.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
2.2.1. Vài nét về các tác phẩm trong chương trình sách giáo khoa văn học
trước đây
Như chúng ta biết văn học là nhân học, văn học giúp con người hình thành
nhân cách, hướng tới cái chân - thiện - mỹ. Cuộc sống là một đề tài vô tận cho
người nghệ sĩ sáng tác nên những tác phẩm văn học. Bởi vậy, văn học chính là tấm
gương phản ánh cuộc sống. Nhìn lại các tác phẩm văn học trong chương trình sách
giáo khoa cũ nói chung và sách giáo khoa Văn 8 nói riêng, học sinh được tiếp cận
với những bài văn, thơ phần lớn phản ánh cuộc sống lao động, chiến đấu, biểu hiện
tình cảm, cảm xúc của con người Việt Nam xưa. Nhìn ở một góc độ nào đó, các tác
phẩm trong chương trình cũ tuy cũ nhưng vẫn là những vấn đề không cũ bởi tính
giáo dục đã trở thành chuẩn mực của cuộc sống. Không ai phủ nhận được tác dụng
của các tác phẩm văn học đó đã tác động tích cực đến tâm hồn các em, nhưng
dường như sự nhận thức đó chỉ như một dòng sông êm đềm, thong thả chảy mà

không trở thành một vấn đề nóng hổi, bức thiết khiến người ta không thể không bắt
2


tay ngay vào công việc. Đó cũng chính là điểm khác của văn bản nhật dụng trong
chương trình cải cách sách giáo khoa lần này.
2.2.2. Văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn 8
Văn bản nhật dụng là những bài viết có nội dung gần gũi, bức thiết với cuộc
sống trước mắt của con người và cộng đồng xã hội hiện đại như: thiên nhiên, môi
trường, dân số, ma túy... Nó có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn
bản. Tuy nhiên, nhìn chung, về hình thứ thể loại đó thường là những bài báo,
thuyết minh đăng trên các báo hay phát trên đài, ti - vi. Nó thường được viết theo
thể loại bút ký trong đó có sự kết hợp giữa các phương thức kể, tả, bình luận... có
giá trị thông tin tuyên truyền là chủ yếu.
Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm mới đối với học sinh lớp 8
bởi các em đã được làm quen với thể loại văn học này ở chương trình lớp 6. Thế
nhưng, vấn đề mà tôi muốn nới ở đây là sự bức thiết của cuộc sống, những vấn đề
vẫn hàng ngày, hàng giờ diễn ra xung quanh chúng ta đã được phản ánh, cập nhật
qua ba văn bản nhật dụng, đó là về: môi trường, dân số và sức khỏe.
Văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 8 tập 1 không chiếm một số
lượng nhiều. Song qua đó, học sinh được cung cấp kiến thức về những vấn đề nóng
hổi mang tính toàn cầu , giúp các em nhận thức và có ý thức tác động tích cực trở
lại cuộc sống. Nhưng đó còn là những văn bản mẫu mực cho học sinh tập cách làm
bài văn thuyết minh. Các văn bản nhật dụng được lựa chọn đưa vào chương trình là
những văn bản cập nhật những vấn đề chưa tìm ra lời giải đáp không phải của
riêng một quốc gia nào. Bởi thế, khiến người đọc phải suy ngẫm và cùng bắt tay
vào thực hiện.
2.2.3. Một số đặc điểm về nội dung và hình thức của văn bản nhật dụng ở
chương trình Ngữ văn lớp 8


“Thông tin về ngày trái đất năm 2000” là văn bản được soạn thảo dựa
trên bức thông điệp của 13 cơ quan nhà nước và tổ chức phi chính phủ phát
đi ngày 22 tháng 4 năm 2000 nhân lần đầu nước ta tham gia Ngày Trái Đất.
Nội dung của văn bản tập trung thuyết minh trình bày về hàng loạt tác hại của
bao bì ni lông đối với môi trường và sức khoẻ con người.
Văn bản được kết thúc bằng lời kêu gọi và động viên. Với việc sử dụng
điệp từ "hãy" lời kêu gọi cứ tăng dần từ ý thức đến hành động cụ thể thiết
thực: quan tâm tới Trái Đất, bảo vệ Trái Đất bằng hành động “Một ngày
không dùng bao bì ni lông”. Thông điệp này chính là nội dung nhật dụng của
văn bản “Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000”. Từ đó giúp chúng ta ý thức
được cách sử dụng bao bì ni lông gắn liền với việc bảo vệ môi trường, làm
cho Trái Đất- ngôi nhà chung của chúng ta ngày một xanh- sạch- đẹp.
“Ôn dịch, thuốc lá” được trích trong "Từ thuốc lá đến ma túy- Bệnh
nghiện" của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Đây là một bài thuyết minh cung cấp
cho bạn đọc những tri thức khách quan về tác hại to lớn và nhiều mặt của
thuốc lá đối với sức khoẻ đạo đức, giống nòi con người. Không dừng ở đó
văn bản này còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của người viết đối với sức
khoẻ cộng đồng khi ông trực tiếp bày tỏ thái độ đối với thuốc lá mà ông gọi
3


là một thứ “ôn dịch”, và kiến nghị “Đã đến lúc mọi người phải đứng lên
chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này”.
Tác giả đã sử dụng thủ pháp thuyết minh quen thuộc như: liệt kê, so
sánh, lời văn vẫn sử dụng các thuật ngữ khoa học nhưng dễ hiểu do được giải
thích cụ thể, kết hợp trong đó là lời bình luận mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Tất cả được viết bằng tri thức và tâm huyết của của một nhà y học nổi tiếng,
và điều đó làm nên sức thuyết phục của bài văn này.
Ý nghĩa nhật dụng của văn bản này không chỉ là cảnh báo cho mỗi người
về một nạn dịch có sức tàn phá sức khoẻ cộng đồng, gây thành tệ nạn xã hội

mà còn góp phần cổ động cho chiến dịch truyền thông chống hút thuốc lá
đang diễn ra rộng khắp hiện nay. Từ tính cấp bách của vấn đề, tác giả kêu gọi
mọi người kiên quyết chống lại tệ hút thuốc lá.
“Bài toán dân số” được trích từ báo "Giáo dục và Thời đại Chủ nhật"
của tác giả Thái An. Từ câu chuyện vui về một bài toán cổ liên hệ sang
chuyện không vui về việc gia tăng dân số trên trái đất bằng một tính toán
lôgic sau: Một bàn cờ có 64 ô, nếu số thóc trong mỗi ô tăng theo cấp số nhân
công bội là 2 thì tổng số thóc nhiều tới mức có thể phủ kín bề mặt trái đất =>
trái đất lúc đầu chỉ có 2 người, nếu loài người cũng tăng theo cấp số nhân ấy
thì tổng dân số sẽ đạt ô thứ 30 (năm1995) và ô thứ 31 (năm 2015) => nếu cứ
để dân số tăng như thế thì đến một ngày 64 ô của bàn cờ sẽ bị lấp kín và khi
đó mỗi người chỉ còn một chỗ ở với diện tích như một hạt thóc trên trái đất.
Mục đích của sự tính toán này là báo động về nguy cơ bùng nổ và gia
tăng dân số của thế giới. Vì thế “Bài toán dân số” được xem là một văn bản
nhật dụng phục vụ cho chủ đề “dân số và tương lai của nhân loại”. Bài toán
này càng có ý nghĩa thời sự đối với các nước chậm phát triển, trong đó có
Việt Nam.
Sức thuyết phục của văn bản này trước hết là ở cách lập luận hấp dẫn.
Hấp dẫn bởi có tiền đề vững chắc, sự so sánh hợp lí, bất ngờ và độc đáo; các
luận điểm cứ nối nhau tăng dần về mức độ và tính chất. Số liệu được nêu
trong văn bản cụ thể, rõ ràng, có căn cứ đáng tin cậy buộc người đọc phải
liên tưởng và suy ngẫm về sự gia tăng dân số đáng lo ngại trên thế giới hiện
nay. Chỉ khi nào dân trí được nâng cao, kinh tế, văn hóa, giáo dục phát triển,
người dân- nhất là phụ nữ- mới tự giác hạn chế sinh đẻ, làm giảm sự bùng nổ
và gia tăng dân số. Đó chính là đáp án của Bài toán dân số.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Dạy bài: “Thông tin về ngày Trái Đất năm 2000” và vấn đề môi
trường, sức khỏe
Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, con người
đã sáng chế ra nhiều vật dụng tiện lợi sử dụng trong đời sống hàng ngày. Một trong

những vật dụng đó là bao bì ni lông. Sự tiện lợi đó tưởng chừng như vô hại song
lại có tác hại rất lớn đối với môi trường khi nó trở thành phế thải. Chính từ tính cấp
thiết đó, nhà biên soạn sách dã đưa vào chương trình văn bản này nhằm cung cấp
4


thêm cho người đọc có thêm những thông tin đáng báo động về ô nhiễm môi
trường hiện nay.
Có thể nói, nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất là rác thải, bao
gồm cả rác thải công nghiệp và rác thải sinh hoạt. Trách nhiệm xử lý rác thải công
nghiệp thuộc về các nhà máy, xí nghiệp, các cơ quan nhà nước. Rác thải sinh hoạt
gắn chặt với đời sống mỗi người nên cần có hiểu biết tối thiểu về nó để cùng tham
gia xử lý nó một cách hiệu quả. Và như vậy, bao bì ni lông cũng là một trong
những rác thải sinh hoạt, nhưng tại sao không phải là thông tin về các loại rác thải
khác mà lại chọn vấn đề về bao bì ni lông? Khi dạy văn bản này, giáo viên cần cho
học sinh thấy tính cấp thiết của vấn đề như thế nào?
Như trên đã nói, vấn đề môi trường nói chung và rác thải từ các bao bì ni lông
nói riêng đang là sự quan tâm của toàn cầu. Dạy văn bản này, trong một phạm vi hẹp
là sự nhận thức của các em về việc sử dụng và xử lý bao bì ni lông ở địa phương em
như thế nào. Có thể khi chưa tiếp cận văn bản này, các em chỉ mới biết đến tác dụng
tiện lợi của bao bì ni lông đó, nhưng chưa hiểu biết tường tận về tác hại của nó, chưa
nhận thức rõ vì sao xử lý bao bì ni lông khi là rác thải lại là một trong những vấn đề
mang tính cấp thiết. Vậy giáo viên sẽ truyền tải ra sao?
Theo tôi, đối với văn bản này, mục đích là truyền tải kiến thức của bài học về
nội dung và nghệ thuật để qua đó học sinh thấy được tác hại của bao bì ni lông khi
là phế thải và xử lý nó đang còn là vấn đề vô cùng nan giải, bởi chưa tìm được giải
pháp hữu hiệu. Thế nhưng, bài dạy chỉ dừng lại ở đó thì sẽ chưa thật hoàn thiện.
Để cho văn bản đối với học sinh thật sự là vấn đề cấp thiết thì trong quá trình giảng
bài, giáo viên cần có những câu hỏi liên hệ thực tế, nghĩa là dạy văn bản gắn với
thực tế cuộc sống.

Ví dụ: Trong phần giảng về tác hại của bao bì ni lông, sau khi cho học sinh
phát biểu các tác hại như sách giáo khoa đã dẫn, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Khi
sử dụng xong bao bì ni lông, em thường giải quyết chúng như thế nào ? Em có hiểu
làm như vậy là có tác hại không ?
Từ những vấn đề trên giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu về tác hại của bao bì
ni lông đối với sức khỏe con người bằng các câu hỏi như: Em có thường xuyên
đựng thức ăn trong các túi ni lông màu không ? Em có hiểu như thế là độc hại
không hay màu sắc của túi là đẹp mắt ? Ngoài việc các chất đôc trong túi ni lông
nhiễm vào thức ăn, túi ni lông còn tác động đến sức khỏe con người bằng con
đường nào khác ...
Sau khi nói về tác hại của rác thải ni lông, để cho bài học thêm thuyết phục,
giáo viên cần chuẩn bị một bảng phụ trên đó ghi ra những số liệu, những dẫn
chứng đáng tin cậy về một trong những cách mà người ta thường xử lý rác thải ni
lông để học sinh thấy được sự vô trách nhiệm và tác hại của bao bì ni lông do con
người chưa hiểu biết hết là vô cùng lớn.
Ở Việt Nam Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2010, tại đô
thị, mỗi hộ gia đình sử dụng 225 túi ni lông mỗi tháng, tương đương 0,4
kg/tháng/hộ. Ước tính mỗi năm Việt Nam sử dụng 12.000 tấn túi ni lông, trong đó
phần lớn chỉ được sử dụng một lần. Tuy nhiên liệu, chỉ khoảng 17% tổng số lượng
5


túi ni lông khó phân hủy được thu hồi sau khi thải bỏ để tái sử dụng, số còn lại thải
ra môi trường hoặc được chôn lấp cùng với chất thải rắn sinh hoạt. Trên thế giới,
theo số liệu của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, có 46.000 mảnh túi nilon
trôi nổi trong mỗi 1,6km vuông đại dương. [1]
Theo số liệu tháng 11/2013 của Ủy ban Châu Âu, khoảng 94% loài chim ở Biển
Bắc có nilon trong dạ dày. Người Nam Phi thì gọi đùa túi nilon là quốc họa [1]
Trên địa bàn huyên Quan Hóa với dân số toàn huyện là 46.710 người, diện
tích tự nhiên là 99.014 ha, xã Thanh Xuân với dân số 2.970 người (số liệu thống

kê tháng 12 năm 2016). [2]
Bình quân mỗi một người một ngày sử dụng 1 bao ni lông, như vậy mỗi ngày
chúng ta thải ra môi trường 46.710 cái bao bì ni lông, bình quân mỗi ha chứa 0.47
túi ni lông mỗi ngày.
Qua văn bản, ta thấy tác hại của bao bì ni lông quả là đáng báo động hơn ta
tưởng rất nhiều. Tác hại đó hoàn toàn do ý thức của người sử dụng. Sử dụng bao bì ni
lông là lợi bất cập hại. Để hạn chế những tác hại đó, văn bản đã đưa ra một số biện
pháp, nhưng ở biện pháp nào cũng gặp phải khó khăn thậm chí là độc hại, nguy hiểm.
Xét cho cùng, đó là những biện pháp có khả năng thực thi vì nó chủ yếu tác động đến
ý thức của người sử dụng dựa trên nguyên tắc chủ động phòng tránh, giảm thiểu tác
hại. Tuy nhiên, nếu bản thân mỗi người không tự giác, không ý thức đầy đủ thì các
biện pháp trên chỉ là những lời kêu gọi suông mà thôi. Đến đây, giáo viên có thể dùng
các câu hỏi liên hệ thực tế để đối chiếu, so sánh với các biện pháp trên mà em hoặc
địa phương em đã thực hiện như: Rác thải từ bao bì ni lông ở nhà em và địa phương
em thường được xử lý như thế nào? Theo em có hữu hiệu không ? Nhận thức được sự
nan giải trong xử lý bao bì ni lông như thế em sẽ làm gì ?
Sau đó, giáo viên cho học sinh liên hệ về việc sử dụng bao bì ni lông của bản
thân và gia đình mình, cần yêu cầu học sinh liên hệ một cách cụ thể, sinh động và
ngay cả giáo viên cũng vậy, cũng cần kiểm điểm thói quen rất khó sửa này. Sau khi
học sinh đã hiểu tác hại, cách xử lý nan giải của bao bì ni lông, học sinh được liên hệ
nghĩa là các em đã nhận thức và kiểm soát được việc sử dụng bao bì ni lông trong
cuộc sống hàng ngày của bản thân và tuyên truyền cho mọi người cùng thực hiện. Đó
cũng chính là ý nghĩa lớn hơn mà người dạy mong muốn.
Bao bì ni lông là tiện lợi bởi nó nhẹ, rẻ, dễ cầm nhưng lại có nhiều tác hại.
Những biện pháp đưa ra vẫn chưa thể triệt để, tận gốc vấn đề, nhưng cũng không
thể cấm các nhà máy sản xuất loại bao bì này. Vì thế, sách đã đưa ra những kiến
nghị, đó là những kiến nghị hợp lý, có tính khả thi. Nhưng nó sẽ mãi chỉ là những
kiến nghị suông nếu như không có sự góp tay của mỗi các nhân cụ thể. Giáo viên
có thể đặt câu hỏi để kiểm tra thói quen của việc sử dụng túi ni lông hàng ngày của
các em như: Đã bao giờ em dùng xong túi ni lông thì giặt phơi khô dùng lại chưa ?

Em có thích đựng thực phẩm bằng giấy, lá không ?...
Những câu hỏi mang tính trắc nghiệm trên sẽ giúp các em nhận thấy, một
trong những giải pháp để mỗi các nhân có thể bắt tay vào hoạt động nhằm giảm
thiểu rác thải từ túi ni lông và như vậy có nghĩa là đã góp phần bảo vệ môi trường
sống của chúng ta.
6


Môi trường sống là một khái niệm rộng và rác thải từ bao bì ni lông là một
trong những nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường. Văn bản như một tiếng chuông
cảnh tỉnh rung lên rất kịp thời cho tất cả mọi người đã, đang có thói quen sử dụng
bao bì ni lông hàng ngày. Qua văn bản này, học sinh không chỉ nhận thức được mặt
trái của việc sử dụng bao bì ni lông mà từ đó cần có suy nghĩ tích cực về những
việc tương tự trong vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt. Đó cũng chính là cấp thiết mà
văn bản muốn truyền tải tới người đọc để người đọc nhận thức được, từ đó sẽ có
những việc làm thiết thực tác động tích cực trở lại góp phần làm trong sạch môi
trường sống quanh ta cũng chính là bảo vệ ngôi nhà chung của Trái Đất.
Bảo vệ môi trường là việc làm không phải của một cấp, một ngành, một thời
gian, địa điểm mà là vấn đề mang tính toàn cầu, là việc làm thường xuyên ở mọi
lúc, mọi nơi. Xét ở một phạm vi hẹp thì rác thải từ bao bì ni lông chỉ là một trong
những vấn đề môi trường nhưng lại vô cùng bức thiết bởi chưa tìm được giải pháp
hữu hiệu. Mục đích của tôi khi dạy văn bản này là làm cho học sinh nhận thức
được đây là vấn đề nóng hổi đang xảy ra trong đời sống xung quanh các em để từ
đó, qua bài học này các em cần bắt tay ngay vào những việc làm cụ thể, thiết thực
bởi những yêu cầu, kiến nghị rất vừa sức. Theo tôi, các được lớn nhất đó là các em
hiểu văn bản và vận dụng vào cuộc sống như thế nào cho hiểu quả. Mà muốn đạt
được điều đó, thiết nghĩ dạy văn bản này cần chú ý đến tính cấp thiết để liên hệ với
thực tế giúp học sinh có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về vấn đề.
Ví dụ: Ngay sau giờ học, lớp tổ chức thu gom các bao bì ni lông quanh trường
để vào đúng nơi quy định. Về nhà cũng làm như thế, khéo léo tuyên truyền vận động

bố mẹ, anh chị em, bà con trong thôn bản cùng hạn chế sử dụng bao bì ni lông.
2.3.2. Dạy bài: "Ôn dịch thuốc lá" và vấn đề sức khỏe
Hút thuốc lá là một thói quen, một thú vui, thậm chí có thể xem là một phần
của phong tục tập quán, một phần văn hóa của nhiều quốc gia, nhiều dân tộc trên
thế giới trong đó có Việt Nam. Hút nhiều, hút mãi thành quen, thành nghiện khó
bỏ. Về phương diện sức khỏe, hút thuốc lá hết sức có hại, nguy hiểm và phản khoa
học. Khi dạy văn bản này là một vấn đề nhạy cảm bởi nó sẽ đụng chạm đến một số
người, có thể ngay cả giáo viên dạy cũng mắc phải. Nhưng dù thế nào cũng phải
hiểu một cách nghiêm túc nhất để làm sao vấn đề mà các em tiếp cận không phải
chỉ trên lý thuyết mà phải được soi sáng bằng thực tiễn cuộc sống, nghĩa là tác
động của nó đến cuộc sống như thế nào.
Thực tế cho thấy, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, hút thuốc lá dần thay thế
cho hút thuốc lào ở thành thị cũng như nông thôn. Nó đã có mặt trong các dịp cưới
hỏi, tiệc tùng như một thói quen thường trực của một bộ phận người. Nhưng mấy
ai trong họ đã hiểu về tác hại nhiều mặt của nó. Văn bản này chỉ được tuyên truyền
trong một phạm vi hẹp nhưng cái cần đạt được đó là sự nhận thức của các em để
bản thân phòng tránh và việc làm có ý nghĩa hơn là tuyên truyền tới những người
xung quanh đã và đang hút thuốc lá. Song muốn đạt được điều đó, khi dạy giáo
viên cần chú ý những gì?
Trong phạm vi của đề tài này, tôi đang đề cập đến tính cấp thiết của vấn đề
với cuộc sống hiện tại. Bài giảng không dừng lại ở mức độ nhận biết lý thuyết văn
7


bản mà cần có sự liên hệ phong phú gắn với từng phần, từng vấn đề trong bài sao
cho học sinh có cơ hội để nhìn nhận và đánh giá hành vi của mình nếu như cũng đã
từng hút thuốc lá.
Ví dụ: Khi dạy phần tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe cộng đồng, giáo
viên có thể nêu những câu hỏi: Em và những người trong gia đình em có hút thuốc
lá không ? Em thấy họ thường hút thuốc lá ở đâu ? Những người không hút thuốc

có phản ứng gì không ? Vì sao ? Sau khi học xong văn bản này em dự định sẽ nói
như thế nào đối với những người đang hút thuốc lá ?...
Muốn các em trả lời trung thực các câu hỏi trên, thiết nghĩ, nếu giáo viên
cũng là người cũng đang hút thuốc lá thì cần dừng lại để kiểm điểm mình. Và quan
trọng hơn cả là nhận thức được tác hại to lớn của khói thuốc lá để có ý thức hạn
chế hoặc chấm dứt. Vẫn biết đây là việc làm khó bởi nó đã thành thói quen, nhưng
muốn tính giáo dục đạt hiệu quả thì ngay giáo viên cũng phải là người thực hiện
gương mẫu.
Với địa bàn tôi công tác là miền núi, điều kiện còn nhiều khó khăn, nhân dân
đa số là người dân tộc Thiểu số khả năng hiểu biết còn nhiều hạn chế, điều kiện
kinh tế còn nhiều khó khăn. Và sẽ khó khăn hơn nữa nếu như hàng ngày, hàng
tháng họ phải dành một khoản tiền không nhỏ để mua thuốc lá. Người lớn hút
thuốc dễ khiến con em tập hút theo và khi không có tiền mua thì việc đưa đến các
tệ nạn xã hội khác là một con đường rất ngắn như văn bản đã chỉ rõ. Như vậy, hút
thuốc lá không những đe dọa sức khỏe, tính mạng con người mà còn là nguyên
nhân dẫn đến con đường phạm pháp, làm cho kinh tế gia đình bị sa sút... Khi dạy
phần này, giáo viên có thể hỏi học sinh, ví dụ: Mỗi ngày, bố/anh em hút hết bao
nhiêu điếu thuốc? Em có biết giá thành của những điếu thuốc đó không ? Em có
nghĩ rằng dành khoản tiền đó vào những công việc hợp lý khác thì sẽ có tác dụng
không ?...
Muốn cho bài giảng tăng thêm phần sinh động và để học sinh nhận thức được
đây là vấn đề đáng được lưu tâm bởi những tác hại của hút thuốc lá, ngoài những
thông tin trong văn bản, giáo viên cần chuẩn bị một số thông tin tiêu biểu, các hình
anh báo động của cả thế giới và Việt Nam để học sinh một lần nữa thấy được tác
hại của hút thuốc lá là nghiêm trọng. Cụ thể:
Một điếu thuốc lá sản sinh ra 500ml khói, trong khói thuốc lá chứa hơn 3000
chất hóa học khác nhau, trong đó có ít nhất 20 chất đã được xác nhận là nguyên
nhân trực tiếp gây ra bệnh ung thư. Hay: Mỗi điếu thuốc lá chứa ít nhất là 0.15mg
chất mê-tin hin-đra-zin là chất độc hại gây bệnh ung thư ... [1]
Theo thống kê, thế kỷ 20 thế giới có trên 100 triệu người chết vì các bệnh liên

quan tới thuốc lá, ở Việt Nam mỗi năm có trên 40.000 người chết do hút thuốc, con
số này lớn gấp nhiều lần số người chết do chiến tranh, dịch bệnh, tai nạn. Việt Nam
là một trong bốn quốc gia có tỉ lệ hút thuốc nhiều nhất thế giới, ước tính mỗi năm
người dân Việt Nam chi 14 nghìn tỉ đồng cho việc hút thuốc, Nó lớn gấp 10 lần
ngân sách chi cho giáo dục. [1]
Tính cấp thiết mà tôi muốn đề cập khi dạy văn bản này đó là sự cần thiết phải
tác động vào ý thức của học sinh để thông qua học sinh có sự tác động trở lại với
8


cộng đồng, bởi sự nan giải của việc chống nạn hút thuốc lá. Thực tế hiện nay, các
nhà máy sản xuất thuốc lá vẫn còn tồn tại nghĩa là xã hội vẫn còn có nhu cầu. Mà
một khi nhu cầu đó không giảm thì cũng đồng nghĩa với việc sức khỏe con người
bị đe dọa bởi người hút chịu tác hại đã đành, nhưng những người xung quanh lại
cũng là nạn nhân bất đắc dĩ . Hơn nữa, tính cấp thiết còn thể hiện ở chỗ: trong khi
văn bản này đang được truyền tải đến học sinh thì rất có thể trong túi áo thầy giáo
là bao thuốc hút dở, trong cặp học sinh là một vài điếu thuốc sẽ được hút trong giờ
ra chơi? Quả là vấn đề nan giải.
Sức khỏe của con người là vốn quý và thật đáng tiếc cho những ai đang tự
hủy hoại sức khỏe của mình bằng những điếu thuốc lá. Theo tôi, điều cần làm được
trong tiết dạy này là học sinh thấy được: Thuốc lá thực sự là một tệ nạn, một tệ nạn
không phải của riêng một nước nào và nó vẫn hàng ngày, hàng giờ diễn ra mà chưa
có biện pháp hữu hiệu. Đó chính là một trong những vấn đề mà xã hội cần quan
tâm giải quyết. Nhưng muốn triệt để lại phải phụ thuộc vào ý thức của mỗi người.
Bài học này là một hình thức tuyên truyền tới các em để chủ động phòng tránh và
sau nữa là thuyết phục những người xung quanh đang nghiện thuốc lá cùng quan
tâm loại bỏ thói quen không tốt này.
Ví dụ: Sau bài học, giáo viên yêu cầu học sinh làm hai bài tập sau: đối với học
sinh nam: Viết một bản thể hiện quyết tâm cụ thể xác định cho mình sẽ không bao
giờ hút thuốc lá; đối với học sinh nữ: Viết kế hoạch vận động, thuyết phục, động

viên những người thân trong gia đình mình hoặc thôn bản từ bỏ thuốc lá.
Giáo viên cần yêu cầu học sinh làm bài tập nghiêm túc, có chất lượng và báo
cáo kết quả lại. Hy vọng rằng với nhiệt tình của tuổi trẻ, các em có thể góp phần
đẩy lùi tệ nghiện thuốc lá trong mỗi gia đình cũng như xã hội, bảo vệ sức khỏe cho
cá nhân và cả cộng đồng.
2.3.3. Dạy bài: "Bài toán dân số" và vấn đề dân số
Sinh con để duy trì và phát triển nòi giống là một việc làm chính đáng mang
tính nhân văn của mỗi con người. Thế nhưng, gia tăng dân số nhanh lại là vấn đề
không nhỏ đối với mỗi quốc gia. Theo số liệu của tổ chức Liên Hợp quốc ngày 1210-1999, dân số thế giới là 6 tỉ người. Như vậy, loài người đã gia tăng gần 4 tỉ
trong một thế kỉ qua. Mỗi năm hành tinh của chúng ta lại xuất hiện thêm 84 triệu
người. Dân số tăng nhưng đất ở không tăng và hàng loạt vấn đề khác kéo theo như
thất nghiệp, nghèo đói... Và dân số đã trở thành một vấn đề cấp thiết cần được
quan tâm của toàn nhân loại.
Đối với văn bản này, giáo viên cần cho học sinh thấy được việc hạn chế gia
tăng dân số là một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển nhân loại nói chung, đối với dân
tộc Việt Nam nói riêng. Từ đó góp phần vào việc tuyên truyền cho quốc sách của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển dân số. Đó chính là con đường "tồn tại hay
không tồn tại" của chính loài người. Đây cũng là vấn đề nhạy cảm bởi có thể gia
đình các em rất đông con, bố mẹ đẻ nhiều. Vì thế khi dạy giáo viên cần khéo léo
liên hệ để không làm cho các em cảm thấy xấu hổ mà xem đó chính là một tồn tại
từ phía gia đình mình để thế hệ các em có sự điều chỉnh, cho thấy hạn chế sự gia
9


tăng dân số là việc làm cấp thiết phải được thực hiện bắt đầu từ phía mỗi các nhân,
mỗi gia đình.
Khi dạy phần: gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế xã hội, giáo viên cho
học sinh nhận thấy: bùng nổ dân số sẽ dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, xã hội kém phát
triển, và trong khi kinh tế, giáo dục kém phát triển sẽ khó khăn cho việc hạn chế sự
bùng nổ dân số. Giáo viên có thể đặt câu hỏi vì sao? để học sinh lý giải và yêu cầu

cần có những dẫn chứng chính xác, có thể ngay ở chính bản thân gia đình các em.
Ví dụ: Trong lớp tôi day, một gia đình học sinh có tới 6 anh chị em. Khi được
hỏi em đó đã không ngại ngần nói rằng: đông con nên kinh tế gia đình em khó
khăn, bố mẹ vất vả lao động để nuôi con, anh chị có người thất học... Và tôi tin
rằng, với kiến thức của bài học hôm nay, em học sinh đó sẽ có nhận thức đầy đủ
hơn về tác hại của gia tăng dân số quá nhanh, thế hệ các em sẽ là những công dân
gương mẫu.
Dưới nhan đề là "Bài toán dân số" văn bản hầu như chỉ xoay quanh câu
chuyện về bài toán cổ. Dân số toàn cầu đã mon men đến ô thứ 31 của bàn cờ.
Thông qua câu chuyện về bài toán cổ ấy, đã giúp người đọc hình dung tốc độ gia
tăng dân số đến chóng mặt. Một câu chuyện tưởng đơn giản nhưng lại có tính giáo
dục rất lớn. Văn bản cũng đưa ra tỷ lệ sinh con của người phụ nữ để thấy được
người phụ nữ có thể sinh được rất nhiều con. Nhưng quan trọng hơn giáo viên cho
học sinh nhận thấy các con số ấy lại rơi vào những nước chậm phát triển ở châu
Phi và châu Á. Đến đây giáo viên có thể cho học sinh so sánh giữa tỷ lệ sinh con ở
thành thị và nông thôn để thấy được một thực trạng là: tỷ lệ sinh con ở nông thôn
cao hơn ở thành thị trong khi kinh tế ở nông thôn còn nhiều khó khăn. Và như vậy,
đẻ nhiều -> nghèo đói -> lạc hậu -> đẻ nhiều, cứ như một cái vòng luẩn quẩn bởi
người dân chưa có sự nhận thức đúng đắn về dân số - kế hoạch hóa gia đình. Giáo
viên có thể cung cấp cho học sinh những số liệu chính xác, thuyết phục để bài văn
thêm phần sinh động và vấn đề được hiểu sấu hơn.
Ví dụ: Sau khi giảng xong phần tỷ lệ sinh con ở các nước, giáo viên đưa số
liệu: Thế giới của những người giàu chiếm 20% dân số nhưng tập trung 80% tài
sản, trong khi đó 80% dân số còn lại đang phải chịu những rủi ro về kinh tế và vệ
sinh sức khỏe - đại dịch HIV và ngày càng phải chịu những rủi ro về kinh tế và
gánh nặng về số dân. [1]
Thiết nghĩ, "Bài toán dân số" không phải là vấn đề dặt ra quá sức đối với học
sinh, bởi chính các em là thế hệ làm cho sự phát triển dân số tỷ lệ thuận với sự phát
triển kinh tế xã hội. Xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, dân số là một vấn đề dặt ra từ
lâu và ngày nay vẫn còn là vấn đề quan tâm của toàn nhân loại. Bởi thế, dạy văn

bản này giáo viên cần gắn với thực tế cuộc sống để hiệu quả giáo dục cao hơn.
Tóm lại: Các văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình Ngữ văn 8 tập 1
là những văn bản tiêu biểu thể hiện một trong những vấn đề nóng bỏng đang diễn
ra xung quanh các em, ở mỗi nước và của toàn nhân loại mà chưa có giải pháp giải
quyết triệt để. Các vấn đề đó đặt ra cho tất cả chúng ta, đặc biệt là các em - những
chủ nhân tương lai, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và có tác động tích
cực trở lại với thực tiễn. Đây là những vấn đề mang tính cấp thiết của nhân loại. Vì
10


thế khi giảng dạy, giáo viên cần gắn tính cấp thiết này với nội dung của văn bản để
hiệu quả tuyên truyền giáo dục tốt nhất.
2.3.4. Giáo án thực nghiệm
Tiết 39
THÔNG TIN VỀ NGÀY TRÁI ĐẤT NĂM 2000 [3]
I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
1. Kiến thức
Mối nguy hại đến môi trường sống và sức khỏe con người của thói quen dùng
túi ni lông. Tính khả thi trong những đề xuất được tác giả trình bày. Việc sử dụng
từ ngữ dễ hiểu, sự giải thích đơn giản mà sáng tỏ và bố cục chặt chẽ, hợp lí đã tạo
nên tính thuyết phục của văn bản. [3]
2. Kỹ năng
Tích hợp với phần tập làm văn để tập viết bài văn thuyết minh. Đọc - hiểu
một văn bản nhật dụng đề cập đến một vấn đề xã hội bức thiết[3]
3.Thái độ
Từ việc sử dụng bao bì ni lông, có những suy nghĩ tích cực về vấn đề xử lí rác
thải sinh hoạt bảo vệ môi trường. [3]
II. PHƯƠNG TIỆN ,PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
1. Giáo viên: SGK, SGV, Hướng dẫn thực hiện chuẩn KT-KN,các tài liệu có
liên quan đến bài dạy, Tài liệu Giáo dục bảo vệ môi trường trong môn Ngữ văn

THCS soạn giáo án.
2. Học sinh: Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ
3. Tổ chức dạy học bài mới [4]
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung hoạt động
H: Nêu xuất xứ văn bản?

I. Đọc và tìm hiểu chung
1. Xuất xứ văn bản: Tài liệu của sở Khoa
học- Công nghệ Hà Nội.

GV hướng dẫn đọc: giọng to, rõ ràng, 2. Đọc và tìm hiểu từ khó
mạnh mẽ.
GV đọc mẫu, gọi HS đọc.
Yêu cầu HS giải nghĩa một số thuật
ngữ khoa học
3. Thể loại
H: Hãy cho biết về thể loại, PTBD, văn
bản này có giống như các văn bản đã
Văn bản nhật dụng, thuyết minh một vấn
học đầu học kì ?
11


đề khoa học tự nhiên.
H: Hãy tìm bố cục văn bản ? Nhận xét 4. Bố cục: 3 phần.
về bố cục văn bản ?

- Đoạn 1 (Từ đầu đến Một ngày không
dùng bao bì ni lông): nguyên nhân ra đời
bản thông điệp Thông tin ngày Trái Đất
năm 2000.
- Đoạn 2 ( Tiếp đến nghiêm trọng hơn đối
với môi trường): Nguyên nhân, tác hại
của việc sử dụng bao bì ni lông và giải
pháp cho vấn đề.
- Đoạn 3 (Còn lại): Lời kêu gọi.
-> Bố cục chặt chẽ, hợp lí, mạch lạc.
II. Tìm hiểu chi tiết
H: Ngày Trái đất được khởi xướng
nhằm mục đích gì ? Vì sao có nhiều
nước tham gia ? Chủ đề ngày Trái đất
năm 2000 là gì ?

1. Hoàn cảnh ra đời

-Ngày 22-4 hàng năm được xem là ngày
trái đất nhằm bàn bạc vấn đề bảo vệ trái
H: Vì sao lần đầu tiên tham gia vào đất đang bị ô nhiễm môi trường hiện nay.
ngày trái đất năm 2000 , VN lại lấy chủ
đề là '' một ngày không sử dụng bao ni
-> Ngày 22/4/2000, nhân lần đầu tiên VN
lông'' ?
tham gia ngày Trái Đất với chủ đề “Một
ngày không dùng bao bì ni lông”
H: Nhận xét cách vào đề ?
Đây là một việc làm nhằm góp tiếng nói
chung với hành động bảo vệ môi trường

từ một việc làm nhỏ bé mang ý nghĩa.
-> Vào đề gián tiếp từ xa đến gần, rộng
đến hẹp, ngắn gọn, đủ, rõ vấn đề trọng
tâm.
2. Nguyên nhân, tác hại và giảp pháp
H: Nêu nguyên nhân, tác hại của việc của việc sử dụng bao bì ni lông
sử dụng bao bì ni lông ?
* Nguyên nhân: tính không phân hủy của
GV giải thích thêm về tính chất không pla-xtic; dùng không đúng cách, vứt thải
hàng triệu bao bì…
phân huỷ của pla-xtic
Hỏi: Sau khi dùng bao ni lông, em
thường xử lí bao ni lông như thế nào?
12


Em có hiểu tác hại không?
* Tác hại: cản trở sinh vật bị nó bao
quanh; tắc cống rãnh, sinh bệnh dịch;
làm chết sinh vật khi chúng nuốt phải;
làm ô nhiễm thực phẩm đựng trong túi…
Đốt -> thải chất độc đi-ô-xin, gây ung
H: Nhận xét về cách thuyết minh thư; gây dị tật bẩm sinh…
nguyên nhân và tác hại của bao bì ni
lông ?
-> Thuyết minh theo trình tự hợp lí từ
H: Em có thể nêu thêm những tác hại mức độ nhẹ đến nặng, đưa ra được những
khác mà bài viết chưa đề cập đến ?
ví dụ cụ thể, gần gũi, thực tế, rõ ràng, sức
thuyết phục cao.

(làm mất mĩ quan nơi công cộng…)
Gv bổ sung thêm những thông tin về
tác hại của rác thải ni lông đã chuẩn bị
bên bảng phụ
H: Em hãy liên hệ việc sử dụng bao bì
ni lông của bản thân và gia đình mình?
Giáo viên tiếp tục đề cập đến tác
hại của bao bì ni lông đối với sức khỏe
con người bằng các câu hỏi: Em có
thường xuyên đựng thức ăn trong các
túi ni lông màu không ? Em có hiểu
như thế là độc hại không hay màu sắc
của túi là đẹp mắt ? Ngoài việc các
chất đôc trong túi ni lông nhiễm vào
thức ăn, túi ni lông còn tác động đến
sức khỏe con người bằng con đường
nào khác ...
? Để giảm thiểu rác thải ni lông văn
bản đã đưa ra những giải pháp gì ?
* Giải pháp:
- Hạn chế rác thải ni lông bằng cách giặy
phơi khô, dùng lại
- Chỉ dùng khi cần thiết
- Dùng thay thế bằng giấy, lá
- Tuyên truyền cho người khác biết tác
13


H: ? Các biện pháp trên có thể thực hại của bao bì ni lông.
hiện được không?

=> Giải pháp có tính khả thi, nhưng quan
trọng là mọi người phải hiểu được ý
? Tại sao không đề nghị bỏ hẳn việc sử nghĩa của lời kêu gọi.
dụng bao bì ni lông ?
- Bởi vì bao bì ni lông có nhiều ưu thế mà
Hỏi: Ở địa phương em đã xử lí rác thải loài người chưa có giải pháp thay thế nên
bao ni lông như thế nào? Họ có hiểu chỉ có thể đề ra biện pháp hạn chế.
biết về tác hại đó không?
H: Văn bản đã đưa ra lời kêu gọi trước 3. Lời kêu gọi
mắt như thế nào ?
+ Lời kêu gọi cho hành động trước mắt:
H: ý nghĩa lời kêu gọi ?
“Một ngày không dùng bao bì ni lông”
- Bảo vệ Trái đất trước những nguy cơ
gây ô nhiễm gia tăng, không chỉ là bao bì
ni lông mà rộng hơn là vấn đề rác thải sin
hoạt, rác thải công nghiệp ( nước thải
không xử lí của các nhà máy, khí thải của
ô tô, xe máy, khí thải đốt ra từ lò nung ...)
H: Khái quát lại nội dung chính của
văn bản và hình thức thể hiện ?

III. Tổng kết
1. Nội dung
Văn bản đã chỉ rõ nguyên nhân khiến cho
việc sử dụng bao bì ni lông gây nguy hại
đến MT và sức khỏe của con người đồng
thời nêu ra những giải pháp hạn chế sử
dụng bao bì nilông có tính khả thi nhằm
bảo vệ MT và sức khoẻ con người.

2. Hình thức
- Văn bản giải thích rất đơn giản , ngắn
gọn mà sáng tỏ tác hại của việc dùng bao
bì ni lông , về lợi ích của việc giảm bớt
chất thải ni lông.
- Ngôn ngữ diễn đạt sáng rõ, chính xác ,
thuyết phục.

? Văn bản trên muốn nhắn gởi đến
chúng ta điều gì?

3. Ý nghĩa
- Nhận thức về tác dụng của một hành
14


động nhỏ , có tính khả thi trong việc bảo
vệ môi trường .
- Lời kêu gọi bình thường: “một ngày
không dùng bao ni lông” được truyền đạt
một hình thức rất trang trọng: Thông tin
về ngày trái đất năm 2000. Điều đó, cùng
với sự giải thích đơn giản mà sáng tỏ về
tác hại của việc giảm bớt chất thải no
lông đã gợi cho chúng ta những việc có
thể làm ngay để cải thiện môi trường
sống, để bảo vệ trái đất, ngôi nhà chung
của chúng ta.
IV. Luyện tập
Hãy viết đoạn văn (khoảng 10 dòng) tuyên truyền về tác hại của bao bì ni

lông đối với môi trường và sức khỏe con người.
Dành thời gian cho HS viết bài 3-5 phút, gọi HS đọc, nhận xét.
V. Hướng dẫn học bài
Hoàn thành đoạn văn ở phần luyện tập. Đối với HS khá, yêu cầu viết thành
bài văn hoàn chỉnh. Chuẩn bị bài: Nói giảm, nói tránh
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi thực hiện giáo án này nói riêng và dạy các văn bản nhật dụng trong
chương trình Ngữ văn 8 nói chung, tôi đã thu được một số kết quả sau:
Dạy văn bản nhật dụng gắn với thực tế là một phương pháp dạy học có hiệu
quả và có tính giáo dục cao. Học sinh hiểu được mục đích, yêu cầu của bài một
cách thấu đáo và toàn diện, giúp các em có cái nhìn đúng đắn, nghiêm túc về
những vấn đề được xem là hiểm họa đối với loài người. Qua các văn bản này, các
em nhận thấy đó không phải là lý thuyết suông mà nó hoàn toàn gắn với thực tế,
nghĩa là văn bản từ cuộc sống mà ra rồi từ văn bản thông qua người đọc sẽ tác
động trở lại cuộc sống. Kết quả là nhận thức của các em về những vấn đề đó được
nâng lên một cách rõ rệt.
Tổng số học sinh trong 1 lớp: 42 học sinh, trong đó:
Giỏi
SL
TL(%)

4

9.5

Khá
SL
TL(%)

Trung bình

SL
TL(%)

20

16

47.6

38.1

Yếu
SL
TL(%)

2

4.8

Kém
SL
TL(%)

0

0

15



Học xong văn bản này, các em nhận thấy tác hại ghê gớm của rác thải từ bao
bì ni lông và thay đổi thói quen sử dụng bao bì ni lông. Không những thế còn tuyên
truyền vận động mọi người cùng thay đổi thói quen không tốt đó, khuyên mọi
người đựng thực phẩm vào giấy, lá... Và ngay cả bản thân tôi cũng vậy, giờ đây,
việc sử dụng bao bì ni lông chỉ ở trong những trường hợp thật sự cần thiết. Kết quả
mà tôi thu nhận được sau tiết học này là nhận thức của các em đã thay đổi. Vì thế
ngay sau buổi học đó, học sinh đã tự đi thu gom rác thải là các bao bì ni lông
quanh trường để vào đúng nơi quy định, có những suy nghĩ tích cực về những việc
tương tự trong vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt.
Như vậy, việc áp dụng dạy văn bản nhật dụng gắn với tính cấp thiết của cuộc
sống đối với tôi đã có kết quả bước đầu. Tuy nhiên, để phát huy được kết quả đó là
cả một quá trình ở phía trước đòi hỏi giáo viên phải luôn trau dồi, học hỏi để tìm ra
con đường đến với kiến thức của học sinh một cách nhanh nhất mà việc vận dụng
các vấn đề đó vào thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc và có chất lượng.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 8 tập 1 chiếm một tỷ lệ nhỏ,
nhưng lại có vị trí quan trọng bởi các văn bản này có tác dụng tuyên truyền giáo
dục rất lớn. Nó bắt nguồn từ chính thực tế hiện nay và cả ba văn bản trên đều đề
cập đến những vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu mà xã hội hiện đại ngày nay
vẫn chưa tìm được lời giải đáp. Vì thế, khi dạy người giáo viên ngoài vai trò của
người thầy còn được xem là vai trò của người tuyên truyền viên truyền tải thông
tin đến học sinh. Để rồi qua các văn bản bày tỏ sự chung tay góp sức của học sinh
sẽ làm dịu đi các vấn đề nóng bỏng ấy. Đó chính là hiệu quả giáo dục mà mỗi
người giáo viên mong muốn đạt được.
Là một giáo viên được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 8 nhiều năm,
tôi nhận thấy đây là một vấn đề hết sức thú vị đối với giáo viên và học sinh bởi nó
đã nói được những hiện tượng đang xảy ra trong cuộc sống được nhiều người quan
tâm. Để dạy học có hiệu quả thì người dạy phải là người luôn biết cập nhật thông
tin trong cuộc sống hàng ngày để làm phong phú bài giảng của mình.

Sau khi nghiên cứu đề tài và qua quá trình dạy tôi đã rút ra được một số bài
học kinh nghiệm đối với phương pháp dạy học văn bản nhật dụng gắn với tính cấp
thiết của đời sống như sau:
3.1.1. Đối với giáo viên
Trong công việc soạn bài. Chuẩn bị tài liệu một cách chu đáo, cần có cái nhìn
tổng thể về vấn đề sẽ dạy để việc tuyên truyền đạt kết quả cao, kiến thức được hiểu
sâu và rộng. Trong khi soạn bài cần chú ý các câu hỏi liên hệ ở mọi khía cạnh của
vấn đề để học sinh nhận thức vấn đề vừa học, có thể giao bài tập này về nhà cho các
em thực hiện trong một thời gian cụ thể và giáo viên kiểm tra kết quả thu nhận được.
Trong khi giảng bài. Vận dụng linh hoạt khéo léo các liên hệ thực tế.
Đối với những vấn đề nhạy cảm cần tế nhị khi phát vấn học sinh. Dạy văn
bản cần luôn gắn với thực trạng hiện nay vì đây là những văn bản nhật dụng
mang tính thời sự, luôn gắn nội dung với yêu cầu đặt ra đối với mỗi học
16


sinh, nghĩa là truyền đạt nội dung đi đôi với kiểm tra nhận thức. Không nên
né tránh những câu hỏi của học sinh mà nên giải thích, trả lời cặn kẽ, thấu
đáo, rút kinh nghiệm nếu như giáo viên cũng là người chưa thực hiện tốt các
vấn đề đó. Cung cấp thông tin một cách kịp thời ứng với nội dung bài học để
học sinh thấy được sự cấp thiết của vấn đề không chỉ trong phạm vi bài học
mà thực tế cuộc sống là minh chứng thuyết phục nhất. Hướng dẫn học sinh
khi soạn bài cần chú ý đến sự liên hệ thực tế. Học bài, ngoài việc nắm được
nội dung của văn bản cần thực hành ngay vào cuộc sống để tăng hiệu quả
giáo dục.
3.1.2. Đối với học sinh
Có ý thức chuẩn bị bài, soạn bài, tìm những ví dụ, thông tin, số liệu liên quan
đến nội dung bài học. Liên hệ một cách trung thực, chính xác và nghiêm túc.
Không xem liên hệ là phần để tự do phát biểu một cách thiếu ý thức, ví dụ: nhạo
báng về sự đông con ở gia đình bạn... Thực hiện bài tập thực hành một cách

nghiêm túc, có hiệu quả. Sau khi học, cần tuyên truyền, vận động mọi người cùng
thực hiện tốt những vấn đề mà văn bản đặt ra.
3.2. Kiến nghị
Với giáo viên dạy ngữ văn khi dạy văn bản nhật dụng cần phải xem xét tính
cấp thiết của vấn đề đặt ra trong văn bản và ngoài cuộc sống. Nên dạy văn bản nhật
dụng bằng cách trao đổi, bàn luận, tránh nặng về nội dung văn bản để tăng tính
giáo dục.
Về phía nhà trường: Nên có nhiều hoạt động ngoại khóa để tuyên truyền,
giáo dục cho các em có ý thức bảo vệ môi trường, sức khỏe. Nhà trường cần kết
hợp với các cấp lãnh đạo ở địa phương nhắc nhở người dân nâng cao ý thức giữ
gìn vệ sinh môi trường, xử lí rác thải một cách hợp vệ sinh. Tuyên truyền ý thức
chăm lo giáo dục con em thật tốt.
Tôi mong rằng sẽ được các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo và các bạn
đồng nghiệp lưu tâm góp ý để tài liệu này đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của
người khác. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Quan Hóa, ngày 19 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT

Trịnh Thị Hương

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. www.google.com.vn

[2]. Báo cáo kinh tế xã hội năm 2017 của UBND huyện Quan Hóa
[3]. Chuẩn kiến thức kỹ năng
[3]. Sách giáo viên Ngữ văn 8

18



×