Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vận dụng đặc điểm, cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ địa phương thanh hóa vào tiết học ngữ văn lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.27 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG ĐẶC ĐIỂM, CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA
CỦA THÀNH NGỮ ĐỊA PHƯƠNG THANH HÓA
VÀO TIẾT HỌC NGỮ VĂN Ở LỚP 7

Người thực hiện : Nguyễn Thị Hoa
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : THCS Trần Mai Ninh
SKKN thuộc môn: Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2019
0


MỤC LỤC
Mục

Đề mục

Trang

1

Mở đầu


1

1.1

Lí do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

3

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4

Phương pháp nghiên cứu

3

1.5

Những điểm mới của SKSN


4

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

5

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

5

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

13

2.3

Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để 13
giải quyết vấn đề

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân,đồng nghiệp và nhà trường.


14

3

Kết luận, kiên nghị

15

3.1

Kết luận

15

3.2

Kiến nghị

15

Tài liệu tham khảo

16

Phụ lục

17

1



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Thành ngữ là một trong những hiện tượng độc đáo của ngôn ngữ nói chung,
của tiếng Việt nói riêng. Qua thành ngữ, có thể tìm thấy những dấu ấn riêng của
ngôn ngữ và bản sắc văn hóa của dân tộc. Trong tiếng Việt, thành ngữ phong phú
về số lượng, đa dạng về hình thức cấu tạo và ngữ nghĩa. Nghiên cứu thành ngữ là
góp phần khẳng định sự giàu đẹp, tinh tế của tiếng Việt, đồng thời thấy được
truyền thống văn hóa, thói quen ngôn ngữ và cách tri nhận của người Việt.
Chương trình Ngữ văn trong nhà trường THCS lớp 7 tiết 48 (theo phân phối
chương trình) có bài Thành ngữ. Qua tiết học này, học sinh đã nắm được kiến
thức cơ bản về thành ngữ. Mặt khác, trong chương trình địa phương cũng có
phần văn học dân gian. Vì vậy, nghiên cứu thành ngữ Thanh Hóa để học sinh
hiểu sâu hơn về cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ Thanh Hóa là một điều cần
thiết để học sinh vừa khắc sâu kiến thức, vừa tìm hiểu về văn hóa quê nhà.
Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất trong đa dạng. Phương ngữ chính là hiện
tượng biểu hiện tính đa dạng của Tiếng Việt. Là một vùng địa phương nằm tiếp
giáp giữa hai vùng phương ngữ Bắc Bộ và Trung Bộ, tiếng địa phương Thanh
Hóa có những đặc điểm riêng, góp phần thể hiện sự đa dạng và phong phú của
tiếng Việt về mặt biểu hiện. Nghiên cứu thành ngữ trong tiếng địa phương Thanh
Hóa không những góp phần làm rõ bản sắc độc đáo của vùng đất này về mặt
ngôn ngữ và văn hóa mà còn khẳng định thêm sự phong phú, đa dạng và nét đặc
sắc về thành ngữ của người Thanh Hóa nói riêng, tiếng Việt và văn hóa Việt nói
chung.
Trong thực tế nói năng, thành ngữ được người Việt nói chung, người Thanh
Hóa nói riêng sử dụng một cách thường xuyên. Là một cụm từ nhưng thành ngữ
mang đặc trưng riêng của cấu tạo, ngữ nghĩa và mang đậm bản sắc văn hóa vùng
miền. Nghiên cứu thành ngữ địa phương Thanh Hóa về cấu tạo, ngữ nghĩa và
cách sử dụng cũng chính là nghiên cứu một hiện tượng quan trọng của từ ngữ địa
phương Thanh Hóa. Những tư liệu mà tôi thu thập được trong quá trình thực hiện

đề tài cũng như kết quả đánh giá có thể góp phần bổ sung thêm nhiều cứ liệu
quan trọng vào việc giảng dạy phương ngữ tiếng Việt cho học sinh trong nhà
trường.
Với những lí do trên, tôi chọn đề tài Vận dụng đặc điểm, cấu tạo và ngữ
nghĩa của thành ngữ của thành ngữ địa phương Thanh Hóa vào tiết học Ngữ Văn
ở lớp 7 để tìm hiểu và nghiên cứu.

2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi hướng đến mục đích chính là nêu lên các đặc
điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và hành chức của thành ngữ Thanh Hóa qua so sánh với
một số thành ngữ của các vùng miền khác. Từ đó, thấy được sự phong phú đa
dạng của thành ngữ địa phương Thanh Hóa nói riêng và tiếng Việt nói chung,
đồng thời rút ra vai trò của nó trong sáng tác văn chương và trong đời sống văn
hóa của người dân Thanh Hóa, bản sắc văn hóa và thói quen ngôn ngữ của cư
dân địa phương Thanh Hóa và đặc biệt là tài liệu cho quá trình giảng dạy ở nhà
trường cấp THCS.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Để tìm hiểu phân tích đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ Thanh
Hóa, tôi đã chọn đối tượng nghiên cứu là toàn bộ thành ngữ địa phương Thanh
Hóa được sưu tầm trong các tài liệu Dân ca Thanh Hóa do Hoàng Tuấn Phổ-Đỗ
Ngọc Trâm-Ngô Xuân Thanh-Lê Huy Trâm sưu tầm, xuất bản tại Nxb VHHN
(9/1963); Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa của nhóm Lam Sơn, xuất bản tại Nxb
VHHHN (1965); Thanh Hóa Quan Phong do Vũ Duy Trinh sưu tầm và giới
thiệu (1973); Tục ngữ, dân ca, ca dao, vè Thanh Hóa (Miền xuôi trước cách
mạng tháng Tám) của nhóm tác giả Lê Huy Trâm-Hoàng Khôi-Lê Đức Hạnh sưu
tầm và biên soạn, Nxb Thanh Hóa (1983); Ca dao Thanh Hóa 1954-1975 của
nhóm sưu tầm: Hoàng Khôi-Lê Huy Trâm; Tục ngữ Mường Thanh Hóa của tác

giả Cao Sơn Hải.
Ngoài ra, tôi còn lấy nguồn dữ liệu từ các phiếu điều tra điền dã trực tiếp
từ học sinh các trường trung học cơ sở thuộc các huyện Nông Cống, Quảng
Xương nơi tôi đã từng giảng dạy và của người dân Thanh Hóa ở các địa phương
để ghi chép lại. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng thử vào đối lượng học
sinh lớp 7 (lớp 7C) trường THCS Trần Mai Ninh nơi tôi đang công tác.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm, tôi sử dụng đồng thời một
số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu chính như phương pháp điều tra điền dã,
phương pháp thống kê-phân loại, phương pháp miêu tả-so sánh, phương pháp
phân tích-tổng hợp.
1.4.1.Phương pháp điều tra điền dã
Tôi tiến hành điều tra điền dã trực tiếp học sinh ở một số trường THCS:
THCS Quảng Lĩnh (Quảng Xương), THCS Hoàng Giang (Nông Cống), Lớp 7CTHCS Trần Mai Ninh và người dân ở nhiều địa phương Thanh Hóa để thu thập
tư liệu tham khảo.

3


1.4.2. Phương pháp thống kê, phân loại.
Từ các tư liệu thu thập được qua điều tra và qua một số công trình sưu tầm
về thành ngữ địa phương Thanh Hóa đã được xuất bản, tôi tiến hành khảo sát,
thống kê, phân loại các thành ngữ Thanh Hóa, sau đó, tiếp tục phân chúng thành
các nhóm theo từng tiêu chí cụ thể để làm cơ sở cho việc miêu tả, phân tích và so
sánh.
1.4.3. Phương pháp miêu tả, so sánh
Từ bảng số liệu đã thống kê và phân loại, tôi sẽ miêu tả những đặc điểm
của thành ngữ địa phương Thanh Hóa về cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng; đối
chiếu những đặc điểm đó với thành ngữ ở các vùng địa phương khác để nêu bật
những đặc điểm đó.

1.4.4. Phương pháp phân tích tổng hợp
Từ việc miêu tả, so sánh, tôi sẽ phân tích từng đặc điểm của thành ngữ địa
phương Thanh Hóa về cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng, từ đó tổng hợp những
đặc điểm khái quát nhất của thành ngữ ở địa phương này.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Đây là đề tài đi vào nghiên cứu thành ngữ Thanh Hóa một cách khá toàn
diện về mặc cấu tạo, ngữ nghĩa và cách sử dụng.
Trên cơ sở chỉ ra các đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa của thành ngữ Thanh
Hóa, so sánh thành ngữ Thanh Hóa với thành ngữ tiếng Việt ở những phương
diện cụ thể, sáng kiến kinh nghiệm nêu lên một số nét đặc trưng của thành ngữ
Thanh Hóa, đồng thời làm rõ sắc thái văn hóa địa phương Thanh Hóa.
Sáng kiến kinh nghiệm lập ra các bảng biểu thống kê và phân tích các ví
dụ cụ thể của thành ngữ trong thơ ca dân gian Thanh Hóa và những dữ liệu thống
kê được từ điều tra, từ đó làm nổi bật cách cấu tạo của những từ ngữ nghĩa và vai
trò của thành ngữ trong cách sử dụng, nhất là cách sử dụng trong thơ ca dân gian.
Ngoài ra sáng kiến kinh nghiệm còn đóng góp cho việc tìm ra những thành
ngữ Thanh Hóa mà các tác giả đi trước chưa thu thập như một đối tượng điều tra
riêng. Do vậy, sáng kiến kinh nghiệm hoàn thành sẽ cung cấp tư liệu cho ai quan
tâm tới vấn đề thành ngữ nói riêng, ngôn ngữ và văn hóa nói chung, đặc biệt là
phục vụ cho công tác dạy và học Ngữ Văn trong trường THCS.

4


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Cơ sở lý thuyết và thực tiễn
a. Cơ sở lý thuyết
*Khái niệm thành ngữ
Thành ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ khá đặc biệt. Trong tiếng Việt,

thành ngữ có số lượng tương đối phong phú, có nguồn gốc và kiểu cấu tạo tương
đối đa dạng. Song, cũng như nhiều đơn vị ngôn ngữ khác nhau, thành ngữ là một
đơn vị đặc biệt và hết sức phức tạp. Vì vậy, việc tìm ra những tiêu chí cụ thể, xác
đáng để xác định khái niệm thành ngữ, đó không phải là việc làm đơn giản. Vì
vậy, dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thành ngữ nhưng cho đến nay,
các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa đưa ra ý kiến thống nhất về nội hàm của khái
niệm này.
Tác giả Nguyện Thiện Giáp (1975) nhận định: “Thành ngữ là những cụm
từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm…. bên cạnh nội
dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng làm theo sắc thái bình giá, cảm xúc
nhận đinh”(10, tr. 181)
Tác giả Nguyễn Văn Tu (1976) quan niệm: “Thành ngữ là cụm từ cố định
mà các từ trong đó mất đi tính độc lập đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp
làm lại một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa
của từng thành tố tạo ra. Có thể có tính hình tượng cũng có thể có cũng có thể
không. Nghĩa của chúng cũng khác nghĩa của những tư nhưng có thể cắt nghĩa
bằng từ nguyên học”(37, tr.189). Tác giả Hồ Lê (1976) cũng có ý kiến tương tự:
“Thành ngữ là những tổ hợp từ (gồm nhiều từ hợp lại) có tính vững chắc về cấu
tạo và tính bóng bẩy về ý nghĩa để miêu tả một hình ành, một hình tượng, một
tính cách hay một trạng thái nào đó”(20. Tr.97).
Tác giả Nguyễn Văn Mệnh trong khi so sánh thành ngữ với tục ngữ cũng
khẳng định: “Mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn
chỉnh”(23, tr. 12).
SGK Ngữ Văn Lớp 7-Tập 1(Tr.144): “Thành ngữ là một cụm từ có cấu tạo
cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh”.
b. Cơ sở thực tiễn
Trong giảng dạy chương trình địa phương phần văn học dân gian lớp 7 và
tiết 48 chương trình SGK Ngữ Văn 7:
+ Về phía giáo viên: Gặp không ít khó khăn khi tìm tư liệu để mở rộng
cho học sinh. Tài liệu tham khảo về chương trình địa phương ít phổ biến trên thị

trường.

5


+ Về phía học sinh, nhất là học sinh thành phố: Khi học, học sinh không
liên hệ được thành ngữ địa phương và bài Thành ngữ, tiết 48 SGK Ngữ Văn 7
(Tập 1). Nếu lồng ghép và lấy được ngữ liệu từ địa phương sẽ giúp các em hiểu
hơn về phong tục, tập quán cũng như đặc điểm vùng miền thể hiện trong lời ăn
tiếng nói của nhân dân. Mặt khác, các em thông qua thành ngữ cũng biết thêm về
địa lí quê hương. VD: Cá mè sông Mực. Học sinh sẽ tìm hiểu được vị trí sông
Mực (Hồ sông Mực–Như Thanh, Thanh Hóa).
2.1.2. Cấu tạo của thành ngữ và phân loại thành ngữ
Như đã nói ở trên, thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ phức tạp. Tính phức
tạp của thành ngữ biểu hiện trước hết ở đặc điểm cấu tạo của nó. Là một đơn vị
thuộc loại tổ hợp từ cố định nhưng thành ngữ có đặc điểm bền vững về hình thái
cấu trúc. Tính ổn định, bền vững của cấu trúc thành ngữ thể hiện ở sự ổn định
thành phân từ vựng (nhiều trường hợp chặt chẽ đến mức loại bỏ khả năng thay
thế từ đồng nghĩa) và sự ổn định về cấu tạo (ổn định về mối quan hệ giữa các
thành tố trong thành ngữ). Xét về kết cấu ngữ pháp, thành ngữ có kết cấu khá đa
dạng. Thành ngữ có thể có kết cấu là cụm từ chính phụ, cụm từ đẳng lập hoặc
cụm chủ vị…
Có một điều đáng lưu ý nữa là thành ngữ là hiện tượng trung gian, nằm ở
khu đệm, giữa một bên là từ (thuộc từ vựng) và một bên là ngữ (thuộc cú pháp);
và còn một bên nữa là các hiện tượng thuộc văn học dân gian (tục ngữ, ca dao).
Do đó cấu tạo phức tạp và đặc tính trung gian nêu trên nên việc chỉ rõ câc đặc
tính cũng như phân loại thành ngữ không phải là vấn đề đơn giản. Trong các
công trình nghiên cứu về thành ngữ, các tác giả đã dựa vào nhiều tiêu chí khác
nhau để phân loại thành ngữ về mặt cấu tạo. Có thể phân loại theo 4 loại:
a. Phân loại dựa vào số lượng thành tố trong thành ngữ.

Các tác giả Lương Văn Đang-Nguyễn Lực trong cuốn Từ điển thành ngữ
Tiếng Việt dựa vào số lượng thành tố trong thành ngữ đã chia thành ngữ ra làm 3
loại:
- Thành ngữ kết cấu ba tiếng: Bạc như vôi; Cá hóa rồng; Gươm kề cổ;
Nhảy chân sáo; Tay rờ gáy.
Trong kiểu này có một số trường hợp tuy hình thức là tổ hợp ba tiếng một,
nhưng về mặt kết cấu, đó chỉ là sự kết hợp của một từ đơn và một từ ghép như:
Nhảy chân sáo; Không bờ bến; Đau điếng người…hoặc kiểu có ba từ đơn, kết
cấu giống như cụm từ C-V : Tớ quên thầy.
- Thành ngữ kết cấu bốn từ đơn hay hai từ ghép liên hợp theo kiểu nối tiếp
hay xen kẽ là kiểu phổ biến nhất của thành ngữ tiếng Việt: Ăn cháo đái bát; đầu
trâu mặt ngựa; gió dập sóng vùi; mặt hoa da phấn; tay làm hàm nhai…
Trong đó các tác giả chia ra các kiểu:
+ Kiểu thành ngữ có láy ghép: Chạy ngược chạy xuôi; Ghét cay ghét
đắng; Tối mày tối mặt,…
6


+ Kiểu thành ngữ tổ hợp của hai từ ghép: Đau lòng xót ruột; Kín cổng cao
tường; Nằm gai nếm mật; Tầm sư học đạo…..
- Thành ngữ kết cấu năm hay sáu tiếng cũng tương đương như kiểu kết
cấu trên: Ăn trông nồi ngồi trông hướng; Nói một đằng làm một nẻo…
Một số thành ngữ có kiểu kết cấu từ bảy, tám, mười tiếng. Nó có thể hai
hay ba đoạn, hai hay ba mệnh đề liên hợp tạo thành một tổ hợp kiểu ngữ cú dài
cố định, như: Nói như dùi đục chấm mắm cáy; Giã gạo thì ốm, giã cốm thì
khỏe…..
Như vậy, dựa vào số lượng thành tố trong thành ngữ để phân loại thành
ngữ là chỉ dựa vào hình thức, không phản ánh được tính chất quan hệ và đặc
điểm bên trong của chúng.
b. Phân loại thành ngữ dựa vào kết cấu ngữ pháp:

Tác giả Nguyễn Văn Tu dựa vào kết cấu ngữ pháp chia thành ngữ thành
các loại:
- Thành ngữ có cấu tạo là câu đơn giản: Trăm dâu đổ đầu tằm; Chó ngáp
phải ruồi; Trên dưới một lòng, Lời nói đọi máu…. Ở loại câu này, tác giả phân ra
làm hai loại:
+ Câu đơn giản đủ hai thành phần chủ yếu, có thể thêm thành phần thứ
yếu theo mô hình: Chủ ngữ+Vị ngữ+Trạng ngữ hoặc Tân ngữ, ví dụ: Trăm dâu
đổ đầu tàm.
+ Câu đơn giản chỉ có hai thành phần chính theo mô hình: Chủ ngữ+Vị
ngữ, ví dụ: Ma ăn cỗ.

Thành ngữ có cấu tạo là câu phức tạp: Tay làm hàm nhai; Binh
hùng tướng mạnh,…
Những thành ngữ này có công thức C-V, C-V không có liên từ, ta có thể
chia làm hai loại nhỏ, căn cứ vào mối quan hệ dẳng lập hay chính phụ của mệnh
đề trong thành ngữ:
+ Về mệnh đề phụ: Tay làm hàm nhai; Quýt làm cam chịu…
+ Về mệnh đề đẳng lập : C-V, C-V: Cơm thừa canh cặn; Binh hùng tướng
mạnh; Tai to mặt lớn…
Ngoài ra, thành ngữ còn có kiểu cấu tạo là câu phức hợp thiếu thành phần
chủ yếu như:
+ Kiểu VT-VT như: Ăn lông ở lỗ,…
+ Kiểu Vtr-Vtr: Ngủ ngày cày đêm; Ăn to nói lớn…
+ Kiểu trV-trV: Phàm ăn phàm uống; Nói dông nói dài,…
+ Kiểu: Số+danh+số+danh : Năm thê bảy thiếp,…
Nhìn chung, các phân loại dựa vào cấu tạo ngữ pháp đã chia thành ngữ
thành các kiểu cụ thể. Tuy nhiên cách phân loại này sẽ khó có thể khảo sát thành
ngữ tiếng Việt triệt để và chính xác về nội dung.
c. Phân loại thành ngữ dựa vào số lượng cụm từ
7



Dựa vào tiêu chí này, người ta chia thành ngữ tiếng Việt thành hai loại lớn: thành
ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ đơn và thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ liên
hợp. Hai loại này, tiếp tục phân ra các tiểu loại nhỏ:
- Thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ đơn: đó là loại thành ngữ tiếng Việt
có cấu tạo chỉ gồm một cụm C-V, ví dụ: Than làm tội đời; Kẻ cắp gặp bà già,…
+ Thành ngữ có cấu tạo C-P là cụm từ đơn.
Cụm từ C-P thường được gọi theo tên từ loại của thành tố chính trong cụm
từ đó, là cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ, cụm số từ, cụm đại từ. Thành
ngữ có cấu tạo là cụm từ C-P cũng có đầy đủ các loại cụm từ đã nêu trên; nhưng
số lượng nhiều nhất là cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Trong các loại
này đều có cấu tạo là cụm từ đơn.
- Thành ngữ có cấu tạo là cụm danh từ đơn:
Đây là loại thành ngữ tiếng Việt có quan hệ chính phụ giữa các yếu tố cấu
thành, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm là danh từ, cấu tạo chỉ gồm một
cụm C-P, ví dụ: Mồm cá ngão; Cờ cao Đế Thích,…
Thành ngữ có cấu tạo là cụm động từ đơn.
Đây là loại thành ngữ tiếng việt có một thành phần trung tâm là động từ, ví
dụ: Uốn ba tấc lưỡi; chỉ tay năm ngón,…
- Thành ngữ có cấu tạo là cụm tính từ đơn:
Là thành ngữ có cấu tạo cụm từ đơn không xuất hiện thành phần phụ
trước, chỉ bao gồm một trung tâm và một thành phần phụ sau, ví dụ: Trắng như
ngà; Nhanh như cắt; To như hộ pháp,…
+ Thành ngữ có cấu tạo kiểu cụm từ liên hợp.
Đó là cấu tạo gồm 2 cụm từ trở lên kết hợp với nhau, gồm các kiểu:
- Thành ngữ có cấu tạo C-V là cụm từ liên hợp (C-V+ C-V).
Thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ liên hợp là thành ngữ có hai kết cấu
trung tâm, mà kết cấu trung tâm là kết cấu C-V, ví dụ: Trời đánh thánh vật,…
- Thành ngữ có cấu tạo C-P là cụm từ liên hợp (C-P + C-P)

Ở đây, người ta chia ra các tiểu loại theo cụm danh từ, cụm động từ, cụm
tính từ, cụ thể:
- Thành ngữ có cấu tạo là cụm danh từ liên hợp.
Loại thành ngữ này có hai cụm từ chính phụ liên kết lại, hai cụm từ chính
phụ đó đều là cụm danh từ. Đắp đập, đe bờ; Bịt mồm, bịt miệng,…
Ví dụ: Cơm niêu nước lọ; Chim trời cá biển,….
-Thành ngữ có cấu tạo là cụm động từ liên hợp.
Đây là loại thành ngữ tiếng Việt có hai thành phần trung tâm do động từ
đảm nhiệm, ví dụ: Đắp đập, be bờ; Bịt mồm, bịt miệng; Đắp nền, xây móng…
+ Thành ngữ có cấu tạo là cụm từ liên hợp.

8


Thành ngữ này bao gồm hai thành phần trung tâm do tính từ đảm nhiệm,
có kiểu thành ngữ có cấu tạo là cụm từ liên hợp trên tổng 547 thành ngữ tiếng
việt có cấu tạo cụm tính từ : Xanh vỏ, đỏ lòng; Đỏ mặt, tía tai;…
Đây là một cách phân loại khá hợp lí, vì thành ngữ vốn là cụm từ cố định,
do đó dựa vào số lượng cụm từ có thể chia các kiểu kết cấu của thành ngữ.
d. Phân loại thành ngữ dựa vào phương thức cấu tạo
Trong Thành ngữ học tiếng Việt, tác giả Hoàng Văn Hành đã đưa ra tiêu
chí phân loại thành ngữ dựa vào phương thức cấu tạo. Trên cơ sở đó, ông đã
phân thành ngữ làm ba loại:
 Thành ngữ so sánh:
Loại này khá phổ biến trong thành ngữ Tiếng việt, thành ngữ so sánh là
một tổ hợp từ bền vững, bắt nguồn từ phép so sánh mang nét nghĩa biểu trưng.
- A như B: Mình với ta như đa với cuội.
- At như B: Hát rề rề như bò đái đường
- t như B: Hớn hở như mèo tha tôm.
- Như B: Như bún trợ trưa.

 Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng:
Đây là loại thành ngữ phổ biến trong Tiếng Việt, theo giáo sư Hoàng Văn
Hành, thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng làm nên diện mạo của thành ngữ tiếng Việt,
chiếm 2/3 tổng số thành ngữ. Các thành ngữ có cấu trúc đối xứng như: Xanh vỏ,
đỏ lòng; Gạn đục, khơi trong; Tay kiếm, tay cờ;…
Các thành ngữ này có tính chất đối xứng giữa các bộ phận và các yếu tố
tạo nên thành ngữ. Quan hệ đối xứng đó được thiết lập dựa trên hai bình diện:
đối ý và đối lời. Đối ý là đối ở cấp độ vế, còn đối lời là đối ở cấp độ yếu tố.
Ví dụ: thành ngữ: Bóc ngắn, cắn dài ta thấy: Bóc ngắn đối xứng với cắn
dài, đây là đối xứng ở cấp độ vế, nó giúp ta nhận ra nghĩa của thành ngữ này là:
Việc sử dụng, chi tiêu không cân đối với thành quả, thu nhập. Nhưng để có quan
hệ đối ý này là nhờ vào quan hệ đối xứng giữa các yếu tố trong hai vế của thành
ngữ-đó là quan hệ đối lời.
Trong thành ngữ trên nhờ có quan hệ đối xứng giữa các yếu tố “bóc”và
“cắn”, “ngắn”và “dài”mà ta suy ra được ý nghĩa của thành ngữ. Cần nhận thấy
để có được sự đối lời đó, thì nội dung ngữ nghĩa các yếu tố đối xứng nhau trong
hai vế ở phần lớn các thành ngữ, đều phản ánh những đặc trưng thuộc cùng một
nhóm phạm trù ngữ nghĩa và chúng phải có một phạm trù từ loại. Hay nói cách
khác, giữa các yếu tố trong hai vế có sự tương đồng về mặt ngữ pháp-ngữ nghĩa.
Xét ví dụ: Bóc ngắn, cắn dài ta thấy có hai cặp yếu tố cùng phạm trù ngữ
nghĩa: “Bóc-cắn”, “ngắn-dài”. Chúng cùng chỉ một hiện tượng, một sự vật, tính
chất… “Bóc”, “cắn” chỉ những hành động. “ngắn, dài”chỉ tính chất của sự việc,
sự vật vừa nêu. Mặt khác, các yếu tố ở hai vế của thành ngữ đó đều thuộc một
9


phạm trù từ loại, cụ thể là “bóc”, “cắn” đối xứng với nhau và đều là động từ, còn
“ngắn”, “dài” đối xứng với nhau và đều là tính từ.
Tương tự, có các thành ngữ ẩn dụ đối xứng: Bố bế, mẹ mang; Buông chén,
khoen đũa;…

 Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng
Bên cạnh những thành ngữ có cấu trúc đối xứng và thành ngữ so sánh, còn
có một bộ phận không thuộc vào hai kiểu cấu tạo trên, tác giả Hoàng Văn Hành
gọi đó là thành ngữ thường “hay tốt hơn là thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối
xứng”(12,tr.47)
Thành ngữ có cấu trúc thường chiếm tỉ lệ không nhiều. Về mặt cấu tạo,
chúng không có tính chất đối xứng, bởi chúng được ra những cấu trúc ngữ pháp
bình thường. Cụ thể là được cấu tạo theo hai kiểu kết cấu ngữ pháp : kiểu kết cấu
có một trung tâm và kiểu kết cấu có hai trung tâm. Ta có thể hiểu một cách đơn
giản như sau:
+ Kết cấu ngữ pháp có một trung tâm gồm 3 kiểu:
+Kết cấu danh ngữ: Môi cá mè,…
+Kết cấu động ngữ: Lượn như diều hâu,…
+Kết câu tính ngữ: Mòn đầu gối,…
+ Kết cấu ngữ pháp có hai trung tâm là kết cấu chủ -vị (C-V): Cá vượt
qua đăng,…
Theo tôi trong bốn cách phân chia cấu trúc thành ngữ tiếng việt trên cách,
cách chia của tác giả Hoàng Văn Hành-dựa vào phương thức cấu tạo-có thể xem
là hợp lí nhất, mang tính khoa học nhất. Tôi lấy đó làm nền tảng, làm cơ sở để
khảo sát, thống kê, phân tích đặc điểm cấu tạo của thành ngữ Thanh Hóa.
2.1.3. Đặc điểm
a. Ngữ nghĩa của thành ngữ
Thành ngữ là đơn vị thuộc loại tổ hợp từ cố định và có chức năng định
danh. Tuy nhiên, khác với những đơn vị định danh bình thường, thành ngữ là
đơn vị định danh bậc hai. Thành ngữ là đơn vị từ vựng có lượng nghĩa đôi và hai
nghĩa này gần như song song tồn tại: nghĩa đen là cơ sở, là gốc; nghĩa bóng hay
nghĩa phái sinh là nghĩa được sử dụng trong hành chức, là nghĩa hình thành qua
quá trình biểu trưng hóa. Về điểm này, trong công trình Thành ngữ học tiếng
Việt, tác giả Hoàng Văn Hành đã nhận xét như sau: “Nội dung của thành ngữ
không hướng đến điều gì được nhắc đến trong nghĩa đen của các từ ngữ tạo nên

thành ngữ, mà ngụ ý điều gì đó suy ra từ chúng. Ví dụ, thành ngữ Cá nằm trên
thớt không phải miêu tả con cá nằm trên thớt như nói cuốn sách nằm trên bàn,
mà ngụ ý nói đến trạng thái nguy hiểm sống còn. Đó là nghĩa bóng hay nghĩa
biểu trưng được hình thành nhờ quá trình biểu trưng hóa”[12, tr.34]. Nói cách

10


khác, nghĩa của thành ngữ không phải là nghĩa của các từ cấu tạo nên thành ngữ
cộng lại, mà là nghĩa biểu trưng hóa, nghĩa được suy ra từ nghĩa của các từ đó.
Nghĩa của thành ngữ tiếng Việt thường là kết quả của hai hình thái biểu
trưng hóa: hình thái so sánh và hình thái ẩn dụ. Bằng phép so sánh, chúng ta có
những thành ngữ như Đen như than; Trắng như trứng gà bóc;, Nhanh như cắt;
Chậm như rùa; Ngang như cua, Xấu như ma,… Bằng phép ẩn dụ, chúng ta có
những thành ngữ như Mèo mả gà đồng; Đầu voi đuôi chuột; Mắt tròn mắt dẹt;
Chân đăm đá chân chiêu; Vắt cổ chày ra nước,… Cần lưu ý rằng, sự đối lập giữa
hai hình thức biểu trưng hóa này chỉ mang tính chất tương đối nên vẫn có những
thành ngữ mang tính chất chuyển tiếp, tính chất trung gian giữa hai kiểu biểu
trưng hóa này này: Chạy rống Bái Công; Chạy như cờ lông công,…
b. Đặc điểm, vai trò của thành ngữ trong sử dụng và phân biệt thành
ngữ với tục ngữ
* Đặc điểm, vai trò của thành ngữ trong sử dụng.
Về sử dụng, thành ngữ là tổ hợp từ nhưng từ khi được dùng trong câu nói
lại chỉ tương đương với từ về nghĩa và chức vụ cú pháp với tư cách yếu tố cấu
tạo câu. Tạo nên đặc trưng này là do tính cố định hóa, tính định chắc, tính có sẵn
của thành ngữ trong kho tàng các đơn vị ngôn ngữ. Về nghĩa, tuy tương đương
với từ nhưng trong nhiều trường hợp, người nói thích sử dụng thành ngữ hơn là
do những đặc trưng ngữ nghĩa đặc biệt của thành ngữ như đã nói trên. Hiệu quả
tác động vừa cụ thể vừa sinh động tạo nên ấn tượng sâu sắc bởi nghĩa của nó
được thể hiện qua hình ảnh mang tính biểu trưng khái quát hóa cao. Chẳng hạn,

người ta thích nói: “chúng nó là lũ mèo mả gà đồng hơn” là nói “chúng nó là lũ
vô lại, lăng loằn, đáng khinh ghét”, người ta thích nói “thằng ấy mặt búng ra
sữa” hơn là “thằng ấy nhìn nhỏ tuổi, non nớt”, “thằng này mặt trơ trán bóng”
thay vì “thằng này bướng lắm”,… Về ngữ pháp, nếu tục ngữ được cấu tạo theo
kiểu câu thì thành ngữ cấu tạo theo kiểu cụm từ (một trung tâm), cho nên thành
ngữ chỉ là bộ phận của cậu, có chức năng ngữ pháp trong câu như từ.
Trong văn học, thành ngữ được các nhà thơ, nhà văn sử dụng một cách
thường xuyên, tạo nên hiệu quả nghệ thuật lớn trong tác phẩm văn học. Nhiều
nhà thơ, nhà văn đã khai thác và sử dụng thành ngữ một cách tài tình, tạo thành
những dấu ấn phong cách riêng như cách sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du
trong truyện Kiều, cách sử dụng thành ngữ trong văn thơ của Hồ Chí Minh,…
Như vậy, có thể thấy, thành ngữ được sử dụng thường xuyên trong giao
tiếp hàng ngày cũng như trong các tác phẩm văn học của người Việt, góp phần
tạo nên nét độc đáo trong thói quen nói năng cũng như dấu ấn phong cách và
hiệu quả nghệ thuật trong tác phẩm văn học.
** Phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
11


Lâu nay, trong lí luận văn học cũng như ngôn ngữ học, việc phân biệt
thành ngữ và tục ngữ là một trong những vấn đề nhận được khá nhiều sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu. Đã có khá nhiều bài viết của các tác giả đi trước bàn
về vấn đề này như Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ của tác giả Vũ
Đình Tú (1973); Khái niệm về thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp
(1975); Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ của Nguyễn Văn Mệnh (1972),…
Ngoài ra, trong các công trình nghiên cứu về thành ngữ và tục ngữ Việt Nam,
nhiều tác giả cũng đã bàn về vấn đề này như Thành ngữ học tiếng Việt của
Hoàng Văn Hành, Tục ngữ Việt Nam dưới góc nhìn ngữ nghĩa – ngữ dụng của
Đỗ Thị Kim Liên,… Qua tìm hiểu các bài viết, công trình trên, tôi thấy, dù còn
có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các tác giả vẫn thống nhất về tiêu chí nhận diện

và phân biệt thành ngữ và tục ngữ trên một số điểm cơ bản sau.
Thứ nhất, có thể phân biệt thành ngữ và tục ngữ trước hết qua tiêu chí hình
thức. Theo đó, tục ngữ có số lượng chủ yếu là 6 âm tiết, lại nhiều nhất là 23 âm
tiết. Thành ngữ chủ yếu có từ 3 đến 4 âm tiết.
Thứ hai là tiêu chí cấu trúc. Trong tục ngữ, các thành tổ hợp thành có quan
hệ tương đối tự do nên có thể chuyển đổi, thêm bớt, tỉnh lược một số thành tố.
Ngược lại, trong thành ngữ, giữa các thành tố lại có quan hệ cố định, chặt chẽ
nên khó có thể cải biến, thêm bớt hoặc tỉnh lược các thành tố.
Thứ ba là tiêu chí chức năng. Tiêu chí chức năng thể hiện rõ nhất ở sự
tham gia với tư cách là đơn vị cấu thành trong hệ thống ngôn ngữ. Trong sử
dụng, nhiều trường hợp, thành ngữ trở thành thành tố trong cấu tạo của tục ngữ
như Cơm hàng cháo chợ ai lỡ thì ăn, Đẹp như tiên lo phiền cũng xấu,… Trong
trường hợp này, thành ngữ là cụm từ cố định, có giá trị tương đương như từ, thực
hiện chức năng cấu tạo, còn tục ngữ tồn tại với tư cách là câu, hướng đến chức
năng thông báo, có đích tác động đến người nghe.
Tiêu chí thứ tư để phân biệt thành ngữ với tục ngữ là tiêu chí ý nghĩa.
Nghĩa của tục ngữ thường thuộc một trong ba nhóm nghĩa: nghĩa tường minh,
nghĩa gián tiếp và đa nghĩa. Chẳng hạn, với câu tục ngữ Có công mài sắt có
ngày nên kim thì nghĩa gián tiếp là có công sức lao động thực sự thì tất yếu sẽ có
thành quả như mong muốn; nhưng với câu tục ngữ Lời nói gói bạc thì có thể
hiểu là một lời nói có giá trị ngang tiền bạc, lời nói có giá trị hơn tiền bạc, lời nói
phải đi kèm với gói bạc,… Còn nghĩa của thành ngữ, thoạt đầu, đơn vị này được
hình thành từ cụm từ tự do, lâu dần thành cố định nên mang nghĩa bóng, nghĩa
khái quát. Nghĩa của thành ngữ toát lên từ toàn khối chứ không phải nghĩa của
từng thành tố riêng lẻ cộng lại. Nghĩa của thành ngữ là nghĩa biểu trưng hóa.
Tiêu chí thứ 5 để phân biệt thành ngữ và tục ngữ là tiêu chí đích tác động.
Tiêu chí đích tác động thể hiện ở chỗ tục ngữ được chia thành hai nhóm là nhóm
12



có đích tác động trực tiếp (nhóm tục ngữ phản ánh kinh nghiệm sản xuất, thời
tiết của người lao động như: Trời đang nắng có gà trắng thì mưa; Khoai ruộng
lạ, mạ ruộng quen,… và nhóm có đích tác động gián tiếp như: Chết đuối vớ phải
cọng rơm; Lươn ngắn chê chạch dài,… Thành ngữ tác động đến người nghe một
khi nó đi vào lời nói, được vận dụng trong lời nói, là bộ phận cấu thành lời nói,
tương đương như từ, không thể xem xét thành ngữ tác động đến người nghe trực
tiếp hay gián tiếp.
2.1.4. Tiểu kết phần nội dung
Tôi đã giới thiệu một số nét khái quát về những vấn đề lí thuyết có liên
quan đến đề tài này như vấn đề khái niệm thành ngữ, đặc trưng của thành ngữ về
cấu tạo và ngữ nghĩa, vấn đề phương ngữ và phương ngữ Thanh Hóa. Qua đó, tôi
rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, thành ngữ là cụm từ cố định, có chức năng định danh, có kết cấu
bền vững, có ý nghĩa hoàn chỉnh và bóng bẩy, nghĩa biểu trưng hóa, được sử
dụng tương đương như từ.
Thứ hai, so với tục ngữ, thành ngữ có nhiều nét khác biệt về cấu tạo, chức
năng, ngữ nghĩa, đích tác động,…
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Thứ nhất: Trong quá trình dạy học, bản thân nhận thấy ở học sinh:
+ Chưa nắm vững hết cấu tạo (ngoài việc hiểu là một cụm từ cố định).
+ Chưa nhận ra được thành ngữ có nguồn gốc ở địa phương Thanh Hóa.
+ Chưa phân biệt rạch ròi giữa thành ngữ và tục ngữ.
+ Chưa phân loại được thành ngữ trên cơ sở cấu tạo.
- Thứ hai: Tài liệu về thành ngữ địa phương Thanh Hóa độc lập chưa có
nên khó cho học sinh tham khảo
- Thứ ba: Trong thực tế thành ngữ được vận dụng rất nhiều trong đời sống,
cũng như giới học sinh. Đặc biệt là khi cuốn thành ngữ bằng tranh của nhà báo
Thanh Phong ra đời đã được học sinh mến mộ, đón đọc.
Cụ thể, tôi đã khảo sát trước khi dạy lớp 48 ở lớp 7C:
BẢNG KHẢO SÁT TRƯỚC KHI DẠY TIẾT 48 (LỚP 7C) TRONG

VIỆC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ ĐỊA PHƯƠNG THANH HÓA
Sĩ số
42

Giỏi

Khá

Trung Bình

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

10

23,8

15

35,7

17


Yếu

% Số lượng
40,
0
5

%
0

13


2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
- Trên thực tế giảng dạy, bản thân cũng đã sưu tầm, lồng ghép những câu
thành ngữ địa phương khi giảng dạy tiết 48, chương trình ngữ văn lớp 7.
- Mặt khác, khi dạy phần tục ngữ bản thân đã liên hệ để so sánh giúp học
sinh nhận biết sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
-Sáng kiến kinh nghiệm này sẽ là tài liệu hỗ trợ giáo viên giảng dạy văn
học dân gian (nhất là chương trình địa phương Thanh Hóa).
-Với bản thân: Qua quá trình nghiên cứu bản thân đã có thêm vốn kiến
thức để giảng dạy.
-Với đồng nghiệp và nhà trường: Sáng kiến kinh nghiệm này là tài liệu để
chị em sinh hoạt tổ nhóm và là nội dung của các sân chơi chuyên môn, đặc biệt
hỗ trợ cho các sân chơi văn học dân gian.
BẢNG KHẢO SÁT SAU KHI DẠY TIẾT 48 (LỚP 7C) TRONG VIỆC VẬN
DỤNG THÀNH NGỮ ĐỊA PHƯƠNG THANH HÓA

Sĩ số
42

Giỏi
Số lượng
15

Khá
%
35,7

Trung Bình

Yếu

Số lượng
%
Số lượng % Số lượng %
22
52,3%
5
11,9
0
0

Kết luận: Sau khi thực hiện tiết dạy thử nghiệm ở lớp 7C với phương pháp tích
hợp và mở rộng liên hệ với thành ngữ địa phương Thanh Hóa, tôi đã thu được
kết quả trên. Số lượng học sinh Khá-Giỏi (trong việc vận dụng thành ngữ địa
phương) tăng lên rõ rệt. Dưới đây là một trong những bài tập vận dụng.
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 5 đến 7 dòng (chủ đề: tự do) có vận

dụng thành ngữ hoặc thành ngữ địa phương Thanh Hóa.
Học sinh có thể viết theo vốn kiến thức của các em. Giáo viên chiếu đoạn văn
mẫu:
“Hằng năm, cứ vào dịp ra xuân là làng mở hội. Ai nấy áo thắm quần hồng, tưng
bừng đi trẩy hội. Có lẽ, ở cái làng này, chỉ có lão vẫn phải làm việc hùng hục
như tru húc bờ. Cũng chỉ vì lão mong muốn con mình được bằng bạn bằng bè
nên cả đời lão chân lấm tay bùn.”

14


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Khảo sát, thống kê thành ngữ địa phương Thanh Hóa từ nguồn điều tra
điền dã trực tiếp và từ thơ ca dân gian Thanh Hóa, phân tích đặc điểm cấu tạo,
ngữ nghĩa của thành ngữ Thanh Hóa, tôi rút ra một số điểm sau:
+Cũng như thành ngữ Tiếng việt nói chung, thành ngữ Thanh Hóa là đơn
vị ngôn ngữ đặc biệt, khi nó tồn tại với tư cách là một đơn vị trong hệ thống
cũng như khi đi vào hoạt động hành chức, thành ngữ Thanh Hóa đều có cấu trúc
đa dạng và ngữ nghĩa phong phú.
+Thành ngữ Thanh Hóa vừa mang những đặc điểm chung của thành ngữ
dân tộc, vừa có những nét riêng thể hiện sắc thái địa phương của vùng đất này.
Dựa trên phương thức cấu tạo, thành ngữ Thanh Hóa được chia làm hai loại:
thành ngữ cấu tạo theo kiểu so sánh, thành ngữ cấu tạo theo kiểu ẩn dụ hóa,
trong đó gồm: thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng và thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối
xứng. Ở mỗi loại lại có các kiểu mô hình cấu trúc riêng tạo nên tính phong phú,
đa dạng về mặt cấu tạo của thành ngữ Thanh Hóa. Các kiểu kết cấu này có
những đặc trưng riêng làm nổi bật đặc điểm cấu tạo chung của thành ngữ địa
phương Thanh Hóa, giúp ta phân biệt chúng với thành ngữ của nhiều địa phương
khác.

+Nghĩa biểu trưng được xem là “thuộc tính bản chất”của thành ngữ nói
chung và đó cũng là đặc điểm cơ bản về ngữ nghĩa của các kiểu loại thành ngữ
Thanh Hóa nói riêng. Trong thành ngữ địa phương Thanh Hóa, giá trị biểu trưng
của thành ngữ được thể hiện qua các hình ảnh biểu trưng mang đậm sắc thái địa
phương, thể hiện cách tri nhận cụ thể, tỉ mỉ người dân Thanh Hóa.
+Tìm hiểu, phân tích đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và sử dụng của thành
ngữ địa phương Thanh Hóa, tôi thấy, thành ngữ địa phương Thanh Hóa có vai trò
quan trọng trong giao tiếp và trong sáng tác văn chương. Trước hết, thành ngữ là
một thành tố văn hóa, một địa chỉ văn hóa. Thông qua thành ngữ Thanh Hóa, có
thể hiểu rõ hơn về đời sống tinh thần, vật chất của con người Thanh Hóa. Mặt
khác, thành ngữ Thanh Hóa đã góp phần làm giàu đẹp hơn kho thành ngữ của
dân tộc và là minh chứng cho thấy sự phong phú, đa dạng của thành ngữ dân tộc
về mặt biểu hiện.
+Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt. Nghiên cứu về thành ngữ là
mộ trong những hướng đi quan trọng góp phần vào việc nghiên cứu ngôn ngữvăn hóa của người Việt. Sáng kiến kinh nghiệm này là bước đầu của hướng
nghiên cứu đó và là cơ sở để tôi nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt trong những
công trình sau.
3.2. Kiến nghị
Trên đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi trong phạm vi của một
sáng kiến kinh nghiệm. Trong quá trình nghiên cứu và xây dựng sáng kiến kinh
nghiệm này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi kính mong hội đồng
thẩm định và bạn bè đồng nghiệp góp ý, xây dựng để sáng kiến kinh nghiệm này
được vận dụng và thực tiễn hiệu quả nhất.
15


Mặt khác, tôi kiến nghị các ban ngành của Sở giáo dục và đào tạo Thanh
Hóa bổ sung thêm phần thành ngữ Thanh Hóa khi xây dựng phần chương trình
địa phương cho chương trình Ngữ Văn 7 để góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa
quê hương.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 2 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hoa

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Nhã Bản (2003), Cuộc sống thành ngữ, tục ngữ trong kho
tàng ca dao người Việt, Nxb Nghệ An.
2.
Nguyễn Đức Dân (1996), “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ, sự vận
dụng”, Ngôn ngữ, số 3.
3.
Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1993), Từ điển thành
ngữ , tục ngữ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4.
Nguyễn Thiện Giáp (1995), Từ và nhận diện từ Tiếng Việt, Nxb
KHXH.
5.
Nguyễn Thiện Giáp (1975), “Về khái niệm thành ngữ Tiếng việt”,
“Ngôn ngữ, số 3. Tr45-52”

6.
Hoàng Văn Hành (2002), Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb
KHXH, Hà Nội.
7.
Nguyễn Lân (2005), Từ điênt thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.

17


PHỤ LỤC
I. THỐNG KÊ BƯỚC ĐẦU THÀNH NGỮ ĐỊA PHƯƠNG THANH HÓA
DỰA TRÊN CÁC TÀI LIỆU
Quyển 1: Hoàng Khôi – Lê Huy Trâm, Lê Đức Hạnh (1983), Tục ngữ, dân ca,
ca dao, vè Thanh Hóa (Miền xuôi trước cách mạng tháng Tám), Nx. Thanh Hóa
Quyển 2: Hoàng Khôi, Lê Huy Trâm (1983), Ca dao Thanh Hóa 1945-1975 3,
Nx. Thanh Hóa
Quyển 3: Nhóm Lam Sơn (1965), Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa, Nx. Thanh Hóa
Quyển 4: Cao Sơn Hải (2007), Tục ngữ Mường Thanh Hóa, Nx. Thanh Hóa
THÀNH NGỮ SO SÁNH
(Thống kê từ tài liệu)

STT CÂU THÀNH NGỮ ĐƯỢC TRÍCH
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24

Ác như lính lệ
Ác ôn như mồ ma làng Vống
Ăn bẩn như muông
Ăn cay như chào mào
Ăn cơm không rau như nhà giàu không con
Ăn như thầy kiện
Anh em chung ngoại như vại nước gạo
Bạc như vui
Bất nhân như lính
Bầy hầy như cầy lội mương
Bé như chim chích
Bì bì như đấm bị bông

Bứng chừng như hoa
Bùi như quả tràm
Bùng nhùng như mèo trong túi
Cá Tổng Vân Tràng, không bằng làng Vân
Trinh
Cay như gờng
Cay như hạt tiêu
Chi khác hoa rầu
Chỏng chơ như lờ trên cạn
Chỏng chơ như ma xóa
Chểnh mảng như bềnh
Chểnh mảng như nồi canh rau
Chua như quả mận, quả mai

TÊN
TÀI LIỆU
Quyển 4
4
1
1
4
4
4
3
4
4
1
4
3
1

4
1

TRANG

3
1
1
4
4
3
3
1

75
146
73
108
90
121
75
145

36
36
148
147
44
42
216

130
200
150
147
48
163
145
146
17

18


25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41

42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66

Co ro như cò phải mưa
Co ro như con chuột ống
Còm nhòm như quà con buôn
Cồm nhồm như tôm vào đó

Của mình như vàng, của làng như cứt
Cực như chó cào lòng cối
Đắng như ngậm bồ hòn
Đắng như bồ kết, bồ hòn
Dật dờ như cọp vào làng
Dật dờ như người mất bè
Đẻ trứng như chim tu hú
Đen như gốc cây cháy trên nương
Đen như quạ, xác rã như ve
Đen tựa nồi
Đi đêm như vạc
Đi như ma về lại
Đẹp ngang tiên
Đó đơm ngoài đồng như ông giữa làng
Đỏ như lòng quả vả
Đỏ như quả ni, quả nâu
Đỏ như tôm luộc
Đọc như chính chòe
Dong nhan như chim trả
Ở tệ như bò
Gái có chồng như sông có Sấu
Gái có con như bậu ở bờ
Gái không con như bậu ở bờ
Gái lớn trong nhà lo như cha chết
Gầm ghè như dì ghẻ con chồng
Ghét (yêu) con lè nhè như ăn me uống nước
Giần giật như bó đuốc nứa
Hát rề rề như bò đái đường
Hớn hở như mèo tha tôm
Hồng như quả gấc

Hùng hục như lợn chạy cọp sớm mai
Khắc khoải như cuốc kêu mùa hè
Khổ như đứa giữ trâu
Láng đến nhà như cha sống lại
Láng đến nhà như ma đến cửa
Lẳng lặng như chó cắn gậy
Lắt lay như ăn mày luộc ốc
Loác choác như gà đẻ bậy

4
4
4
4
4
4
1
3
1
4
4
4
4
1
1
4
3
4
1
1
4

1
1
2
4
4
4
4
4
4
4
4
4
4
1
1
4
4
4
4
4

104
104
62
52
76
108
127
125
145

94
150
210
100
68
147
102
40
182
146
145
60
147
147
41
56
56
56
60
142
134
108
94
31
146
136
147
112
140
140

170
148
106
19


67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79

Lôm lam như rau màn chua muối
Lỏng chòng như chổng cồ
Lừ đừ như chó vào nhà đất
Luấn quấn như mạ đập chân
Lượn như diều hâu
Lựa vào làng như lang vào nhà
Mềm như quả thị chín
Mò như ngốc xúc cá
Nâng chừng như trứng
Nặng nhưu đồng

Nghênh ngang như lang đọa Văng Mòn
Ngơ ngác như con cu lốc bắn trượt
Ngồi trơ trơ như lờ trên cạn

4
4
4
4
1
4
1
1
3
1
4
4
4

104
90
146
146
147
145
147
163
123
80
172
172

145

20


THÀNH NGỮ ẨN DỤ HÓA ĐỐI XỨNG
(Thống kê từ tài liệu)
STT CÂU THÀNH NGỮ ĐƯỢC TRÍCH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22

23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35

Áo thắm quần hồng
Ăn bóng, uống hơi
Ăn môn, ngứa miệng
Ăn một bát cơm, đổi đôi bát máu
Ăn no, bỏ thừa
Ăn no, ở khó
Ăn quán, nằm cầu
Ăn rốn, ỉa vãi
Ăn thật làm dối
Ăn thừa, nói thiếu
Áo ngắn, quần dài
Ba quán, bốn cầu
Bai mường Mọ, lúa mường Đòn
Bán cửa, bán nhà
Bán túi, bán khăn
Bàng cong úp nồi mèo, gái khéo lấy chồng

khôn
Bắt cua, mò ốc
Bắt người, cướp của
Bên ngãi, bên gừng
Biển rộng, rừng xanh
Bướm lượn hoa cười
Bố bế, mẹ mang
Bỏ cửa, bỏ nhà
Bố đe, mẹ dạy
Bố độc, con đàn
Bớt giận, làm lành
Bút mực đèn sách
Bữa thính, bữa hồ
Buôn trăm, bán nghìn
Buống chén, khoen đũa
Bút nghiên, đèn sách
Cây cao lá dài
Cạn khe sạt đèo
Cá dưới áo, sao trên trời
Cà làng Hạc, Khoai làng Lăng

TÊN
TÀI LIỆU
Quyển 3
4
4
1
4
4
1

4
1
4
1
1
4
1
1
4

TRANG

1
1
4
1
1
2
4
4
1
3
1
1
4
1
3
2
4
1

1

103
120
48
75
49
50
100
50
77
30
153
128
96
94
125
41
56
15
113

73
38
42
114
44
44
113
38

113
44
117
67
46
153
153
46

21


36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49

Cánh sông, trở hón
Càng dạy, càng trơ
Càng nhìn, càng say

Canh ngày, cnah đêm
Cau già dao sắc
Chân bùn tay lấm
Chân ngựa chân voi
Cha đánh, mẹ hò
Cha già, mẹ yếu
Chăn đơn, gối chiếc
Chân lấm, tay bùn
Chày tre, cối đất
Chia cửa, chia nhà
Chia tháng, chia đêm

4
1
1
3
3
3
3
1
1
1
1
1
3
1

58
95
153

81
90
63
63
52
83
76
128
91
30
116

22


THÀNH NGỮ ẨN DỤ HÓA BẤT ĐỐI XỨNG
(Thống kê từ tài liệu)
STT CÂU THÀNH NGỮ ĐƯỢC TRÍCH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34

Ăn ở bằng gang
Ấm như buồng tằm
Ăn cá đỏ váy cho lươn
Ăn đầu chồ, cuối chạn
Ăn mày còn đòi gạo nếp
Ăn mòn bát, vạt đũa
Ăn nhường miếng, nói nhường lời, đến trời

cũng nể
Ăn ở phải điều
Ăn rồi lại nằm
Áo ngắn xổ chẳng nên dài
Bắt chạch giữa đồng nước
Bắt chạch đang chạy
Bắt óc nước lớn
Ba voi không đọi nước canh
Bán mình chuộc cha
Bánh đúc bẻ ba, tôm canh quẹt ngược
Bắt cá hai tay
Bát cơm trộn bát mồ hôi
Bầu già vứt ở bờ ao(vô dụng, không có giá
trị)
Bảy vía còn ba
Bướm lượn cành hồng
Bướm ong xum họp
Bò chết được ngày khế rụng
Bò chướng gặp lá sung
Bỏ đám mây xanh
Bò già cặp bồ muối
Bò hà gặp củ muống
Bố mẹ sống áo ngoài da
Bố mẹ sống là đất, mất là vàng
Bốc niêu cơm nguội
Bướm đậu vườn hoa
Buồn chằng dám than
Cá ham mồi
Cá trở đầu đuôi


TÊN
TÀI LIỆU
Quyển 3
1
4
4
4
4
4

TRANG

1
1
3
3
3
3
4
1
1
1
1
1

84
42
44
84
114

194
82
82
68
30
116
27

1
3
3
4
1
1
4
1
4
4
1
1
1
3
3

164
107
134
50
26
85

48
26
52
50
112
66
67
122
123

155
121
44
42
38
42
44

23


35
36
37
38
39
40
41
42
43

44
45
46
47
48
49

Cá vọt qua đăng
Cây cả bóng dài
Cắp nách mọi viên
Cạy lái trong thuyền
Cá làng Song, muông thú đồi Muốn
Cá lên khỏi nước
Cá mường Ròng, muông thú mường Én
Cánh trở đôi đường
Cầm đuôi tê tê, trở về ăn cơm muối
Cầm khăn nhớ túi
Cầm lược nhớ gương
Càng chọn càng được quả cau điếc
Càng gần càng vần đi xa
Càng kén càng được quả cau lọn
Cõng rắn về nhà

3
3
3
2
4
2
2

4
1
4
1
1
4
4
4

129
97
74
88
56
50
56
80
58
124
124
58
58
58
57

24


×