Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 thông qua môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.96 KB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu của giáo dục việt nam là đào tạo ra con người Việt Nam phát
triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. (Luật giáo dục năm 2005)
Cùng với những bước tiến tích cực về mọi mặt là những tồn tại đầy
nhức nhối mà bất kì một người có nhân cách, lương tâm nào cũng đều phải trăn
trở. Một trong những tình trạng đáng buồn của ngành giáo dục của chúng ta
hiện nay là tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, tham
gia vào các tệ nạn xã hội…xuất hiện ngày một nhiều. Nguyên nhân thì có nhiều
nhưng có lẽ, nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do các em thiếu kỹ năng sống.
Rèn kỹ năng sống cho học sinh giúp cho các em thích ứng được với môi
trường xã hội, tự giải quyết được những vấn đề thiết thực trong cuộc sống cũng
như sức khỏe, tệ nạn xã hội ….để cho các em có thể tự tin chủ động tự bảo vệ
mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, tự học tập, tự rèn luyện để vươn lên trở
thành một công dân có ích cho xã hội.
Rèn kỹ năng sống không phải là vấn đề mới mẻ nhưng giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh một cách hiệu quả cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đặc
biệt là học sinh khối 12 Trung tâm GDNN-GDTX . Đây là lứa tuổi đang ở
ngưỡng cửa của một công dân trưởng thành, độ tuổi không còn là trẻ con
nhưng cũng chưa thành người lớn, mọi suy nghĩ và hành động còn nông nổi,
cảm tính; giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá nhưng còn thiếu
kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, mua chuộc, kích động… Là năm cuối cùng
của cấp trung học, các em phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, phải
chịu nhiều áp lực…Vì vậy, nếu thiếu những kỹ năng sống cơ bản, học sinh lớp
12 dễ mắc những sai lầm nghiêm trọng như thực tế chúng ta đã chứng kiến
không ít trường hợp đau lòng: có học sinh khá - giỏi vì ăn chơi đua đòi nên đã
xa ngã, có học sinh lớp cuối cấp tìm lẽ sống của mình ở trò chơi điện tử…Hơn
nữa, đã là học sinh lớp 12 thì chỉ cần một thời gian ngắn nữa là đa số các em


phải bước vào cuộc sống tự lập, phải tự mình ứng phó với vô vàn những tình
huống khác nhau của cuộc sống phức tạp và ít có sự can thiệp, giúp đỡ của
người thân trong gia đình. Vì thế giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh
lớp 12 là rất cần thiết hơn bao giờ hết.
Môn ngữ văn trong nhà trường THPT là môn học có nhiều ưu thế trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và cho học sinh lớp 12 nói riêng.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay vẫn còn có nhiều em thiếu tự tin,
thiếu tự lập, sống ích kỉ, luôn tỏ ra rụt rè trong giao tiếp hoặc không biết cách
- - 1


xử lí tình huống khi gặp phải khó khăn, thậm chí có cả nạn bạo lực học đường
thường xảy ra. Đây cũng là nỗi băn khoăn, lo lắng của các bậc phụ huynh trước
tình trạng đó của con em mình. Về giáo viên, vẫn có một số giáo viên coi giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh là thuộc các môn: GDCD, môn Lịch sử, môn
Địa lí…hay một số công tác khác như: công tác Đoàn , công tác chủ nhiệm…
mà chưa thấy hết vai trò, vị trí của môn Ngữ văn trong việc giáo dục kỹ năng
sống cho các em. Trong giờ học, giáo viên còn nặng về nâng cao kiến thức, rèn
luyện các kỹ năng phân tích,cảm thụ chứ chưa chú trọng đến giáo dục kỹ năng
sống. Vì thế chưa phát huy hết vai trò, khả năng giáo dục kỹ năng sống của
môn Ngữ văn.
Là một giáo viên trực tiếp dạy môn Ngữ văn, tôi thấy việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh thông qua môn Ngữ văn thực sự là một vấn đề quan
trọng và cần thiết, cần phải có một số biện pháp để phát huy vai trò, chức năng
của môn Ngữ văn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Vì thế, tôi tập
trung vào vấn đề: “Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp
12 thông qua môn ngữ văn”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này tôi đưa ra một vài kinh nghiệm của bản thân đã
làm để rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 trung tâm TTGDNNGDTX với mục đích trang bị cho các những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế

để trải nghiệm trong đời sống.
Nhằm trang bị cho các em những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng
phù hợp, hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực;
loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, trong các tình
huống và hoạt động hàng ngày, đồng thời tạo cơ hội thuận lợi để các em thực
hiện tốt quyền và bổn phận của mình
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 12A, 12B trường TTGDNN - GDTX Cẩm Thủy.
- Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường TTGDNN - GDTX Cẩm
Thủy Thông qua môn Ngữ văn với một số truyện ngắn lớp 12.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc nghiên cứu tài liệu, tổng hợp để hoàn thành đơn vị kiến thức.
+ Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng Ngữ văn 12 tập II.
+ Tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp kiểm tra.
- So sánh đối chiếu kết quả.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
- - 2


2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
1. Định nghĩa chung về kỹ năng sống:
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống,
nhưng nhìn chung các quan niệm đều thống nhất ở chỗ thấy được bản chất của
kỹ năng sống là kỹ năng tự quản lí bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác,
kĩỹnăng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử
phù hợp với người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống.
Ở nước ta, kỹ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:

- Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kỹ
năng sống cụ thể như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ
trợ, tự tin….
- Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp,
thương lượng, bày tỏ cảm thông, hợp tác….
- Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm
và xử lí thông tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…
Cũng cần phải nói thêm rằng kỹ năng sống của con người không phải tự
nhiên mà có được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn
luyện lâu dài trong cuộc sống.
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 12.
Ngày nay, những ai quan tâm đến giáo dục đều hiểu rằng: giáo dục thế hệ
trẻ không chỉ chú trọng dạy chữ mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ dạy người
con người không chỉ cần có tri thức mà phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có
ích. Muốn như thế con người nhất thiết phải có kỹ năng sống. Vì người có kỹ
năng sống mới luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải
quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách tích cực và phù hợp; luôn lạc
quan, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh. Có thể nói: kỹ năng sống là
“chiếc chìa khóa vạn năng” giúp con người từng bước khẳng định bản ngã của
chính mình. Hơn thế, người có kỹ năng sống luôn có hành vi tích cực để góp
phần xây dựng và làm giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho cuộc sống tươi sáng
và văn minh hơn.
Tuổi trẻ nói chung, đối tượng học sinh lớp 12 TTGDNN –GDTX nói
riêng là những chủ nhân tương lai của đất nước, là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước trong những năm tới. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em không
thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.
Do đó đất nước khó có thể phát triển theo chiều hướng tích cực như mong
muốn.
- - 3



Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta hiện
nay, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước.Vì vậy
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 khối TTGDTX là rất cần
thiết.
3. Đặc trưng của bộ môn ngữ văn lớp 12 và những ưu thế của nó trong
việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học với tư cách là môn khoa học xã
hội và nhân văn, nó không chỉ giúp học sinh hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch
sử, con người mà còn giúp mỗi người tự hiểu hơn về chính mình; với tính chất
là môn học công cụ, nó giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để tư duy, để học
tập, để giao tiếp, để nhận thức; với đặc trưng là môn học về giáo dục thẩm mĩ,
nó bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị
hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Chương trình ngữ văn lớp 12 là phần văn học hiện đại xen kẽ với các bài
học về tiếng Việt và làm văn, phù hợp với ngôn ngữ cũng như kiểu tư duy, tình
cảm hiện đại, rất thiết thực cho việc giáo dục những kiến thức và các kỹ năng
sống của con người hiện đại.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
1. Thực trạng chung:
Tất cả những ai có trách nhiệm với tương lai đất nước, với thế hệ trẻ đều
nhận thấy rằng: giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi học sinh đặc biệt là học
sinh cuối cấp khối GDTX là vô cùng cấp thiết.
Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2005 đã xác định lại mục tiêu của giáo dục
Việt Nam: chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành

và phát triển những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển
CNH-HĐH đất nước. Thể hiện mục tiêu của giáo dục thế kỉ XXI: học để biết,
học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống. Chủ trương
chung của Bộ giáo dục là từ năm học 2009-2010 đưa vấn đề giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh vào tích hợp trong tất cả các môn học từ cấp mầm non cho
đến lớp 12.
Nhưng có lẽ đây là lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ và với nhiều
nguyên nhân khác nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện kỹ năng sống vẫn còn
nhiều điều bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất
đồng bộ trong hệ thống giáo dục phổ thông của cả nước.
- - 4


2. Đối với giáo viên:
Anh chị em giáo viên Trung tâm và cả một số Trung tâm khác, khi được
hỏi tới vấn đề: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thế nào để đạt hiệu quả? Đa
số chỉ cười lảng tránh hoặc thú thật: “đối phó thôi, thời gian đâu mà tích hợp”.
Có người chân thành và cởi mở hơn thì tâm sự: chủ trương chung là phải tích
hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh nhưng thực tế chẳng có gì là cụ thể,
thậm chí làm cho giờ học phức tạp và rối rắm hơn. Bản thân tôi, khi mới tiếp
cận với vấn đề cũng có những cảm nhận như thế. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện
nay, học sinh chẳng mấy thiết tha với môn văn nên việc “tích hợp” càng khó
khăn hơn. Một điều đáng nói nữa là đa số phụ huynh, học sinh lớp 12, ngay cả
phần lớn giáo viên dạy khối học này cũng đều xác định mục tiêu quan trọng
nhất của việc học cho lớp 12 là “học để thi Tốt nghiệp” chứ không phải là “học
để làm người”. Xác định mục tiêu như thế nên kiến thức phải luôn đặt ở thế
“thượng phong”, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh 12 chỉ mang tính
chất “tự phát” và “tùy hứng” chứ không mang tính chiến lược nên hiệu quả
chưa cao.
3. Đối với học sinh:

Đất nước ngày càng phát triển thì các phương tiện thông tin đại chúng
càng phong phú,nhất là các trò chơi điện tử luôn đáp ứng đúng thị hiếu của hoc
sinh .Vì vậy lơ là, ham chơi nhất là bỏ học đi chơi game…
Trong một lớp học sinh không đồng đều có em chú ý nghe thầy cô giảng
bài,có nhiều em lại không chú ý dẫn đến chán nản , buông xuôi việc học thậm
chí bỏ đi chơi. Bên cạnh đó có những học sinh chỉ thụ động nghe ghi chép
những gì giáo viên nói mà không tham gia vào việc tìm hiểu bài giảng …Nhất
là đối với học sinh Trung Tâm Giáo dục nghề nghiệp giáo dục Thường xuyên
Cẩm Thủy ,chất lượng đầu vào không cao phần lớn các em không đậu vào các
trường phổ thông nên mới nạp đơn xin vào Trung tâm để học
Hàng tháng, trung tâm chúng tôi đều phải tổ chức những buổi họp kỉ luật
để xử lí những vụ đánh nhau mà đôi khi vì những lí do chẳng đâu vào đâu, các
em cũng “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau để lại hậu quả nghiêm trọng
đối với từng cá nhân học sinh, với gia đình, với nhà trường, với cả xã hội. Học
sinh lớp 12 mà chỉ cần một ánh mắt, một câu nói đùa của bạn đã có thể gây ra
một vụ ẩu đả ra trò. Đó chẳng phải do các em thiếu kỹ năng làm chủ cảm cảm
xúc, kĩ năng ra quyết định phù hợp đó sao? Mỗi ngày, các giáo viên chủ nhiệm
đều phải xử lí tại lớp mình bao nhiêu trường hợp nghỉ học để đi chơi game, bao
nhiêu trường hợp vô lễ với thầy cô giáo…Xử lí nhiều, kỉ luật nhiều, thậm chí
có những trường hợp kỉ luật nặng (đuổi học) nhưng tình hình vẫn không thay
đổi được là bao. Trong trường có biết bao nhiêu em rơi vào tình trạng “ăn
không nên đọi, nói không nên lời”, khi được thầy cô giáo chỉ định trả lời một
câu hỏi thì ấp úng, lúng túng, không thể diễn đạt nổi… Vấn đề cốt lõi của cái
- - 5


gốc thực trạng đau lòng ấy chính là do các em thiếu những kĩ năng sống quan
trọng: kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng ra quyết định, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ…Thiết nghĩ, không thể khắc
phục được thực trạng đáng buồn ấy bằng kiểu “học ” như bây giờ mà phải chú

tâm thỏa đáng đến việc rèn luyện cho các em những kỹ năng sống để “làm
Người” .Đây cũng là lý do để tôi chọn đề tài này. Trong pham vi của sáng kiến
kinh nghiệm , chúng tôi mạnh dạn đưa ra ý tưởng của mình để các đồng nghiệp
tham khảo và ứng dụng trong việc giảng dạy của mình để đạt kết quả cao nhất.
2.3. Một số giải pháp cụ thể .
1. Tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống:
1.1. Những tình huống có tính chất ứng dụng:
Thực tế, kỹ năng sống không thể chỉ được giới thiệu và giảng giải bằng lí
thuyết. Bởi “lí thuyết suông” có thể tạo ra sự nhàm chán , khiến các em mất
niềm tin vào lời thầy cô giảng. Hơn nữa, chỉ lí thuyết không chắc hẳn các em sẽ
rất chóng quên.
Ưu thế nổi bật nhất của việc tạo ra được những tình huống có ý nghĩa
vận dụng trong quá trình dạy học văn:
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học, để văn học gắn với đời sống chứ
không phải là thế giới chỉ có trong sách vở.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong
quá trình học.
- Đặc biệt là sẽ rèn luyện, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông.
- Ngoài ra, giáo viên, trong vai trò của người dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu được
rất nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía học sinh
để làm phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu.
1.2. Cách thức thực hiện:
Vì vậy, trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình huống có vấn
đề mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải
quyết. Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân sau
đó được thảo luận để đi đến một cách giải quyết tốt nhất và có hiệu quả nhất.
Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống
HIV/ AIDS” của Cô-phi-a-Nan (SGK ngữ văn 12 TậpI NXB Giáo dục) [1]
Cô sẽ đặt ra tình huống: Nếu em có một người bạn thân bị nhiễm HIV/ AIDS,

em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
(lưu ý: hãy trả lời bằng chính suy nghĩ thật và tình cảm thật của mình)
- - 6


(Hình ảnh học sinh tham gia tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS)

Sau khi đưa ra tình huống, Cô tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề
trên một tờ phiếu học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng
mình. Cô chọn một số ý kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ
định bất kì), gọi một học sinh khác đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng
nghe, cùng thảo luận, để thống nhất cách giải quyết tốt nhất. Với tình huống
trên, học sinh có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau, chẳng hạn:
- Các em sẽ tìm cách trốn tránh, xa lánh, không chơi với bạn nữa vì sợ bị
lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách
nhất định khi tiếp xúc với bạn ấy.
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có
thể để bạn không rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là
lúc bạn cần mình nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất.
Sau khi cho các em thảo luận, Cô định hướng chung để thống nhất cách
giải quyết: Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm nhưng
tất nhiên phải cẩn thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kĩ để có kiến
thức thật vững vàng về căn bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến tâm
lí, tình cảm của người bạn để chăm sóc bạn hiệu quả nhất và an toàn nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài (SGK ngữ văn
12 Tập II-NXB Giáo dục) [2]
Chi tiết: A Phủ đánh A Sử trong lễ hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế
mà phá đám cuộc chơi. Cô sẽ đặt ra tình huống vận dụng: Giả sử, bạn là A
Phủ, trong hoàn cảnh trên bạn sẽ xử sự thế nào? Học sinh cũng sẽ có nhiều

cách xử trí khác nhau như:
- - 7


(Hình ảnh tượng trưng A phủ và A Sử trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)

- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy
thế làm càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương
không nên phá rối như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa
thuận giữa hai bên để cuộc vui vẫn được tiếp diễn, không có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy
quyền thế như A Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng
lại không chịu tội một mình như A Phủ.
Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ
phá đám của “kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện
với nhau, tìm điểm yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối
phương phải suy nghĩ lại. Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của
đối phương để sự tự phụ của hắn được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không
xảy ra.
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này
thường tạo cho học sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là
người trong cuộc, cần phải thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những
tình huống đó, học sinh dần dần hình thành kĩ năng giải quyết các vấn đề và
điều chỉnh hành vi theo hướng hợp lí.
- - 8


2. Những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học:

2.1. Tầm quan trọng của hoạt động đối thoại trong dạy học và rèn
luyện kĩ năng sống :
Hoạt động đối thoại có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn
luyện kĩ năng cho học sinh nhất là học sinh lớp 12: hoạt động đối thoại có tác
dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn trong quá trình học tập, tự
đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình thảo luận. Qua
hoạt động đối thoại,học sinh rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập
thể, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo
của các em.
Giáo viên tổ chức cho học sinh đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện
phát triển năng lực cá nhân cho mỗi học sinh mà còn phát huy vai trò hỗ trợ
của tập thể trong học tập khiến cho những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn
nhận đa dạng, phong phú, toàn diện hơn. Hơn nữa, Khi học sinh được tự do
phát biểu một cách độc lập, sáng tạo theo cảm nhận cá nhân, giáo viên sẽ có cơ
sở và điều kiện để phát huy vai trò chủ thể học sinh trong giờ học, lớp học trở
nên sinh động, và việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, sâu sắc
hơn. Giáo viên đối thoại với học sinh và ngược lại.
Trong các trung tâm hiện nay học sinh không chịu xây dựng, phát biểu
bài trở nên ngày càng nhiều . Việc ngại hỏi, ngại nói, ngại tranh luận trong lứa
tuổi học sinh, nhất là học sinh GDTX đã và đang để lại những hậu quả bất lợi
cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học, trong đó người chịu thiệt thòi nhiều
nhất chính là các em; đã khá nhiều lần chúng tôi và các đồng nghiệp trao đổi,
bàn tán về việc chán nản trước hiện tượng lớp học này, lớp học kia lười phát
biểu, xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi
trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im
thin thít như tượng gỗ, và thầy cô rơi vào hoàn cảnh: “miệng liền tai, nói lấy,
nghe lấy rồi tự trả lời lấy” những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế
cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với công việc của
mình.
Bên cạnh đó, việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh

tâm lí thụ động, chờ đợi, co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ
kiến thức của bài học, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính
tư duy sáng tạo của người học, vì vậy trí nhớ giảm sút, học lực giảm, không
phát huy được ưu điểm cũng như không khắc phụ được nhược điểm của mình;
đồng thời việc rèn luyện kỹ năng, khả năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử của các
em với cộng đồng sẽ gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm cho giáo dục đào tạo ra
một lớp người lạc hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không giám khẳng định
mình, co mình như con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê phán ,
- - 9


chống lại cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình với các
thói hư tật xấu là điều khó tránh khỏi.
2.2.Cách thức thực hiện:
Chính vì những lí do như vậy nên trong quá trình dạy học văn, tôi đã cố
gắng để tạo ra những hoạt động đối thoại đa dạng. Ví dụ: Khi dạy tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu)(SGK ngữ văn 12 Tập II-NXB
Giáo dục) [3]
Giáo viên tạo ra các hoạt động đối thoại sau:
- Đối thoại giữa giáo viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi
mở như:
Câu1: Cảm nhận của người nghệ sĩ về vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa
trên biển sớm mờ sương ? Vì sao người nghệ sỹ lại nghĩ đến sự đúc kết “bản
thân cái đẹp chính là đạo đức”?
Câu 2: Ngay khi đang tận hưởng cái khoảng khắc kì diệu mà tạo hóa
ban tặng, người nghệ sỹ đã phát hiện ra điều gì? Thái độ của anh trước phát
hiện ấy như thế nào ? Vì sao anh lại có thái độ như vậy?
Câu 3: Qua 2 phát hiện của người nghệ sỹ, nhà văn muốn người đọc
nhận thức được điều gì về cuộc đời?
Câu 4: Giả sử nếu thay đổi vị trí của 2 phát hiện ấy (cảnh bạo lực của

gia đình hàng chài thấy trước; cảnh đẹp của chiếc thuyền trên biển mờ sương
thấy sau), giá trị của tác phẩm có gì thay đổi không ?...
- Giáo viên có thể cho học sinh đối thoại với học sinh : Yêu cầu một em
học sinh tự đặt ra câu hỏi, một em khác trả lời.
Chẳng hạn: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạo lực của một gia đình nào đó
như gia đình hàng chài trong truyện, bạn sẽ làm thế nào? Liên hệ tới gia đình
của em .Chắc rằng sẽ có nhiều em có nhiều cách trả lời khác nhau và cô sẽ là
người chọn ra những câu trả lời tối ưu và hợp lý nhất cho các em ứng dụng .
- Đối thoại giữa học sinh với giáo viên: Cho phép học sinh đặt ra những
câu hỏi, những tình huống đối với giáo viên, giáo viên sẽ chia sẻ suy nghĩ và
kinh nghiệm của mình với học sinh một cách dân chủ, cởi mở.

- - 10


Hình ảnh: Đối thoại giữa giáo viên với học sinh

Ví dụ: có em học sinh hỏi: Nếu cô là người đàn bà hàng chài, trong
hoàn cảnh nghèo khổ và bị hành hạ như thế cô sẽ làm thế nào? Tôi sẽ nói với
các em rằng: nếu rơi vào hoàn cảnh như vậy, tôi sẽ suy nghĩ vì sao mình lại
nghèo, vì sao chồng mình lại có những hành vi như thế? trước hết phải tìm cách
để thoát nghèo; sau đó sẽ dùng lời lẽ, lập luận để chỉ ra cái sai trái trong hành
động của người chồng. Nếu bản chất của người chồng là tốt đẹp thì không có lí
do gì mà cảnh tượng ấy lại tái diễn
Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, cô xác định những vấn đề trọng
tâm, mở ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy sáng
tạo, thúc đẩy học sinh bộc lộ quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra
để học viên tham gia đối thoại vừa không thoát li tác phẩm, vừa phù hợp với
trình độ tiếp nhận của các em, đồng thời đảm bảo cuộc tranh luận không mất
trật tự, và không mất quá nhiều thời gian cho phép. Cần tránh những hình thức

câu hỏi mà khi trả lời, học sinh chỉ dựa vào những quan niệm và kinh nghiệm
đã có hay chỉ trình bày một chiều các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào
đó. Ngoài ra, tôi cũng dự đoán những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp
nhận của học sinh để điều khiển cuộc đối thoại sao cho không rơi vào bế tắc
mà luôn đi theo những con đường hợp lí nhất.
3. Sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả:
3.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhóm
Dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp
dụng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính
tích cực của người học, dạy học hướng về người học
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc
theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống không có ai là
hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của
một nhóm người, từng người trong nhóm sẽ bổ sung, hoàn thiện cho nhau
những điểm yếu, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học
tập. Vì vậy, trong những năm học qua tôi luôn có ý thức tích cực sử dụng
phương pháp dạy học nhóm nhằm phát huy được những điểm mạnh.
- - 11


Qua quá trình dạy học văn trong những năm học vừa qua, tôi thấy: bên
cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức, tăng cường dạy học theo nhóm
giúp học sinh hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt
hơn, cụ thể là:
- Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân
trong việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao; khi học theo nhóm, vai trò
chủ thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của
học sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng
định khả năng của mình nhiều hơn. Đặc biệt, khi học sinh học theo nhóm thì
kết quả học tập thường cao hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, khả năng ghi nhớ

lâu hơn, động cơ bên trong, thời gian dành cho việc học, trình độ lập luận cao
và tư duy phê phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể hiện vai trò tích
cực đối với việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của bạn, thể
hiện sự khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích... rất nhiều những kĩ
năng nhận thức được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi
trường cùng phối hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương
thức tác động qua lại, phát triển sự tự tin vào bản thân như là người học và
trong việc chia sẻ ý tưởng với sự tiếp thu có phê phán (của nhiều người cùng
nghe về một vấn đề). Hay nói cách khác, học sinh trở thành chủ thể đích thực
của họat động học tập của cá nhân.
- Giúp hình thành các kĩ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết
như: kĩ năng tổ chức, quản lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, có
trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự
ủng hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của
sự đa dạng và tính gắn kết. Có những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và
khuyến khích ý thức tự giác, tự kỉ luật; phương tiện rèn luyện và duy trì các
mối quan hệ liên nhân cách.
- Qua đó thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: dạy học
theo nhóm sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định
mình và được phát triển. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp với
nhau và như vậy sẽ giúp cho những học sinh nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có
nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi
trường hoạt động mang bâù không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia
sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. Học sinh có
cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều
được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó
sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những
người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa thầy và trò.

- - 12



Hình ảnh về hoạt động nhóm
3.2. Cách thức thực hiện:
Để có một giờ học trên lớp thành công với phương pháp dạy học nhóm,
tôi thường tiến hành theo 3 bước:
a. Chuẩn bị:
Trước khi diễn ra tiết học có sử dụng hoạt động nhóm trên lớp, hướng dẫn
cho học sinh cách chuẩn bị bài theo một dàn ý bao gồm các nội dung cơ bản
sau:
- Phải đọc kĩ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.
- Các em phải tìm hiểu trước phần tiểu dẫn.
- Phải đọc thật kĩ văn bản trước khi học .
- Phải đọc và tìm hiểu kỹ phần chú giải .
- Phải tự mình trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài .
- Phải soạn bài trước khi đến lớp .
Giáo viên khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh. Cô phải
luôn kiểm tra tính hiệu quả của công việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài
kết hợp với những câu hỏi về bài mới. Bởi vì nếu không chuẩn bị bài tốt,
phương pháp dạy học nhóm không thể thành công.
b. Cô phải chuẩn bị được những nội dung thảo luận quan trọng, phù hợp
để hoạt động nhóm có hiệu quả:
- Giáo viên cho học sinh thảo luận từ nhan đề, bố cục cho đến ngôn từ,
hình ảnh, biểu tượng nghệ thuật mang tính sáng tạo của tác giả.
Ví dụ: Học tác phẩm “Vợ nhặt” - Kim Lân (SGK ngữ văn 12 tập II
NXB-Gáo dục việt nam)[4]
Giáo viên có thể hỏi: Tại sao tác giả lại đặt tên cho tác phẩm là “Vợ
nhặt”? Nhan đề đó có ý nghĩa và có quan hệ như thế nào với nội dung của tác
phẩm? Những từ ngữ tác giả dùng để miêu tả về nạn đói 1945 có gì đặc biệt và
gợi cho em cảm giác gì?

- - 13


- Thảo luận về kết cấu hình tượng của tác phẩm: về các hình tượng nhân
vật chính trong tác phẩm tự sự; hình tượng cái tôi trữ tình trong các tác phẩm
thuộc thể loại trữ tình.
Ví dụ: Cảm nhận về hình tượng “sóng” khi hạy học bài thơ “Sóng” (Xuân
Quỳnh)( SGK ngữ văn 12 tập I NXB giáo dục)[5]
Hình tượng Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)?
(SGK ngữ văn 12 tập II)[6]
- Nội dung thảo luận cho học sinh phải có cảm xúc, có ý nghĩa khái quát,
có ý nghĩa tư tưởng của hình tượng, của tác phẩm. Từ đó các em có thể liên hệ
với bản thân mình và rút ra bài học cho bản thân qua tác phẩm mình đã học và
có sự liên hệ với đời sống. Đây là một yêu cầu khá phức tạp cho nên nó phải
phù hợp với hoạt động thảo luận. Ví dụ học xong bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh)
học sinh có thể thảo luận: Vì sao nhà thơ lại có ước muốn “Làm sao được tan
ra, thành trăm con sóng nhỏ”? Em lí giải như thế nào về ước muốn này của thi
nhân, thái độ sống ấy có phù hợp với những khao khát của tuổi trẻ hiện nay
không? Hoặc khi học đoạn trích “Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm), có thể cho
học sinh thảo luận với câu hỏi: Em nghĩ gì về lời nhắn nhủ của nhà thơ: “Em ơi
em! Đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết
háo thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”? Lời nhắn nhủ ấy
ngày nay có còn tác dụng gì với tuổi trẻ của đất nước không?...
c. Tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp:
- Việc đầu tiên: Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho học sinh tự bầu trưởng
nhóm,giáo viên thông báo quy trình và quy định thảo luận.
- Tiếp theo giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm; giáo viên chỉ
làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến.
- Thảo luận xong: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống
nhất và chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và

bổ sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh
thần, thái độ làm việc của học sinh để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân
của nhóm.
Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp phần rèn
luyện những kĩ năng sống cho học sinh, nhưng cũng cần lưu ý một điều rằng:
sử dụng một phương pháp dạy học không có nghĩa là đề cao và coi đó là
phương pháp độc tôn, bởi lẽ không có phương pháp nào là vạn năng. Hoạt động
nhóm sử dụng trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và trong dạy học Ngữ
văn lớp 12 nói riêng chỉ thực sự phát huy tác dụng khi được phối hợp linh hoạt
với các cách dạy học khác.
4. Dạy học tác phẩm văn học theo phương pháp trò chơi.
4.1. Tầm quan trọng của phương pháp trò chơi
- - 14


Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực
hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi
nào đó.Ví dụ Trò chơi ô chữ hoặc phân vai đóng theo tình tiết của các nhân vật
trong tác phẩm văn học .
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của
thanh thiếu niên học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ
chức cho thanh thiếu niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại
hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các
mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành
vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy
học quan trọng và tích cực
Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh
động; học sinh được lôi cuốn vào quá trình học hỏi một cách tự nhiên, hứng thú
và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời loại bỏ được những mệt mỏi, căng thẳng
trong học tập. Trong quá trình chơi sẽ hình thành năng lực quan sát, được rèn

luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi và khả năng quyết định lựa chọn cho
mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp, từ đó sẽ hình thành được ở các em niềm
tin vào những thái độ, hành vi tích cực sau này. Vì học sinh luôn có nhu cầu thể
hiện mình nên sự cạnh tranh tích cực trong trò chơi còn kích thích sự tiếp thu
nội dung bài học các em. Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa
học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, tính nhút nhát từ đó sẽ được
cải thiện. Vì thế môi trường sư phạm sẽ trở nên hòa đồng, thân thiện hơn.
4.2. Cách thức thực hiện:
Chính vì tự nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của
phương pháp trò chơi trong dạy học nên tôi có ý thức sử dụng phương pháp này
trong quá trình giảng dạy của mình. Nhưng do sự hạn chế của thời gian, của
những đòi hỏi công phu, phức tạp của phương pháp nên tôi mới chọn lọc để áp
dụng vào việc dạy học một số tác phẩm văn học ở lớp 12 như tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ” - Tô Hoài (SGK Ngữ văn 12 Tập II - NXB Giáo dục) [7], “Vợ
nhặt” - Kim Lân (SGK ngữ văn 12 Tập II –NXB Giáo dục) [8], “Hồn Trương Ba,
da hàng thịt” - Lưu Quang Vũ (SGK ngữ văn 12 tập II - NXB Giáo dục) [9] …
nhằm hướng tới mục tiêu chủ yếu là rèn luyện các kĩ năng sống cho học sinh
khối lớp này.

- - 15


Hình ảnh buổi tập đóng vai các nhân vật trong tác phẩm

Để thực hiện phương pháp này trên lớp, tôi chia học sinh theo 4 tổ, giao
nhiệm vụ chuẩn bị cụ thể cho mỗi tổ như sau:
- Tổ 1: Có trách nhiệm tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả; về xuất
xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; đánh giá khái quát về nội dung, nghệ thuật
của tác phẩm (đọc kĩ phần tiểu dẫn, tham khảo một số tài liệu khác, nếu chuẩn
bị được một clip tư liệu về tác giả và tác phẩm là tốt nhất)

- Tổ 2: Có nhiệm vụ dàn dựng một tiểu phẩm dựa vào nội dung chính của
tác phẩm và phân vai diễn theo tình tiết tác phẩm.
- Tổ 3: Có trách nhiệm chuẩn bị trang phục, trang trí và các phương tiện
phục vụ cho tiết mục biểu diễn.
- Tổ 4: Có trách nhiệm soạn thảo các câu hỏi và đáp án để khám phá giá trị
của tác phẩm; chủ trì cho hoạt động hội thảo, tranh luận giữa các ý kiến khác
nhau trên lớp.
Công việc chuẩn bị phải được giao cho học sinh trước, giáo viên cũng
tham gia vào việc tư vấn, điều chỉnh, huấn luyện các em luyện tập cho thật tốt
trước khi tiến hành “chơi”.
Sau thời gian chuẩn bị theo quy định, giáo viên báo trước học sinh thời
gian giờ “học - chơi”. Vào học, các nhóm sẽ “trình diễn” phần của mình một
cách tự giác theo quy định, giáo viên chỉ là người theo dõi, lắng nghe. Tiết học
sẽ được thể hiện theo trình tự sau:
- Mở đầu tiết học, tổ trưởng của tổ 1 sẽ trong vai trò một người dẫn
chương trình, giới thiệu khái quát về tác giả - tác phẩm; trình chiếu lên máy
chiếu đa năng đoạn phim tư liệu về tác giả - tác phẩm.
- Sau đó, đại diện của tổ 2 sẽ giới thiệu về vở diễn; các thành viên lên diễn
lại tiểu phẩm mà các em đã chuẩn bị.
- Đại diện của tổ 4 sẽ chủ động đưa ra các câu hỏi hội thảo để tất cả thành
viên trong lớp tham gia; tổ chức cho các bạn thảo luận xoay quanh giá trị nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- - 16


- Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đánh giá và cho điểm từng phần.
Để tránh nhàm chán và tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập giữa các
tổ, tôi thường thay đổi nhiệm vụ theo kiểu luân phiên giữa các tổ để tổ nào
cũng được “thử sức” với các nhiệm vụ khác nhau.
Khi tiến hành thử nghiệm dạy học theo phương pháp này tôi nhận thấy

rằng, những giờ dạy học đó không chỉ đem lại hứng thú cho học sinh, rèn luyện
được nhiều kĩ năng sống quan trọng cho các em mà còn tạo thêm niềm say mê
nghề nghiệp, niềm tin yêu học sinh của giáo viên. Điều thú vị là 100% học sinh
trả lời rất thích học những giờ học kiểu như thế này.
2.4. Kết quả kiểm chứng:
Sau một năm thực hiện thí điểm các biện pháp rèn luyện kỹ năng sống
cho học sinh lớp 12 GDTX .Đặc biệt qua môn Ngữ văn ở 2 lớp 12A và 12B của
Trung Tâm GDNN-GDTX Cẩm Thủy, tôi nhận thấy: kết quả học tập đã có
những chuyển biến đáng mừng, nhiều em tiếp thu bài chủ động, có chiều sâu,
phát huy cá tính sáng tạo; những kỹ năng sống quan trọng như kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề…được
hình thành và phát triển bền vững; hứng thú dạy và học ở cả thầy và trò đều
tăng lên đáng kể.
Kết quả khảo sát chất lượng và thăm dò ý kiến học kì II của học sinh tại
2 lớp 12A và 12B như sau:
Học lực
- 2% xếp loại giỏi
- 43% xếp loại khá

Kĩ năng

Hứng thú học tập

- 60% các em có kĩ năng giao - 70% hứng thú cao
tiếp tốt.
với môn học.

- 55% xếp loại trung - 65% tự nhận thức được năng - 65% tích cực tham
lực, sở thích, sở trường của bản gia đối thoại, xây dựng
bình

thân, hoàn cảnh của gia đình, bài.
nhu cầu của xã hội.
- 60% có khả năng tự giải quyết - Số học sinh trây lười,
- Không còn học các vấn đề của bản thân, của tập không làm việc trong
sinh yếu - kém
thể hợp lí, hợp tình
mỗi giờ học còn không
đáng kể
So với đầu năm học: không khí giờ học văn trì trệ, nặng nề, mỗi lớp trong
mỗi giờ học chỉ khoảng 3 - 4 em giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài; thi khảo
sát chất lượng đầu năm không có bài đạt điểm 8 trở lên, điểm khá chỉ có
15/61em, điểm dưới 4 có tới 20/61em; Rất nhiều em không thể diễn đạt một
vấn đề một cách trôi chảy, nhiều em không tự nhận thức được cái “vốn” của
mình, cũng không biết mục đích của mình học để làm gì; đa số các em giải
- - 17


quyết các vấn đề khoa học cũng như đời sống một cách thụ động, thiếu tính
hợp lí…
Kết quả này là nguồn động viên rất lớn đối với bản thân tôi và đó là tiền
đề vững chắc cho những năm tiếp theo để tôi có thể làm tròn nhiệm vụ của một
người thầy đúng nghĩa- không chỉ dạy “chữ” mà còn góp phần dạy “người”.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết Luận
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa việc rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội các em
không chỉ học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kỹ năng
sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, nan toàn, tích cực, vui
vẻ.Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh 12 sẽ trang bị cho các em vốn kiến
thức kỹ năng giá trị sống để làm hành trang bước vào đời .chính vì vậy các thầy

cô luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng.Vì thế theo bản thân để làm tốt việc rèn
kỹ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải: Xác định rõ tầm quan
trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học sinh.
Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung
sống; đồng thời xuất phát từ yêu cầu mới của công việc giảng dạy- lấy học sinh
làm trung tâm, cho nên việc thể nghiệm những biện pháp trên vào việc dạy học
ngữ văn lớp 12 không nằm ngoài mục đích phục vụ mục tiêu và yêu cầu ấy.
Việc làm này không chỉ có tác dụng nâng cao việc dạy – học của thầy trò mà còn có tác dụng rèn luyện học sinh thành những người có kĩ năng thích
ứng với đời sống ngày càng đa dạng và phức tạp đặc biệt là học sinh GDTX.
Vấn đề rèn kỹ năng sống cho học sinh không phải là vấn đề mới mà chỉ
là một cách làm cụ thể trong quá trình lên lớp hằng ngày của giáo viên, hướng
tới thực hiện mục tiêu chung của nghành. Để thực hiện một cách có hiệu quả
những giải pháp trên với những tiết dạy cụ thể, đòi hỏi giáo viên phải thực sự
có tâm huyết, yêu nghề, có các phương tiện hiện đại máy chiếu để hỗ trợ hỗ trợ
trong quá trình giảng dạy.
Rèn kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh lớp 12 GDTX nói
riêng, đây cũng không phải là những giải pháp duy nhất mà trong quá trình dạy
học người giáo viên còn phải biết vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, cách
thức khác tùy thuộc vào nội dung bài học và đối tượng học sinh cụ thể. Hơn
nữa, cần phải có sự phối hợp, quan tâm thỏa đáng hơn từ phía nhà trường, gia
đình và các tổ chức xã hội khác, không nên quá đề cao mục đích “học” của học
sinh. Mà nên tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Đây là hành
trang giúp các em tự tin hơn khi bước vào cuộc sống tự lập.
- - 18


Chúng ta biết rằng giáo dục là một quá trình tác động qua lại là quá trình
hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ đa dạng, được tổ chức có mục
đích có kế hoạch của các nhà giáo dục và người được giáo dục để hình thành
nhân cách hoàn thiện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa không những dạy chữ

mà còn dạy người.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta khi yếu tố con người
được coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của
con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã
hội.Thực tế hiện nay nghành giáo dục đào tạo đã được nhà nước quan tâm đưa
lên quốc sách hàng đầu thì việc dạy chữ nói chung và việc rèn kỹ năng sống nói
riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói: “khoa học mà
không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh hồn” mà hành vi đạo đức
đó chính là kỹ năng sống của học sinh vì vậy việc rèn kỹ năng sống cho học
sinh là cần thiết biết bao.
Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng
sống cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giúp các em có thể tự
lập trong cuộc sống đem lại niềm vui và hạnh phúc cho các em cho gia đình
cho xã hội. Rất mong được sự sự góp ý của các đồng nghiệp để bản thân có
được những kinh nghiệm bổ ích.
3.2. Kiến nghị :
Là giáo viên bản thân luôn hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng
người. vì vậy bản thân luôn cố gắng trau dồi kiến thức, học hỏi từ đồng nghiệp
cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và
chuyên môn. Bản thân luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các
em học sinh được nói được diễn đạt bày tỏ ý kiến của mình để có cơ hội phát
triển toàn diện.
- Đối với nhà trường:
Theo phương châm của giáo dục hiện nay là “Học để biết học để chung
sống, học để tự khẳng định mình”. Nên nhà trường cần tăng cường công tác
giáo dục kỹ năng sống cho các em là việc làm rất cần thiết để các em hiểu
thêm về vai trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường dưới nhiều hình thức.
Cần tổ chức nhiều các hoạt động vui chơi, giải trí cho các em để cho các
em có được sân chơi lành mạnh bổ ích.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình trong việc rèn

kỹ năng sống cho học sinh
- Đối với sở GD và ĐT :

- - 19


Các cấp lãnh đạo thường xuyên tập huấn các lớp học giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh .
Nếu kỹ năng sống trở thành một môn học riêng biệt để giảng dạy thì tôi tin
rằng nó sẽ có ích rất nhiều cho học sinh cả trong học tập và trong cuộc sống.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh 12 thông qua môn ngữ văn .chắc chắn những kinh nghiệm của tôi
còn nhiều hạn chế .Vậy kính mong các đồng nghiệp giúp đỡ tôi đạt được kết
quả tốt đẹp hơn trong công tác giảng dạy .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN, ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
CỦA ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 08 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Bùi Thị Thiêm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập I Tập II –NXB Giáo dục .
[2]. Sách giáo viên ngữ văn 12 Tập I. II NXB Giáo dục .
[3]. Thiết kế bài giảng ngữ văn 12 tập II NXB giáo dục .
[4]. Ngô Thị Tuyên cẩm nang giáo dục kỹ năng sống cho học sinh .NXB

giáo dục.
[5]. Từ điển tiếng Việt- Hoàng Phê chủ biên- Trung tâm từ điển học 2006.
[6]. Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học- GS Trần Bá Hoành-TS
[7]. Nguyễn Trọng Hoàn Đại học Sư Phạm Hà Nội. 2005.
[8]. Phương pháp dạy học - GS Phan Trọng Luân- NXB Giáo dục. 2000
Tạp chí dạy học ngày nay- Nhiều tác giả- NXB Giáo dục. 2006

- - 20


MỤC LỤC

STT
I

II

III

Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu

1.4. Phương pháp nghiên cứu

1
2
2
2

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.3. Một Số giải pháp cụ thể
1. Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống
2. Tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học
3. Sử dụng phương pháp học nhóm một cách hiệu quả
4. Tổ chức dạy học tác phẩm văn học theo phương pháp trò chơi
2.4. Kết quả kiểm chứng

3
4
6
6
9
11
14
16

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


17

3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

17
19

- - 21


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG TTGDNN – GDTX CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 12 THÔNG QUA MÔN NGỮ VĂN

Người thực hiện: Bùi Thị Thiêm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TTGDNN – GDTX Cẩm Thủy
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2018

- - 22




×